Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với tính tất yếu và những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.89 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA MARKETING

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Liên hệ với tính tất yếu và những đặc điểm cơ bản của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nhóm thảo luận: 4
Mã lớp học phần: 2062HCMI0121
Giảng viên hướng dẫn: Lại Quang Mừng

Hà Nội - 2020


1.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

1.1.

hội
Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ

1.1.1.

nghĩa
Khái quát chung về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội được hiểu theo bốn nghĩa: (1) Là phong trào thực tiễn,


phong trào đấu tranh của nhân dân lao động chống lại áp bức, bất công chống
các giai cấp thống trị; (2) Là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải
phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất công; (3) Là một khoa học –
chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân;
(4) Là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
Sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội CSCN là một tất yếu khách quan:
+) Nhờ những bước tiến to lớn của lực lượng sản xuất, biểu hiện chung
nhất là sự ra đời của công nghiệp cơ khí, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra bước phát
triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Trong vòng chưa đầy một thế kỷ, chủ
nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản
xuất mà nhân loại tạo ra đến lúc đó. Tuy nhiên lực lượng sản xuất càng được cơ
khí hoá, hiện đại hoá càng mang tính xã hội cao thì càng mâu thuẫn với quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Quan hệ sản xuất từ chỗ đóng vai trò mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển, thì ngày càng trở nên lỗi thời, kìm hãm lực lượng sản xuất. Cuộc đấu tranh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ đầu và ngày càng
trở nên gay gắt và có tính chính trị rõ nét.
+) Sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành thực sự của giai
cấp công nhân là tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế-xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
không tự nhiên ra đời, nó chỉ được hình thành thông qua cách mạng vô sản dưới
sự lãnh đạo của đảng của giai cấp công nhân – Đảng Cộng sản.
2


1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội


Chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, dân tộc, xã hội, giải phóng con người và

tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện: Để giải phóng con người và tạo
điều kiện cho con người phát triển toàn diện, chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ tận gốc




gây nên tình trạng áp bức bóc lột giữa giai cấp và con người.
Do nhân dân lao động làm chủ
Đặc trưng thể hiện thuộc tính bản chất của xã hội chủ nghĩa: vì con người và do



con người.
Quyền làm chủ được thể hiện thông qua Nhà nước Xã hội chủ nghĩa với hệ



thống pháp luật và hệ thống tổ chức ngày càng hoàn thiện và hiệu quả.
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lương sản xuất hiện đại và chế độ



công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Nhà nước kiểu mới mang bản chất của giai cấp công nhân, đại diện quyền lợi



cho nhân dân lao động:
Đó là nhà nước chuyên chính vô sản, là một công cụ, phương tiện đồng thời là




sự biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với các



thế lực áp bức, bó lột, đi ngược lại với con đường xã hội chủ nghĩa.
Có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của
dân tộc và nhân loại: Quá trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải kế
thừa những giá trị văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Chống tư tưởng



và văn hóa phi vô sản trái với phương hướng đi lên của xã hội chủ nghĩa.
Bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, có quan hệ hợp tác hữu nghị, hợp
tác với nhân dân các nước trên thế giới.
1.2. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1 Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Các quan hệ của chủ nghĩa xã hội không tự nảy sinh trong lòng chủ nghĩa
tư bản, mà chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, thời kì quá độ là để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.



Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra
những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ

3



nghĩa. Do đó, cũng cần có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những


quan hệ đó.
Nghiên cứu tiến trình vận động của lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã
khẳng định, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chắc chắn sẽ bị thay thế
bằng phương thức cộng sản chủ nghĩa. Đó là một quy luật khách quan của lịch
sử.
- Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất-kĩ thuật nhất định cho chủ nghĩa
xã hội, nhưng muốn những cơ sở vật chất đó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần



có thời gian tổ chức, sắp xếp lại.
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa muốn tiến lên
chủ nghĩa xã hội, thời kì quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật cho
chủ nghĩa xã hội có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm là tiến hành công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội, dù đã có công nghiệp, có cơ sở vật chất-kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản
tiến bộ đến đâu cũng chỉ là những tiền đề vật chất. Muốn có cơ sở vật chất-kĩ
thuật của chủ nghĩa khoa học, các nước này cần phải tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn những
thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới xã
hội chủ nghĩa có trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa một cách hợp lí, hiệu quả hơn.



Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội

là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực
hiện thông qua công nghiệp nghiệp hóa hiện đại hóa. Đó là một nhiệm vụ vô
cùng to lớn và đầy khó khăn, không thể “đốt cháy giai đoạn” được.
- Công cuộc xây dựng là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp, cần
phải có thời gian để giai cấp công nhân làm quen với những công việc mới.



Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế-xã
hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau.
1.2.2Đặc điểm của thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội
4


1. Trên lĩnh vực kinh tế
-

Thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội tồn tại nền kinh tế nhiều

-

thành phần, trong đó có thành phần đối lập.
Lênin cho rằng thời kì quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế gia trưởng,
kinh tế hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ
nghĩa.
2. Trên lĩnh vực chính trị

-

Sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ

đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với

-

những phần tử thù địch, chống lại nhân dân.
Tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản.
3. Trên lĩnh vực văn hoá

-

Tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản.
Giai cấp công nhân từng bước xây dựng văn hoá vô sản, nền văn hoá mới xã hội
chủ nghĩa.
4. Trên lĩnh vực xã hội

-

Tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp, tầng lớp vừa

-

hợp tác vừa đấu tranh với nhau.
Tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc và lao

-

động chân tay.
Là thời kì đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công xoá bỏ tệ nạn xã hội và
những tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.


5


2. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1 Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
-

bản chủ nghĩa ở Việt Nam:
Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển của
thế giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã bác bỏ hoàn toàn
những luận điệu xuyên tạc, đồng thời chứng minh rằng, nước ta quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận
động tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “Đặc
điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội
và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh
tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều
khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Trong xu thế vận động
chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng
của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử… Đây là một quá
trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
bắt đầu từ năm 1954 ở Miền Bắc và năm 1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu
quá độ gián tiếp. Đó là sự lựa chọn tất yếu dựa trên những căn cứ sau:
+ Thứ nhất, căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở

những nước nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Thứ hai, căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở
đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó cũng là
thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nên nhiều nước đã đi lên
6


chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam,
Cu Ba, Triều Tiên, Lào…
+ Thứ ba, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt
Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Sau khi giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng
tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan
là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa
nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính
quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh côngnông-trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân,
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất-kỹ thuật cho CNXH.
+Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của
nước ta chứng minh rằng, quá độ lên CNXH là con đường duy nhất để nước ta
thoát khỏi ách đô hộ của thực dân đế quốc, để thực hiện thành công cách mạng
giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”,
“chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
-

áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Như vậy, cả từ phương diện lý luận và thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại
suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu
tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, là hoàn
toàn phù hợp với xu thế của thời đại, Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa
chọn của chính nhân dân lao động nước ta khi theo Đảng làm cách mạng là
muốn có cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư
bản còn có tiềm năng phát triển về kinh tế, chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở
Liên Xô và Đông Âu, nhưng Đảng ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội, đó
là con đường duy nhất đúng đắn. Chủ nghĩa xã hội vẫn là khuynh hướng phát
7


triển khách quan của thời đại. Nó không chỉ là lý tưởng mà là hiện thực sinh



động trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
2.2. Đặc điểm của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Về kinh tế: thời kỳ bao gồm những mảng, những phần, những bộ phận của chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội xen kẽ nhau, tác động với nhau, lồng vào nhau,
nghĩa là tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, do đó tồn tại nhiều
thành phần kinh tế vừa hợp tác thống nhất nhưng lại vừa mâu thuẫn và cạnh
tranh gay gắt với nhau (C.Mác gọi đây là thời kỳ đau đẻ kéo dài). Thời kỳ này
bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng



xong về cơ bản cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội.
Về chính trị: Những nhân tố của xã hội mới và tàn dư của xã hội cũ tồn tại đan

xen lẫn nhau, đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng, tập quán trong xã hội. Xã hội lúc này tồn tại nhiều

-

thành phần với nhiều tư tưởng khác nhau.
2.3. Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 8 phương

-

hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh

-

tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con

-

người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã

-

hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp


-

tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân

-

tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất:
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân

-

dân, vì nhân dân:
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

8


2.4. Thành tựu Việt Nam đạt được trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trong những năm gần đây:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp,
cho nên thời kỳ quá độ ở nước ta rất lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhưng cơ cấu, tính chất,
vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to
lớn về kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, về tốc độ tăng trưởng kinh tế:

Trong hơn 30 năm qua (1986-2017), tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta, tuy
có sự dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung bình khu vực và thế
giới với mức tăng bình quân cả thời kỳ gần 7%/năm. Nếu như giai đoạn 19861990, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta chỉ đạt 4,4%/năm, thì đến giai đoạn
1991-1995 là 8,2%/năm; giai đoạn 1996-2000 là 7,6%/năm; giai đoạn 20012005 là 7,34%; giai đoạn 2006-2010 là 6,32%/năm; năm 2016 là 6,21% và năm
2017 là 6,81%.
Chất lượng tăng trưởng từng bước được cải thiện, trình độ công nghệ trong
sản xuất được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP) vào tăng trưởng GDP giai đoạn 2001-2005 đạt 21,4%, giai đoạn 20062010 đạt 17,2%, đến giai đoạn 2011-2015 tăng lên 28,94%. Kinh tế vĩ mô ổn
định, lạm phát được kiểm soát, nợ công có xu hướng giảm dần, dự trữ ngoại tệ
tăng, đạt mức an toàn. Thu nhập bình quân đầu người từ khoảng 100
USD/người/năm vào năm 1986, lên 471 USD/người/năm vào năm 2003. Năm
2015, quy mô nền kinh tế nước ta đạt 204 tỷ USD, bình quân đầu người 2300
USD/người/năm. Năm 2017, quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành đạt 5.007,9
nghìn tỷ đồng, tương ứng hơn 220 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người
khoảng 2385 USD/người/năm.
9


Thứ hai, về kết quả huy động nguồn vốn đầu tư:
Giai đoạn 1986-2017, để tạo nguồn lực tài chính cho phát triển, Đảng và
Nhà nước ta đã khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức chính trị, xã hội, các thành
phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế. Kết quả là tổng vốn đầu tư toàn xã
hội của nước ta ngày càng tăng. Nếu như giai đoạn 1998-2000, tổng vốn đầu tư
toàn xã hội đạt 117,9 nghìn tỷ đồng, đến năm 2017 đạt 1667,4 nghìn tỷ đồng,
tăng gấp hơn 14 lần so với giai đoạn 1998-2000. Cơ cấu vốn đầu tư theo thành
phần kinh tế cũng có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, thể hiện ở chỗ: vốn
đầu tư phát triển của khu vực nhà nước đã giảm xuống; khu vực ngoài nhà nước
và khu vực có vốn ĐTNN tăng lên. Nếu như giai đoạn 1986-2000, vốn đầu tư
của khu vực kinh tế nhà nước chiếm 54,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; khu vực
kinh tế là 24,1%; khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là 21,6% thì đến năm 2017, cơ

cấu vốn đầu tư theo thành phần lần lượt là: 35,6%; 40,6% và 23,8%.
Thứ ba, về tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu:
Từ năm 1986, nước ta thực hiện mô hình nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế, nhờ đó sức sản xuất trong
nước được giải phóng, các thành phần kinh tế phát triển, đầu tư trực tiếp nước
ngoài ngày càng tăng. Nhu cầu tiêu thụ, trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước
và quốc tế không ngừng mở rộng. Do đó, xuất nhập khẩu hàng hóa tăng đột
biến, nếu năm 1986 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu mới đạt 2.944 triệu USD,
trong đó, xuất khẩu đạt 789 triệu USD, nhập khẩu 2.155 triệu USD, thì năm
2017, tức là sau 31 năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 425 tỷ USD,
trong đó xuất khẩu đạt 213,96 tỷ USD, nhập khẩu đạt 211,04 tỷ USD, xuất siêu
hơn 2,9 tỷ USD.
Thứ tư, về các vấn đề an sinh xã hội:
Với mục tiêu định hướng XHCN, Đảng ta luôn thống nhất quan điểm tăng
trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Do đó, các vấn đề về
an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo, hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi cho
mọi người đều phát triển khá đồng bộ và ngày càng được cải thiện.
10


Vấn đề lao động việc làm, năng suất lao động và tỷ lệ thất nghiệp đều phát
triển theo hướng tích cực. Cụ thể: Số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, tăng từ 37.975 nghìn người vào
năm 2000, lên 53.718 nghìn người vào năm 2017 tăng 41,4%, bình quân mỗi
năm tăng 2,4%/năm; năng suất lao động xã hội năm 2005 đạt 21,4 triệu
đồng/người, đến năm 2017 đạt 93,2 triệu đồng/người. Như vậy, trong vòng 12
năm, năng suất lao động xã hội tăng 3,35 lần, bình quân tăng 27,9%/năm; tỷ lệ
thất nghiệp ở nước ta thấp và có xu hướng giảm dần từ 2,88% năm 2010, xuống
2,24% vào năm 2017.
Vấn đề xóa đói, giảm nghèo là một trong nhiệm vụ quan trọng của Đảng,

Nhà nước, các cấp chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội và của toàn dân, được
tổ chức thực hiện nghiêm túc, chu đáo, từ khâu xác định chuẩn nghèo cho từng
giai đoạn phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và mức sống bình quân
của dân cư. Các chương trình, dự án đầu tư nhằm tạo điều kiện cho các hộ
nghèo, vùng đặc biệt khó khăn để mọi người tham gia sản xuất kinh doanh vươn
lên thoát nghèo và trở thành hộ khá giả, nên hộ nghèo cả nước đã giảm dần qua
các giai đoạn phát triển. Nếu xét theo chuẩn nghèo qua các giai đoạn từ 19931995 và 1997-2000 thì tỷ lệ hộ nghèo năm 1993 là 58%, giảm xuống 37,4% vào
năm 1998. Áp dụng chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005, năm 2002 tỷ lệ hộ nghèo
là 28,9%, năm 2004 là 23,2%. Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010, năm
2007 tỷ lệ hộ nghèo là 14,8%, năm 2009 là 11% và năm 2010 là 9,45%. Căn cứ
chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ hộ nghèo năm 2011 là 11,76%, năm
2014 là 8,4%, năm 2015 là 7,1%. Năm 2015, Chính phủ có quyết định số
59/2015/QĐ-TTg về chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 20162020, theo tiêu chuẩn đó thì tỷ lệ hộ nghèo năm 2016 là 8,93%, năm 2017 là
6,72% . Chương trình xóa đói giảm nghèo ở nước ta được các tổ chức quốc tế
đánh giá là thành công và đó là do sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước, chính quyền
các cấp, các đoàn thể chính trị, xã hội, của toàn dân và đặc biệt là nỗ lực thoát
nghèo của bản thân các hộ nghèo.
11


Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được quan tâm như:
Tích cực triển khai nhiều giải pháp giảm quá tải bệnh viện; Tập trung đầu tư xây
dựng hệ thống các bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh và tuyến cuối. Đội ngũ cán
bộ y tế phát triển cả về số lượng và chất lượng đối với cả y tế công lập và tư
nhân. Riêng đối với y tế công lập, số cơ sở khám chữa bệnh năm 1986 là 11.600
cơ sở, năm 2016 là 13.591 cơ sở, đạt tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1986-2016
là 0,6%/năm; số giường bệnh tăng bình quân 47,2%/năm; số bác sĩ tăng bình
quân 9,8%/năm.
Tuổi thọ trung bình của nước ta tăng, đạt 73,3 tuổi vào năm 2015; năm
2016 là 73,4 tuổi; năm 2017 là 73,5 tuổi, vượt xa các nước có thu nhập thấp (58

tuổi) và cao hơn các nước có thu nhập trung bình (71 tuổi).
Số trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng, theo báo cáo của Viện dinh dưỡng
trước cơ quan truyền thông ngày 12-10-2018 thì suy dinh dưỡng thể thấp còi là
23,8%, thể nhẹ cân là 13,4% và đang có xu hướng giảm dần.

12



×