Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA DOANH NGHIỆP SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.86 KB, 24 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA
DOANH NGHIỆP SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
I. Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu của doanh nghiệp
1. Khái niệm về xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc
gia khác. Xuất khẩu được coi là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít
rủi ro và chi phí thấp. Dưới giác độ kinh doanh, xuất khẩu là việc bán các hàng
hoá, dịch vụ. Dưới giác độ phi kinh doanh như làm quà tặng hoặc viện trợ
không hoàn lại thì hoạt động đó lại là việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ qua
biên giới quốc gia. (5, Trang 272)
2. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp
Khi tham gia kinh doanh trên thị trường quốc tế, mục tiêu của các doanh
nghiệp là mở rộng thị trường, tăng doanh số bán, tiếp thu kinh nghiệm. Xuất
khẩu là phương thức thâm nhập thị trường quốc tế ít rủi ro và chi phí thấp nên
được rất nhiều doanh nghiệp áp dụng trong thời gian đầu khi mới thâm nhập
vào thị trường quốc tế.
Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, có thể coi nó là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất khẩu mang lại cho doanh
nghiệp nguồn lợi nhuận không nhỏ thông qua việc tăng doanh số bán. Đây là
vai trò quan trọng nhất của xuất khẩu đối với doanh nghiệp.
Trên thị trường quốc tế, mức độ cạnh tranh gay gắt hơn nên doanh nghiệp
phải không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá, phải khẳng định được uy tín
và thương hiệu của mình. Một khi doanh nghiệp có uy tín trên thị trường quốc
tế thì cũng tạo được sự tin tưởng lớn hơn đối với khách hàng trong nước. Nhờ
đó, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường nội địa sẽ cao hơn,
sức tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp tăng lên đáng kể, lợi nhuận cũng sẽ tăng
lên.
Xuất khẩu giúp doanh nghiệp tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý kinh
doanh, công nghệ, vốn, thị trường… và những bài học quốc tế quý giá. Từ đó,
họ có được những thủ thuật, chiến lược kinh doanh giúp việc kinh doanh có
hiệu quả hơn.


3. Các hình thức xuất khẩu
3.1 Xuất khẩu trực tiếp
Là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty cho các khách hàng ở thị
trường nước ngoài. Công ty sẽ thực hiện tất cả các chức năng của xuất khẩu.
3.2 Xuất khẩu gián tiếp
Là việc các công ty bán hàng hoá ra thị trường nước ngoài thông qua người
thứ ba (trung gian thương mại). Các trung gian thương mại chủ yếu trong kinh
doanh xuất khẩu là các đại lý, nhà môi giới. Với hình thức xuất khẩu này công
ty sẽ ít gặp rủi ro hơn nhưng lại thiếu sự liên hệ với thị trường, không kiểm soát
được thị trường và có thể mất đi những cơ hội kinh doanh.
3.3 Tái xuất khẩu
Là hình thức kinh doanh xuất khẩu mà công ty xuất khẩu trở lại ra nước
ngoài những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu, không qua chế biến, gia
công tại nước tái xuất, nhằm thu về lượng ngoại tệ lớn hơn lượng ban đầu bỏ ra.
Luôn có ba chủ thể tham gia trong hình thức xuất khẩu này: bên xuất khẩu, bên
tái xuất khẩu và bên nhập khẩu.
3.4 Xuất khẩu đối lưu
Là hình thức mua bán hàng hoá quốc tế trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá bán đi có
giá trị tương đương với lượng hàng hoá nhận về. Nhờ hình thức kinh doanh này,
các bên có được hàng hoá phục vụ cho nền kinh tế đất nước khi thiếu ngoại tệ
để nhập khẩu, giảm được các thủ tục phức tạp về thanh toán.
3.5 Gia công quốc tế
Là hình thức kinh doanh quốc tế trong đó một bên (bên đặt gia công) sẽ cung
cấp nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho bên khác (bên nhận gia công) để
chế biến ra sản phẩm theo yêu cầu, giao lại cho bên kia để nhận một khoản tiền
(được gọi là phí gia công)
3.6 Xuất khẩu tại chỗ
Là hình thức kinh doanh xuất khẩu còn khá mới nhưng đã được phổ biến
rộng rãi. Các doanh nghiệp bán hàng hoá, cung cấp các dịch vụ của mình cho

các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân nước ngoài ngay trên lãnh thổ quốc gia
mình. Do đó, giảm được chi phí cũng như rủi ro, góp phần gia tăng lợi nhuận.
3.7 Xuất khẩu uỷ thác
Là hình thức kinh doanh xuất khẩu trong đó các công ty chỉ đóng vai trò
trung gian xuất khẩu thực hiện những thủ tục cần thiết để xuất hàng thay cho
nhà sản xuất và hưởng phí uỷ thác.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng may mặc của doanh nghiệp
4.1 Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp

Nhân tố kinh tế
Kinh tế ngày càng phát triển, sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản
xuất ngày càng sâu sắc. Ngành sản xuất hàng may mặc có xu hướng chuyển dần
từ các nước công nghiệp mới NICs sang các nước đang phát triển. Mặt khác,
nhu cầu hàng may mặc ngày càng lớn. Đây là điều kiện thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu hàng may mặc phát triển.
Nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến quan trọng trong những năm gần
đây. Đặc biệt là sự gia tăng của hoạt động mua bán quốc tế. Số lượng các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu hàng may mặc ngày càng nhiều, làm
ăn ngày càng có hiệu quả. Nhà nước và các Bộ ngành cũng tạo điều kiện thuận
lợi như cung cấp thông tin, tạo khung pháp lý… cho các doanh nghiệp xuất
khẩu phát triển.
Hiện nay, giá cả của các mặt hàng trên thế giới có xu hướng ngày càng gia
tăng, trong đó có giá nguyên phụ liệu phục vụ ngành may mặc. Mà Việt Nam
chủ yếu sử dụng nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu nên giá thành của sản phẩm
sẽ cao hơn, do đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị
trường thế giới.
• Nhân tố chính trị
Ảnh hưởng đến sự hình thành các cơ hội thương mại cũng như khả năng hạn
chế rủi ro, thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh trên thị
trường quốc tế. Chính trị ổn định thì việc kinh doanh sẽ giảm bớt được rủi ro, có

thể dự báo trước những rủi ro, thực những kế hoạch kinh doanh dài hạn do nhu
cầu của khách hàng thay đổi từ từ, có thể dự báo được. Ngược lại, chính trị
không ổn định rủi ro sẽ rất lớn do nhu cầu thay đổi đột ngột, các hoạt động diễn
ra khó khăn hơn…
Nước ta có tình hình chính trị ổn định trong suốt thời gian qua. Đây là một
lợi thế lớn đối với các doanh nghiệp nước ngoài muốn hợp tác làm ăn với các
doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các
nước trên thế giới không ngừng được mở rộng. Hiện nay, nước ta có quan hệ
ngoại giao với hơn 171 nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ buôn bán với trên
100 nước và khu vực trên thế giới (trong đó có hiệp định thương mại với 64
nước), có quan hệ buôn bán với hàng nghìn tổ chức kinh tế thương mại của các
nước. Điều này có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, sự ổn định về chính trị của các nước
có quan hệ làm ăn với Việt Nam cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp may
mặc Việt Nam cơ hội tìm hiểu thông tin và nắm bắt được các cơ hội kinh doanh
ở từng thị trường, khu vực.
• Nhân tố luật pháp
Hoạt động xuất khẩu không chỉ chịu ảnh hưởng của luật pháp quốc gia mà
còn chịu ảnh hưởng lớn của luật pháp và thông lệ quốc tế. Hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, công bằng, minh bạch là một tiền đề quan trọng trong kinh doanh.
Tuy nhiên hệ thống luật pháp của nước ta còn thiếu, chưa đồng bộ, tốc độ hoàn
thiện còn chậm, chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế, một số thủ tục
hành chính còn rườm rà, chính sách thay đổi liên tục… Đây là bất lợi lớn đối
với các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng các kế hoạch, các chiến
lược phát triển, trong việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh, cơ hội thu hút đầu tư
trên trường quốc tế. Trong những năm gần đây, nước ta đã nỗ lực hoàn thiện hệ
thống luật pháp theo tiêu chí đầy đủ, công khai, minh bạch và công bằng, thực
hiện cải cách hành chính theo cơ chế một cửa. Xác định dệt may là một trong
những ngành chiến lược của nước ta nên nước ta luôn có những văn bản pháp

luật để hướng dẫn cũng như quy định về xuất khẩu, có những quy định ưu đãi
cho các doanh nghiệp dệt may như: không phải nộp thuế nhập khẩu và thuế giá
trị gia tăng đối với nguyên phụ liệu nhập khẩu từ nước ngoài hoặc mua trong
nước phục vụ nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu; hồ sơ xin Visa được giảm bớt
nhiều giấy tờ; nếu thực hiện đầu tư mới thì thu nhập thu được từ sự đầu tư đó
được giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm tiếp theo; các doanh
nghiệp xuất khẩu dệt may với số lượng dưới 20 tấn không cần phải có sự phê
duyệt của liên bộ...
Bên cạnh đó cũng còn một số quy định làm giảm khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước so với các đối thủ nước ngoài. Ví dụ như quy định
của Bộ tài chính về chi phí dành cho quảng cáo của doanh nghiệp không quá
7% tổng chi phí (trong khi đó, các doanh nghiệp nước ngoài được phép dành tối
đa 50% tổng chi phí cho hoạt động quảng cáo. Điều này làm hạn chế khả năng
mở rộng thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam.
Luật pháp nước ngoài cũng ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp xuất
khẩu hàng may mặc. Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và khu
vực nên đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất
khẩu nói chung phải hiểu biết về các quy định cũng như luật pháp của các nước
và các tổ chức mà doanh nghiệp tham gia kinh doanh. Việt Nam là thành viên
của WTO thì phải thực hiện quy định về hàng dệt may (ATC), tức là các nước
phải dỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch dệt may giai đoạn cuối cùng là 01/01/2005. Là
thành viên của ASEAN thì phải tuân thủ các điều khoản của CEPT/AFTA, tức
là phải giảm thuế xuất nhập khẩu xuống từ 0 – 5% trong vòng 10 năm…

Các rào cản đối với hàng may mặc xuất khẩu
Một số quốc gia thường dùng các biện pháp về thuế, hạn ngạch, các rào cản
kỹ thuật để bảo vệ ngành may mặc trong nước, ngăn chặn hàng may mặc từ
nước ngoài vào. Nhưng do xu hướng mậu dịch tự do hiện nay nên các nước đó
phải xoá bỏ dần các biện pháp về thuế, hạn ngạch đồng thời tăng dần các rào
cản kỹ thuật. Các rào cản thường được các nước nhập khẩu hàng may mặc áp

dụng là: tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn về môi trường, trách nhiệm
xã hội, luật chống bán phá giá.
Các yêu cầu về chất lượng sản phẩm được tiêu chuẩn hoá thành hệ thống tiêu
chuẩn chất lượng ISO. Các hệ thống chất lượng như ISO 9000 – 2000, ISO
9000 – 1994 được xem như là giấy thông hành khi các doanh nghiệp tham gia
kinh doanh xuất khẩu.
Không chỉ yêu cầu về chất lượng, các doanh nghiệp nhập khẩu còn yêu cầu
về vấn đề bảo vệ môi trường khi sản xuất sản phẩm. Chỉ thị về bao bì và phế
thải bao bì (96/62/EEC), hệ thống quản lý môi trường ISO 1400… là các yêu
cầu về môi trường được tiêu chuẩn hoá. Ngoài ra, một số quốc gia còn tự đưa ra
những quy định, điều kiện khác về môi trường liên quan đến việc sản xuất hàng
may mặc như quy định về dư lượng kim loại nặng trong thuốc nhuộm vải, khoá
kéo, khuy, nhãn mác sinh thái… Đối với các quốc gia đang phát triển thì những
quy định này vượt xa khả năng đáp ứng của nhiều doanh nghiệp, trong số đó có
Việt Nam (chưa doanh nghiệp nào đáp ứng được).
Trách nhiệm xã hội cũng là một yêu cầu khắt khe của một số quốc gia. Sản
phẩm phải được chứng minh là sản xuất trong điều kiện tốt, không có sự phân
biệt đối xử với người lao động, không sử dụng lao động trẻ em… Hệ thống tiêu
chuẩn phổ biến nhất của yêu cầu này là SA 8000. SA 8000 gồm 8 yêu cầu
chính: không sử dụng lao động trẻ em; không sử dụng lao động cưỡng bức; bảo
đảm đối xử bình đẳng đối với công nhân; bảo đảm quyền gia nhập công đoàn
của người lao động; bảo đảm việc trả tiền công đúng theo quy định của pháp
luật và theo cam kết; đảm bảo chế độ về giờ làm việc và giờ làm thêm; bảo đảm
an toàn và vệ sinh lao động tại nơi làm việc; bảo đảm việc thực hiện kỷ luật lao
động không ảnh hưởng tới nhân phẩm và cuộc sống của người lao động. Nó
được xem như giấy thông hành cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc, là
chứng chỉ không thể thiếu được khi các doanh nghiệp thâm nhập thị trường Bắc
Mỹ và Châu Âu. Tuy nhiên, ở nước ta số lượng doanh nghiệp được cập chứng
nhận đạt tiêu chuẩn SA 8000 còn khá ít. Đến nay mới chỉ có 25 doanh nghiệp
được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn này như May 10,Công ty dệt may xuất

khẩu Việt Thắng, công ty xuất nhập khẩu dệt may Việt Tiến… Nguyên nhân chủ
yếu là do chi phí để thực hiện cao và sau 3 năm lại phải làm lại một lần.
Luật chống phá giá do Mỹ áp dụng đối với một số mặt hàng cũng gây khó
khăn cho không ít nước xuất khẩu. Việt Nam bị thiệt hại khá lớn trong hai vụ
kiện bán phá giá của Mỹ đối với mặt hàng cá tra, cá Basa và mặt hàng tôm. Mặt
hàng dệt may cũng đang có nguy cơ bị kiện bán phá giá. Vì vậy, Việt Nam cũng
cần chuẩn bị và cảnh giác với sự kiện này.
• Nhân tố văn hoá xã hội
Yếu tố văn hoá xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất
khẩu của doanh nghiệp. Nhu cầu của khách hàng về may mặc, hành vi mua sắm
của khách hàng chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố văn hoá, nhất là các phong tục
tập quán. Thế giới có rất nhiều nền văn hoá đa dạng với rất nhiều phong tục tập
quán khác nhau. Vì thế, doanh nghiệp cần phải tìm hiểu thật kỹ về văn hoá,
phong tục tập quán của quốc gia mà mình muốn thâm nhập. Đầu tiên phải xem
xét đến yếu tố dân số, nó quyết định quy mô thi trường và tính đa dạng của nhu
cầu. Thông thường dân số càng đông thì thị trường càng lớn, nhu cầu và khối
lượng tiêu thụ sản phẩm càng lớn, khả năng đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh
doanh cho doanh nghiệp càng cao.
Tiếp đến là yếu tố thu nhập và phân bố thu nhập của dân cư. Thu nhập của
khách hàng được phân bổ cho những nhu cầu khác nhau theo các tỉ lệ khác nhau
với mức độ ưu tiên khác nhau. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến sự lựa chọn loại sản
phẩm, giá cả, hình thành nên những quan điểm khác nhau của khách hàng về
chất lượng sản phẩm. Để kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp cần xem xét kỹ
yếu tố này nhằm lựa chọn được sản phẩm thoả mãn nhu cầu của khách hàng cả
về chủng loại, chất lượng và giá cả.
Đặc biệt, doanh nghiệp phải hết sức lưu tâm đến yếu tố chủng tộc, sắc tộc,
tín ngưỡng, tôn giáo và nền văn hoá. Những yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến
sự đa dạng của nhu cầu, quan điểm về sản phẩm, cách thức sử dụng sản phẩm,
thói quen tiêu dùng, tập quán mua sắm… của khách hàng.


Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay phải kể
đến các nước ASEAN như Thái Lan, Indonexia, Philippin, Singapore,… Họ có
nhiều điều kiện thuận lợi hơn chúng ta: có sẵn thị trường, khoa học công nghệ
tiên tiến, các điều kiện phục vụ sản xuất tốt hơn, chi phí rẻ hơn…Tại Châu Á,
Trung Quốc là quốc gia phát triển rất mạnh, hiện chiếm khoảng 20% thị phần
xuất khẩu hàng dệt may. Theo dự báo, đến trong vòng 10 năm tới, con số này sẽ
lên tới 50%. Tại các thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc chiếm khoảng 15% thị
phần, với thị trường EU sẽ tăng từ 18% lên 29%. Việc tăng thị phần của Trung
Quốc tại các thị trường làm cho các quốc gia khác bị mất bớt thị phần tại các thị
trường trên thế giới. Đây là một đối thủ cạnh tranh đáng “gờm” nhất. Hàng
Trung Quốc có ưu điểm là giá rẻ nên dễ xâm nhập thị trường hơn.
Bên cạnh sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh
nghiệp Việt Nam còn phải cạnh tranh với nhau trên thị trường nội địa để giành
hợp đồng, giành quota để vào các thị trường hạn ngạch, rõ nét nhất là sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Điều này có thể làm giảm giá trị của sản phẩm may mặc (chênh
lệch giữa giá nhận đơn hàng của sản phẩm may mặc với giá thành sản xuất ngày
càng ít), dẫn đến hiệu quả sản xuất không cao. Tuy vậy, nó cũng góp phần tạo ra
động lực giúp các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển sản xuất để có thể
giành được chỗ đứng trên thị trường.
4.2 Nhân tố nội bộ doanh nghiệp

Nhân tố con người
Đây là nhân tố quan trọng hàng đầu trong kinh doanh để đảm bảo sự thành
công. Nhờ con người, các yếu tố vốn, kỹ thuật, công nghệ,…mới có thể kết hợp
với nhau để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nếu con
người không có trình độ thì dù máy móc có hiện đại, vốn có lớn đến đâu cũng
không phát huy được tác dụng. Đặc biệt đối với những doanh nghiệp thực hiện
hoạt động xuất khẩu, phải tiến hành hoạt động kinh doanh của mình tại thị

trường nước ngoài, nơi có những đặc điểm hoàn toàn khác hẳn trong nước về thị
hiếu, sở thích, văn hoá, luật pháp… lại xa xôi về mặt địa lý. Nếu đội ngũ cán bộ
công nhân viên không có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, không tổ chức tốt bộ
máy quản lý, mạng lưới thông tin thì việc kinh doanh sẽ không có hiệu quả. Tổ
chức quản lý tốt không chỉ quản lý tốt từng bộ phận mà còn phải gắn kết được
các bộ phận với nhau, tổ chức được mạng lưới thông tin nội bộ doanh nghiệp.
Các bộ phận phòng ban thực hiện những chức năng, nhiệm vụ riêng biệt, tránh
mâu thuẫn, chồng chéo, cạnh tranh không lành mạnh giữa các bộ phận. Thực
hiện tổ chức quản lý tốt làm cho doanh nghiệp trở thành một khối thống nhất,
hoạt động nhịp nhàng, liên tục, hiệu quả cao hơn.
Nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, lao động có tay nghề cao, khéo
léo, dễ đào tạo là một lợi thế của các doanh nghiệp dệt may nước ta. Tuy nhiên,
năng suất lao động còn thấp, chỉ bằng 50 – 60% so với Trung Quốc và các nước
trong khu vực. Do đó, tuy giá nhân công của nước ta rẻ hơn nhưng giá nhân
công tương đối lại cao hơn các nước khác, dẫn đến làm tăng chi phí và giảm lợi
nhuận thu được. Đây là một khó khăn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng
may mặc của nước ta. Mặt khác, lao động trong ngành dệt may nói chung phải
làm việc vất vả nhưng giá lao động thấp nên họ thường có xu hướng chuyển
sang làm trong các ngành khác, gây ra tình trạng thiếu lao động, tốn thêm chi
phí đào tạo lao động mới. Bên cạnh đó còn có sự di chuyển lao động giữa các
doanh nghiệp. Những lao động có tay nghề và trình độ cao thường chuyển từ
doanh nghiệp Nhà nước sang những doanh nghiệp liên doanh, những doanh
nghiệp nước ngoài do mức lương cao hơn và dành cho họ những chế độ ưu đãi
tốt hơn. Điều này dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp trong nước ngày càng bị
thiếu hụt đội ngũ lao động có tay nghề và trình độ cao, ảnh hưởng tới năng suất
lao động của doanh nghiệp.

Nhân tố tài chính
Nhân tố tài chính quyết định quy mô của doanh nghiệp cũng như cơ hội kinh
doanh của doanh nghiệp. Nó phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua

khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào hoạt động kinh doanh
cũng như khả năng phân phối, sử dụng và quản lý có hiệu quả nguồn vốn đó.
Doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh thì sẽ tạo được niềm tin đối với đối
tác, tạo điều kiện tốt để thực hiện công tác nghiên cứu thị trường, nắm bắt được
cơ hội kinh doanh.
Đặc thù của các doanh nghiệp dệt may là phần lớn nguồn vốn kinh doanh sử
dụng là nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại trong nước, các tổ chức tín
dụng nước ngoài (chiếm 70% tổng nguồn vốn kinh doanh). Hiệu quả sử dụng
nguồn vốn này của các doanh nghiệp dệt là không cao do lãi suất cao và có xu
hướng ngày càng tăng. Hiện nay, lãi suất của các ngân hàng tăng từ 12% lên 14
– 15%, dẫn đến làm tăng chi phí về vốn khiến cho các doanh nghiệp khó khăn
hơn trong việc đầu tư sản xuất, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Hiện nay các doanh nghiệp dệt may nước ta đã tiến hành cổ phần hoá nên
huy động được nguồn vốn của cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp nên cũng

×