Tải bản đầy đủ (.docx) (145 trang)

Dạy học truyện ngắn thuốc của lỗ tấn cho học sinh trung học phổ thông theo hướng tiếp cận lịch sử phát sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.08 KB, 145 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐẶNG THỊ NGỌC LAN

DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “THUỐC” CỦA LỖ TẤN
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO
HƢỚNG TIẾP CẬN LỊCH SỬ PHÁT SINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2010

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐẶNG THỊ NGỌC LAN

DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “THUỐC” CỦA LỖ TẤN
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO
HƢỚNG TIẾP CẬN LỊCH SỬ PHÁT SINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN NGỮ VĂN

Mã số: 60 14 10

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Nguyễn Viết Chữ



HÀ NỘI - 2010

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

1.1.

Hiện trạng dạy học các tác phẩm văn chươ
nhà trường Việt Nam hiện nay

1.2.

Vị trí của nhà văn Lỗ Tấn đối với bạn đọc V

1.3.

Các hướng tiếp cận tác phẩm “Thuốc” của

2.

Lịch sử vấn đề

3.


Mục đích ý nghĩa nghiên cứu của đề tài

3.1.

Mục đích

3.2.

Ý nghĩa

4.

Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu

4.1.

Đối tượng

4.2.

Phạm vi

5.

Giả thuyết khoa học

6.

Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu


6.1.

Nhiệm vụ nghiên cứu

6.2.

Nội dung nghiên cứu

7.

Phƣơng pháp nghiên cứu

8.

Những đóng góp mới của luận văn

9.

Cấu trúc và nội dung luận văn

Chƣơng 1: NHÀ VĂN LỖ TẤN VÀ TRUYỆN NGẮN “ THUỐC”
TRONG HƢỚNG TIẾP CẬN LỊCH SỬ PHÁT SINH
1.1.

Lý thuyết về hƣớng tiếp cận lịch sử phát s

3



1.2.

Nhà văn Lỗ Tấn và truyện ngắn “ Thu
cận lịch sử phát sinh

1.2.1.

Bối cảnh lịch sử của đất nước Trung H

và sự ảnh hưởng đến sáng tác của Lỗ T
1.2.2.

Một số yếu tố khác có sự ảnh hưởng đến
sáng tác của Lỗ Tấn

1.3.

Niên biểu văn học của Lỗ Tấn

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “ THUỐC”
CỦA NHÀ VĂN LỖ TẤN TRONG NHÀ TRƢỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG HIỆN NAY
2.1.

Vị trí, vai trò của nhà văn Lỗ Tấn và tr

trong nhà trƣờng trung học phổ thông
2.1.1.

Vị trí, vai trò của nhà văn Lỗ Tấn trong

phổ thông hiện nay

2.1.2.

Vị trí, vai trò của truyện ngắn “ Thuốc”
học phổ thông hiện nay

2.2.

Thực trạng dạy học truyện ngắn “ Thu

Tấn trong nhà trƣờng trung học phổ t
2.2.1.

Thực trạng giảng dạy văn học nước ngo
trung học phổ thông hiện nay

2.2.2.

Khảo sát thực trạng giảng dạy truyện ng

2.3.

Con đƣờng hƣớng đến các giải pháp t

2.3.1.

Yêu cầu chung

2.3.2.


Yêu cầu đối với giáo viên

2.3.3.

Yêu cầu đối với học sinh

4


Chƣơng 3: NHỮNG BIỆN PHÁP DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN 43
“THUỐC” CỦA NHÀ VĂN LỖ TẤN THEO HƢỚNG TIẾP CẬN
LỊCH SỬ PHÁT SINH
3.1.

Những yêu cầu có tính nguyên tắc

3.1.1.

Yêu cầu giảng dạy truyện ngắn

3.1.2.

Đảm bảo nguyên tắc tiếp cận đồng bộ tá
trong nhà trường

3.1.3.

Đặt học sinh là trung tâm, là chủ thể củ


3.2.

Những biện pháp thích hợp khi dạy họ
theo hƣớng tiếp cận lịch sử phát sinh

3.2.1.

Làm rõ các yếu tố của lịch sử tác động v

3.2.2.

Đọc sáng tạo văn bản

3.2.3.

Sử dụng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề, d

3.2.4.

Biện pháp phân tích các biểu tượng

3.2.5.

Biện pháp phân tích nhan đề tác phẩm

3.2.6.

Biện pháp khôi phục lại hiện thực xã hội t

3.2.7.


Phối hợp các biện pháp: Vấn đáp, thảo
diễn xuất, quan hệ liên môn

3.2.8.

Liên hệ thực tế

3.3.

Thiết kế giáo án dạy học truyện ngắn “
theo hƣớng tiếp cận lịch sử phát sinh

3.3.1.

Thiết kế giáo án

3.2.2.

Đánh giá kết quả thể nghiệm

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

5


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng gửi tới PGS.TS Nguyễn Viết Chữ, người hướng dẫn
khoa học, sự biết ơn sâu sắc. Thầy đã tận tâm giúp đỡ tôi trong quá trình học tập

và thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo giảng dạy các bộ môn, Phòng
Đào tạo và công tác sinh viên của Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia
Hà Nội, đã nhiệt tình giúp đỡ, động viên tôi trong suốt khoá học.
Xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu Trường Trung học phổ
thông Thụy Hương, Hải Phòng cùng các bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã
dành cho tôi sự chia sẻ quý báu trong quá trình hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 12 năm 2010
Tác giả luận văn

Đặng Thị Ngọc Lan

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong “ Thư gửi các thày giáo, cô giáo, cán bộ viên chức ngành Giáo dục,
các bậc phụ huynh và các em học sinh, sinh viên cả nước nhân dịp khai giảng
năm học mới 2010 - 2011”, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Nguyễn Minh
Triết chỉ thị: “ Năm học mới 2010 - 2011 là năm học đầu tiên thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, ngành Giáo
dục và Đào tạo phải quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước, tiếp tục đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục với những
giải pháp mạnh mẽ...Tôi đề nghị các Cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức
chính trị, xã hội và toàn thể nhân dân tiếp tục quan tâm, chăm lo nhiều hơn nữa
cho sự nghiệp “trồng người”, tạo điều kiện tốt hơn, đầy đủ hơn cho việc học
tập, rèn luyện và phấn đấu của con em chúng ta”. Chỉ thị đó đã cho thấy sự quan
tâm sâu sắc của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước đến sự nghiệp giáo dục.
Thế giới hiện nay đang bước vào kỷ nguyên của sự hội nhập và toàn cầu

hoá. Bên cạnh đó, sự bùng nổ thông tin cũng đem lại cho “người công dân hoàn
cầu” một tầm vóc mới, yêu cầu phải vượt lên ranh giới quốc gia để không bị tụt
hậu.Vì vậy, hơn lúc nào hết, ngành Giáo dục nói chung và việc dạy học bộ môn
Ngữ văn nói riêng, đều phải đặt ra những yêu cầu mới, mục tiêu mới.
Trong quá trình hiện đại hoá nhà trường Việt Nam, việc dạy học môn Ngữ
văn có một vị trí khá đặc biệt. Vốn dĩ Văn học luôn có một tầm quan trọng trong
đời sống tinh thần của con người, nên việc dạy văn, học văn không chỉ đơn thuần
có mục tiêu là kiến thức văn học mà còn khơi dậy trong con người khát vọng về
sự hoàn thiện nhân cách, thắp lên ước mơ và hoài bão, tích luỹ một vốn sống và
bản lĩnh trước xã hội hiện đại.

7


1.1. Hiện trạng dạy học các tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường
Việt Nam hiện nay.
Mỗi tác phẩm văn học nước ngoài là nơi phản ánh, lưu giữ và kết tinh văn
hoá của dân tộc đó, thời đại đó. Hiện nay, hiện trạng dạy học tác phẩm văn học
nước ngoài đang là một vấn đề cần được nghiên cứu một cách hệ thống, vì học
văn học nước ngoài sẽ giúp học sinh trong nhà trường trung học phổ thông có
cách nhìn nhận cụ thể về nền văn hoá của các nước trên thế giới và các nước
trong khu vực. Đặc biệt, Trung Quốc là quốc gia láng giềng thân cận nhất của
Việt Nam về mặt lãnh thổ, có sự giao lưu diễn ra hàng nghìn năm nay về mặt văn
hoá. Học văn học Trung Quốc là cách giúp học sinh Việt Nam có sự so sánh tốt
nhất về hai nền văn hoá có nhiểu điểm tương đồng này. Trung Quốc và Việt Nam
trước đây đều là những nước phong kiến phương Đông, đến nửa cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX cũng có bối cảnh chính trị tương tự nhau. Từ đó, tư tưởng triết
học và mĩ học có những điểm gặp gỡ, kéo theo sự tri âm tri kỉ giữa văn học và
bạn đọc văn chương hai nước.
Nhưng hiện nay, cách thức dạy tác phẩm văn học nước ngoài nói chung và

văn học Trung Quốc nói riêng đang diễn ra như cách thức dạy tác phẩm văn học
Việt Nam, tức là chủ yếu dựa trên phần bản dịch và còn mơ hồ về những yếu tố
ngoài tác phẩm, đặc biệt là chưa được xem xét trong mối tương quan của văn hoá
thời đại, trào lưu tư tưởng và sự tồn tại của tác phẩm qua nhiều bản dịch khác
nhau. Sự bất cập đó đang cần có hướng giải quyết, tuy nhiên không phải là “một
sớm một chiều”. Thực tế cho thấy, ở trường phổ thông, khi giảng dạy văn học
nước ngoài, đa số giáo viên rất ngại dạy. Dường như trong chương trình, văn học
nước ngoài vẫn còn là “ vùng đất thiêng ” với cả giáo viên và học sinh. Phải
chăng sự khác biệt về văn hoá, về ngôn ngữ là rào cản lớn khiến văn học nước
ngoài ít được chủ động đón nhận ở phổ thông?

8


Việc đưa nhà văn Lỗ Tấn và truyện ngắn của ông vào giảng dạy ở phổ
thông là rất đúng đắn và cần thiết, vì những tác phẩm của ông không chỉ có giá
trị cao về mặt nội dung và nghệ thuật, mà còn vì chính Lỗ Tấn là một tấm gương
sáng, tiêu biểu cho con người của một thời đại có nhiều biến động lịch sử lớn.
Có thể nói, giảng dạy văn học nước ngoài nói chung và tác phẩm của Lỗ
Tấn nói riêng trong nhà trường Việt Nam không phải là một công việc đơn giản.
Dạy thế nào cho hay, cho hấp dẫn lại càng khó khăn bội phần. Bản thân môn
Ngữ văn có những yêu cầu và nhiệm vụ khắt khe, vì vừa là một môn khoa học
nhưng cũng là bộ môn nghệ thuật. Cảm thụ và giảng dạy tốt những tác phẩm của
Lỗ Tấn cũng không đơn giản chút nào, bởi những truyện ngắn của ông được sáng
tác dưới góc nhìn của một nhà báo, nhà tư tưởng, nhà văn hoá, nhà giáo, nhà
văn...trong một bối cảnh đầy biến động của đất nước Trung Quốc. Cho nên có
những vấn đề đến ngày nay chúng ta vẫn chưa giải mã hết được.
Trong chương trình phổ thông, học sinh được tiếp xúc nhiều với thể loại
truyện ngắn, nên việc giảng dạy tác phẩm “ Thuốc” của Lỗ Tấn sao cho thành
công là điều hết sức cần thiết, có tác dụng nâng cao trình độ thưởng thức, nâng

cao phẩm chất đạo đức, nhân cách cho học sinh.
1.2. Vị trí của nhà văn Lỗ Tấn đối với bạn đọc Việt Nam
Lỗ Tấn (1881 - 1936), tên khai sinh là Chu Chương Thọ, sau đổi là Chu Thụ
Nhân, hiệu Dự Tài, quê ở huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Ông
là nhà văn vĩ đại của nhân dân Trung Hoa, được coi là người “đặt nền móng cho
văn học hiện đại”. Ảnh hưởng của Lỗ Tấn đến khu vực và thế giới rất lớn: “
Trước Lỗ Tấn chưa hề có Lỗ Tấn, sau Lỗ Tấn có vô vàn Lỗ Tấn”. Tổ chức
UNESCO đã phong tặng Lỗ Tấn danh hiệu “Danh nhân văn hoá nhân loại” nhân
dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông.

9


Lỗ Tấn là nhà văn có “ trước tác đẳng thân” (sách cao bằng người). Ông
viết nhiều thể loại văn học: truyện ngắn, tạp văn, dịch thuật văn học nước ngoài,
lý luận văn học ... nhưng truyện ngắn vẫn là thể loại đặc sắc nhất. Truyện ngắn
của ông đọc đi đọc lại nhiều lần vẫn hay, vẫn có một ý vị đậm đà, không hề phai
nhạt mặc dù thời gian trôi qua. Ý nghĩa thì hàm súc đến nỗi bao nhiêu lớp người
đã dày công nghiên cứu, phân tích mà chưa thể nói hết.
Đối với thế giới, Lỗ Tấn là “Danh nhân văn hoá nhân loại”. Đối với Trung
Quốc, ông là linh hồn dân tộc, đúng như ba chữ “Dân tộc hồn” thêu trên lá cờ đỏ
mà dân nhân Thượng Hải phủ lên quan tài của ông.


Việt Nam, Lỗ Tấn được yêu mến như là “Gooc-ki của Trung Quốc”, vì

ông là một trong những nhà văn cách mạng vĩ đại, tài năng và tâm huyết. Sự gặp
gỡ giữa Lỗ Tấn và Việt Nam xuất phát từ sự tương thông giữa bối cảnh chính trị,
sự gần gũi của tư tưởng, sự giao lưu văn hoá đang rộng mở, các thế hệ nhà văn
Trung Quốc và các thế hệ nhà văn Việt Nam càng có điều kiện hợp tác để cùng

nghiên cứu sâu hơn về Lỗ Tấn.
“Lỗ Tấn đến Việt Nam tương đối muộn”, đó là lời của giáo sư Đặng Thai
Mai, người có công “khai sơn phá thạch” trong việc nghiên cứu, giới thiệu Lỗ
Tấn và văn học hiện đại Trung Quốc ở Việt Nam [32, tr. 40]. Lỗ Tấn là nhà văn
được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trân trọng về nhân cách và tài năng. Bác là người
Việt Nam đầu tiên đọc Lỗ Tấn và Người đã rất tâm đắc hai câu thơ sau của Lỗ
Tấn :
“Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu”
Nghĩa là:
“ Trợn mắt coi khinh ngàn lực sĩ
Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng”

10


1.3.

Các hướng tiếp cận tác phẩm “Thuốc” của nhà văn Lỗ Tấn.

“ Thuốc ” là một truyện ngắn độc đáo, hay nhưng khó trong chương trình
văn học nước ngoài ở trung học phổ thông.
Hay là vì nó chứa đựng được cả những vấn đề có tính xã hội nổi cộm nhất
của đất nước Trung Quốc trong một thời kỳ đen tối. Khó là vì phải khai thác các
tầng nghĩa tiềm ẩn của truyện mà không phải ai cũng dễ dàng hiểu được ngay.
Chính vì lẽ đó, “Thuốc” của Lỗ Tấn trước năm 2000 ở trong chương trình sách
giáo khoa lớp 11, khi sách giáo khoa được chỉnh lý năm 2000 đã đưa “Thuốc”
lên chương trình lớp 12 và hiện nay tiếp tục nằm trong sách giáo khoa Ngữ Văn
12 đổi mới năm 2008. Trong khi đó, tư liệu về Lỗ Tấn và truyện ngắn “Thuốc”
trong sách giáo khoa và sách giáo viên vẫn còn quá ít.

Về mặt lý thuyết, tiếp cận một tác phẩm văn chương thường được tiến hành
theo ba hướng chủ yếu là tiếp cận văn bản, tiếp cận lịch sử phát sinh và tiếp cận
đáp ứng [31, tr. 46].
Khi dạy “Thuốc”, giáo viên phải nắm được chiều sâu tư tưởng của nhà
văn, nhưng lại phải ý thức đầy đủ đến trình độ kiến thức cũng như đặc điểm tâm
sinh lý của đối tượng học sinh trung học phổ thông. Hơn nữa, thẩm văn phương
Đông lại có một cách tiếp cận theo một quá trình nắm bắt được “cái thần”, “cái
khí”, “cái cốt” để tiến hành “cày xới” các lớp lang và thẩm định các chi tiết ngôn
ngữ. Vì vậy, chúng ta không thể cắt nghĩa tác phẩm “Thuốc” một cách sâu sắc
nếu không chú ý tới những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tác giả, tác phẩm, đặc
biệt là bối cảnh lịch sử và xã hội của đất nước Trung Quốc đương thời, những
vấn đề lớn trong cuộc đời nhà văn Lỗ Tấn...
Nghiên cứu đề tài: “Dạy học truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn cho học
sinh trung học phổ thông theo hướng tiếp cận lịch sử phát sinh”, chúng tôi cũng

11


mong muốn mở ra một hướng khám phá mới cho tác phẩm, để học sinh có thể
hình thành cái nhìn rộng hơn về những vấn đề văn học từ lịch sử phát sinh.
Hiện nay, với nguồn tư liệu vô cùng phong phú từ mạng Internet và các
loại sách, tài liệu tham khảo, các tập san nghiên cứu... thì việc thực hiện tiếp cận
nhà văn Lỗ Tấn và truyện ngắn “Thuốc” theo hướng tiếp cận lịch sử phát sinh là
hoàn toàn khả thi.

2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu Lỗ Tấn là công việc được ví như một chặng đường dài mà cho
đến nay chưa ai đi hết con đường ấy. Đó lại là một con đường gập ghềnh, đòi hỏi
nhiều thời gian và tâm huyết.
Các nhà nghiên cứu văn học trên thế giới về Lỗ Tấn: Robe Diyanni (Mỹ),

Pha-đê-ep (Nga), Rômanh Rôlăng (Pháp), Panachi (Ấn Độ), Ananta Tu
(Inđônêxia) ...Công trình nghiên cứu của các ông chủ yếu về tư tưởng của Lỗ
Tấn qua các thời kỳ lịch sử, qua cách nhìn nhận của các trường phái văn học
khác nhau trên thế giới.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã dày công nghiên cứu về Lỗ Tấn: Mao
Trạch Đông, Giang Trạch Dân, Mao Thuẫn, Hạ Kính Chi, Lý Hà Lâm, Đinh
Linh, Trần Thấu Du, Ba Kim ... Đây là các nghiên cứu về thi pháp Lỗ Tấn, tư
tưởng Lỗ Tấn, ảnh hưởng của Lỗ Tấn đối với văn học Trung Quốc và thời đại


Việt Nam, có khá nhiều tác giả viết về Lỗ Tấn: Hồ Chí Minh, Đặng Thai

Mai, Nguyễn Tuân, Anh Đức, Trần Áng, Vương Phú Nhân, Lương Duy Thứ,
Trần Lê Hoa Tranh, Phương Lựu... Người Việt Nam đầu tiên đọc tác phẩm của
Lỗ Tấn chính là Nguyễn Ái Quốc khi Người đang hoạt động cách mạng ở Liên

12


Xô. Người Việt Nam đầu tiên dịch và giới thiệu tác phẩm Lỗ Tấn là giáo sư
Đặng Thai Mai (năm 1944). Sau đó, trong đội ngũ đông đảo kế tục sự nghiệp của
Đặng Thai Mai nghiên cứu về Lỗ Tấn, phải kể đến Trương Chính [48, tr. 11].
Ở miền Nam trước 1975, tác phẩm của Lỗ Tấn được hai nhà học giả nổi
tiếng
là Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi giới thiệu.
Gần đây, trong các luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, có rất nhiều đề tài
nghiên cứu về Lỗ Tấn, chủ yếu là về thi pháp và tư tưởng của ông, tiêu biểu nhất
là luận án tiến sĩ văn học của nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Mai Chanh với đề tài
“Nghệ thuật tự sự của Lỗ Tấn qua hai tập truyện ngắn Gào thét và Bàng hoàng”
do Giáo sư Trần Đình Sử và Tiến sĩ Trịnh Bá Đĩnh hướng dẫn năm 2009.

Nghiên cứu về vấn đề giảng dạy Lỗ Tấn trong nhà trường Việt Nam, có thể
kể đến một số luận văn do giáo sư Trần Xuân Đề hướng dẫn như: Đỗ Mạnh
Hùng, Những điểm dị biệt và tương đồng giữa hai nhân vật: AQ trong tác phẩm
“AQ chính truyện” của Lỗ Tấn và Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam
Cao, luận văn, 1996; Phạm Hoàng Kim Vy, Từ việc tìm hiểu con đường cứu
nước và cương lĩnh sáng tác cải tạo quốc dân tính của Lỗ Tấn, góp phần làm
sáng tỏ việc giảng dạy, học tập truyện “Thuốc” và “AQ chính truyện” trong
chương trình PTTH, luận văn, 1999.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu theo hướng tiếp cận lịch sử phát sinh đối với tác
phẩm “ Thuốc” của Lỗ Tấn trong việc dạy học cho đối tượng học sinh trung học
phổ thông thì chưa thực sự được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Dạy học truyện ngắn “Thuốc”
của Lỗ Tấn cho học sinh trung học phổ thông theo hướng tiếp cận lịch sử phát
sinh”.
3. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích

13


Từ việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học về truyện ngắn
“Thuốc” của Lỗ Tấn, các tài liệu xung quanh truyện ngắn này, sự nhìn nhận và
đánh giá của độc giả cũng như của các nhà nghiên cứu văn học; tác giả của luận
văn này đã tổng hợp lại để tìm ra cách khai thác truyện ngắn “Thuốc” từ hướng
lịch sử phát sinh nhằm tạo ra một con đường thiết thực trong dạy học tác phẩm
này.
3.2. Ý nghĩa
Dạy học truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn theo hướng tiếp cận lịch sử phát
sinh sẽ đưa học sinh đến với những khám phá mới về Lỗ Tấn, về “Thuốc” mà
nguồn tư liệu sách giáo khoa, sách hướng dẫn rất cần được bổ sung. Từ đó học

sinh hiểu rõ hơn về thời đại của Lỗ Tấn, về đất nước Trung Hoa trong một thời
kỳ lịch sử đen tối, sự biến đổi tư tưởng của ông khi cho ra đời truyện ngắn
“Thuốc” .
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là giáo viên dạy Ngữ văn 12 và học
sinh lớp 12 trung học phổ thông; giờ học truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn.
4.2. Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là hoạt động dạy và học của giáo viên và
học sinh trong nhà trường trung học phổ thông trong giờ học truyện ngắn
“Thuốc” của Lỗ Tấn bằng phương pháp tiếp cận lịch sử phát sinh.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu phát hiện trúng, đúng những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và sâu xa
đến tư tưởng nhà văn Lỗ Tấn và hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn “Thuốc”, sẽ tìm
ra được cách thức dạy học thích hợp cho các tác phẩm văn học nước ngoài khác
trong chương trình phổ thông.

14


6. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu
6.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu về nhà văn Lỗ Tấn và truyện ngắn “Thuốc” với những yếu tố
phục vụ cho việc dạy học truyện ngắn “Thuốc” theo hướng tiếp cận lịch sử phát
sinh.
Thông qua việc khảo sát thực tiễn hoạt động dạy học và thực nghiệm sư
phạm, xác định tính khả thi của những biện pháp dạy học truyện ngắn “Thuốc”
từ hướng tiếp cận lịch sử phát sinh.
6.2. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu cách thức dạy học truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ

Tấn từ hướng tiếp cận lịch sử phát sinh.
7.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
-

Nghiên cứu về hệ thống lý luận và thực tiễn dạy học tác phẩm văn chương,

về tiếp cận văn học.
-

Phương pháp khảo sát, phân tích nhằm đánh giá về những thành công và hạn

chế của việc dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài nói chung và truyện ngắn
“Thuốc” nói riêng trong nhà trường hiện nay.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm ở khối 12 của Trường trung học phổ thông
Thụy Hương, huyện Kiến Thụy (Hải Phòng) và khối 12 của Trường trung học
phổ thông Thái Phiên, quận Ngô Quyền (Hải Phòng).
- Phương pháp đối chứng so sánh sau khi thực nghiệm
8.

Những đóng góp mới của luận văn

15


Luận văn tìm ra được những hạn chế của việc dạy học tác phẩm văn chương

nước ngoài xa rời lịch sử phát sinh của tác phẩm, từ đó xác định từ hướng lịch sử
phát sinh đi tới một cách thức dạy học thích hợp và sát thực.
9. Cấu trúc và nội dung luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận
văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Nhà văn Lỗ Tấn và truyện ngắn “Thuốc” trong hướng tiếp cận
lịch sử phát sinh
Chương 2: Thực trạng dạy học truyện ngắn “Thuốc” của nhà văn Lỗ Tấn
trong nhà trường trung học phổ thông hiện nay
Chương 3: Những biện pháp dạy học truyện ngắn “Thuốc” của nhà văn Lỗ
Tấn theo hướng tiếp cận lịch sử phát sinh

16


Chƣơng 1: NHÀ VĂN LỖ TẤN VÀ TRUYỆN NGẮN “THUỐC” TRONG
HƢỚNG TIẾP CẬN LỊCH SỬ PHÁT SINH

1.1. Lý thuyết về hƣớng tiếp cận lịch sử phát sinh
Nghiên cứu văn học có nhiều cấp độ , nhiều bình diện, với những yêu cầu
khác nhau nên đã phân hoá thành những khuynh hướng khác nhau. Viện sĩ
Khrapsencô nói: “ Sự đa dạng của các loại hình và hình thức văn học, tính phức
tạp của những mối liên hệ giữa văn học với đời sống xã hội tạo ra khả năng và
tất yếu phải có những người nghiên cứu khác nhau, tuy có sự thống nhất nhất
định, do chi phối của phương pháp luận macxit” [31, tr. 54]
Khuynh hướng nghiên cứu lịch sử phát sinh ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn
giữ vai trò cơ bản. Khuynh hướng nghiên cứu lịch sử phát sinh chủ trương
nghiên cứu văn học cũng như các trường phái nhà văn, tác phẩm từ nguồn gốc
trong đời sống xã hội. Nó chủ trương giải thích sự phát triển của văn học, sự đấu
tranh giữa các trào lưu, sự kế thừa có đổi mới của từng giai đoạn văn học từ

những nguồn cội nguồn lịch sử xã hội.
Phương pháp nghiên cứu khuynh hướng này cũng ngày càng được hoàn
thiện dần. Cuối thế kỉ XIX, nhà phê bình macxit đầu tiên của Nga là Plêkhanôp
cho rằng, nghiên cứu phê bình văn học “là nhằm chuyển tư tưởng của tác phẩm
nghệ thuật từ ngôn ngữ nghệ thuật sang ngôn ngữ xã hội học, là nhằm tìm ra cái
gọi là “tư tưởng xã hội học” của hiện tượng văn học này. Không thể phủ nhận
hoàn toàn tính chất hiệu nghiệm của phương pháp này” [31, tr. 57], nhưng rõ
ràng nó không thể vận dụng trong nhiều trường hợp phức tạp đa dạng của văn
học. Bởi vì chân lý trong văn học chỉ thống nhất chứ không đồng nhất với chân
lý đời sống. Hơn nữa trong những tiền đề phát sinh của văn học, vai trò cá tính,
sáng tạo của văn nhà văn rất lớn, và đặc biệt là những truyền thống văn học do

17


quá khứ để lại cũng gây ảnh hưởng không nhỏ. Những bước phát sinh và phát
triển đích thực nào của văn học cũng phải thông qua sự sáng tạo của những tài
năng lớn, thậm chí là của thiên tài, nhà thiên tài bao giờ cũng là sự kết tinh của
nhiều thế hệ, chứ không phải chỉ trong thời đại họ sống. Thời đại với những vấn
đề bức bách mới mẻ đã trực tiếp kích thích sự đột phá của thiên tài. Nhưng cho
dù là thiên tài, họ cũng chỉ sống với một số khía cạnh cơ bản của vấn đề thời đại
mà thôi. Lênin đã từng nói, những nghệ sĩ vĩ đại cũng chỉ phản ánh vài ba khía
cạnh của cách mạng thôi [31, tr. 60]. Ở đây có thể rút ra một kết luận là, phải
xem xét hoàn cảnh sống cụ thể của nhà văn, miễn là không sa vào các tình tiết
vụn vặt và nhất là không quên hoàn cảnh cụ thể đó vẫn bị chi phối trực tiếp hoặc
gián tiếp bởi bối cảnh thời đại nói chung.
Xét thuần túy về mặt phương pháp mà nói, văn học phản ánh xã hội, nên
phải từ xã hội để phân tích văn học là đúng. Nhưng chỉ chuyên dò tìm những cái
tương đương của văn học đối với xã hội thì phiến diện, cần phải vươn lên giải
thích cho được những chỗ văn học khác xã hội. Có thể tìm thấy ánh sáng phương

pháp luận cho vấn đề này trong phát biểu sau đây của Mac: “Không nên tưởng
rằng tất cả các đại biểu dân chủ đều là chủ hiệu buôn hoặc là họ sùng bái bọn
này. Họ có thể cách biệt với bọn chủ hiệu buôn bằng một vực thẳm. Điều làm
cho họ trở thành đại biểu của giai cấp tiểu tư sản, chính là vì bộ óc của họ
không thể vượt qua được cái giới hạn mà bản thân người tiểu tư sản trong đời
sống cũng không thể vượt qua được” [31, tr. 65].
Nhà văn là người chuyên đi thiết kế lý tưởng cho giai cấp, cho thời đại nên
rất có thể tác phẩm của họ biểu hiện những ước mơ, những điều kỳ lạ không thấy
có trong thời đại họ đang sống. Vấn đề là ở chỗ, văn học biểu hiện những tưởng
tượng, ước mơ khác nhau, người nghiên cứu phải giải thích cho được điều đó.
Chỗ thiếu sót của lối đi tìm cái “tương đương xã hội học” cũng chính là nói đến

18


những bước tiến về sau trong khuynh hướng nghiên cứu lịch sử phát sinh [31, tr.
70].
Trong lý luận văn học, có loại hình tiếp cận văn học từ xã hội với những
quan điểm mới mẻ: chủ nghĩa cấu trúc phát sinh cũng hướng tới khía cạnh xã
hội. Goldman, người đứng đầu trường phái này cho rằng, tác phẩm văn học
không chỉ là một cấu trúc ngôn ngữ, mà còn là một cấu trúc ý nghĩa. Cấu trúc ý
nghĩa này có quan hệ với nhau: tìm hiểu và giải thích. “Tìm hiểu” là phân tích
các yếu tố cùng mối quan hệ giữa chúng, để nắm được cấu trúc ý nghĩa của bối
cảnh xã hội. “Giải thích” có nghĩa là là đem tác phẩm văn học đặt trong bối cảnh
xã hội đã sản sinh ra nó, tìm ra cho được sự đối ứng giữa cấu trúc ý nghĩa của tác
phẩm với cấu trúc tinh thần của xã hội [12, tr. 48].
Nhà văn cần phải tuân thủ “Nguyên tắc lịch sử” và “Nguyên tắc lôgic”, tức
là người viết phải nắm bắt được toàn diện đến mức tối đa những hiện tượng của
lịch sử xã hội, nguyên nhân và trình tự của nó và được phản ánh theo tư duy
lôgic. Ănghen nói “Lịch sử thường diễn biến quanh co, nếu bất cứ đâu cũng phải

chạy theo nó thì tất yếu không những phải chú ý đến nhiều tư liệu không quan
trọng mà còn làm gián đoạn tiến trình tư duy” [12, tr. 53].
Những hạn chế của khuynh hướng nghiên cứu lịch sử phát sinh lại là nhiệm
vụ trọng tâm của những khuynh hướng khác, ví dụ: khuynh hướng lịch sử phát
sinh chưa chú ý đến vấn đề tác động của văn học, nhưng đó lại là nhiệm vụ trung
tâm của khuynh hướng nghiên cứu lịch sử hiệu năng.
1.2. Nhà văn Lỗ Tấn và truyện ngắn “Thuốc” trong hƣớng tiếp cận lịch sử
phát sinh.
Trên cơ sở lý thuyết về hướng tiếp cận lịch sử phát sinh, chúng tôi đã mạnh
dạn đề xuất việc giảng dạy về nhà văn Lỗ Tấn và truyện ngắn “Thuốc” của ông
theo hướng tiếp cận lịch sử phát sinh, không ngoài mục đích giúp giáo viên và

19


học sinh trung học phổ thông có nhận thức đầy đủ, toàn diện và chính xác hơn
về tác giả, tác phẩm trong bối cảnh thời đại.
1.2.1. Bối cảnh lịch sử đất nước Trung Quốc giai đoạn cận hiện đại và sự ảnh
hưởng đến sáng tác của Lỗ Tấn.
1.2.1.1. Đất nước Trung Quốc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây tăng cường xâm chiếm thị trường
thế giới. Trung Quốc là một nước lớn và đông dân nhất châu Á, giàu tài nguyên
khoáng sản, có truyền thống văn hoá lâu đời, đang đứng trước nguy cơ trở thành
“miếng mồi béo bở” cho các nước đế quốc xâu xé. Cuộc chiến tranh xâm lược do
thực dân Anh gây ra từ tháng 6 năm 1840 đến tháng 8 năm 1842 gọi là “Chiến
tranh thuốc phiện”. Thất bại trong chiến tranh, chính quyền Mãn Thanh phải ký
Hiệp ước Nam Kinh với các điều khoản nặng nề theo yêu cầu của thực dân Anh.
Đây là mốc dấu mở đầu quá trình biến Trung Quốc từ một nước phong kiến độc
lập trở thành một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Các nước đế quốc lần lượt
nhảy vào Trung Quốc: Đức, Anh, Nga, Nhật, Pháp...

Từ giữa thế kỷ XIX, nhân dân Trung Quốc đã liên tục nổi dậy đấu tranh
chống thực dân, phong kiến: cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc dưới sự lãnh
đạo của Hồng Tú Toàn từ 1-1-1851 đến 19-7-1864; cuộc vận động Duy Tân năm
1898 do hai nhà nho yêu nước Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu phát động;
phong trào Nghĩa Hoà Đoàn do Lý Hồng Chương lãnh đạo...
1.2.1.2. Cách mạng Tân Hợi 1911 và những ảnh hưởng đến sáng tác của Lỗ
Tấn.
*

Cách mạng Tân Hợi 1911

Sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản vào Trung Quốc, một mặt phá vỡ nền
kinh tế thủ công nghiệp ở thành thị và kinh tế gia đình của nông dân, mặt khác
lại thúc đẩy công thương nghiệp, kích thích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở

20


Trung Quốc. Giai cấp tư sản Trung Quốc ra đời từ cuối thế kỉ XIX và đã lớn
mạnh lên rất nhiều vào đầu thế kỉ XX. Họ bị chèn ép, kìm hãm bởi bọn thực dân
và triều đình phong kiến Mãn Thanh. Dựa vào các cuộc đấu tranh bền bỉ liên tục
của quần chúng nhân dân, giai cấp tư sản Trung Quốc bắt đầu tập hợp lực lượng,
thành lập các tổ chức chính trị của mình. Tôn Trung Sơn là đại diện ưu tú và là
lãnh tụ kiệt xuất của phong trào cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở
Trung Quốc.
Ngày 10 - 10 - 1911, Đồng minh hội phát động khởi nghĩa ở Vũ Xương. Cuộc
khởi nghĩa thắng lợi nhanh chóng rồi lan rộng ra tất cả các tỉnh miền Nam và
miền Trung Trung Quốc.
Cuối tháng 12 - 1911, Quốc dân đại hội (gồm đại biểu các tỉnh nổ ra cách
mạng) họp ở Nam Kinh, tuyên bố thành lập Trung Hoa Dân quốc và bầu Tôn

Trung Sơn làm Đại Tổng thống, đứng đầu Chính phủ lâm thời. Một Hiến pháp
lâm thời được thông qua, công nhận quyền bình đẳng và quyền tự do dân chủ
của các công dân, nhưng không hề đề cập đến vấn đề ruộng đất của nông dân
như đã được ghi trong Cương lĩnh của Đồng minh hội.
Cách mạng Tân Hợi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản, do những người tri
thức cấp tiến trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản lãnh đạo, đã lật đổ triều đại Mãn
Thanh, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại lâu đời ở Trung Quốc, mở
đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, có ảnh hưởng nhất định đối với cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc ở một số nước châu Á. Song, cuộc cách mạng này đã
không thủ tiêu thực sự giai cấp phong kiến, không đụng chạm đến các nước đế
quốc xâm lược và không giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nông dân.
*

Ảnh hưởng của cách mạng Tân Hợi 1911 đến sáng tác của Lỗ Tấn.

Buổi nhận đường của Lỗ Tấn cũng trải qua biết bao gian nan. Ông không vừa
lòng với cuộc cách mạng tư sản Tân Hợi mà hình tượng Hạ Du trong “Thuốc” là

21


một biểu tượng. Hạ Du dũng cảm, hiên ngang nhưng rất cô đơn, không ai hiểu
việc anh làm, kể cả mẹ anh. Quần chúng lấy máu anh làm thuốc chữa lao cũng là
lẽ đương nhiên. Nhưng lúc này, cách mạng giải phóng dân tộc phải là cuộc cách
mạng như thế nào thì Lỗ Tấn chưa rõ. Ông đang hướng về cách mạng vô sản.
Bài tạp văn “Thánh võ” viết năm 1918 ông nhiệt liệt ca ngợi cách mạng tháng
Mười Nga như là “Bình minh của kỉ nguyên mới”. Kết thúc truyện “Thuốc”, ông
để cho hai bà mẹ bước qua con đường mòn đến gặp nhau và cùng sững sờ trước
vòng hoa trên mộ của người cách mạng. Như vậy là nhà văn vẫn tràn đầy niềm
tin vào tiền đồ của cách mạng: “ Cũng giống như các nhân vật tiên tiến cùng

thời, trước tiên Lỗ Tấn nhìn sang phương Tây. Ông tiếp thu tư tưởng sáng của
Rútxô, Môngtexkiơ, tin vào thuyết tiến hóa của Đácuyn, Huxlây, cũng từng chịu
ảnh hưởng của Nítxơ và Sôpenhaoơ. Trải qua biết bao dằn vặt, nhất là sau bài
học về sự thất bại của Cách mạng Tân Hợi, cuối cùng Lỗ Tấn đã gạt bỏ được
bàng hoàng và khổ muộn, dần dần thấy được thế giới quan của chủ nghĩa tư bản
không thể cứu Trung Quốc” (Giang Trạch Dân) [48, tr. 40].
1.2.1.3. Phong trào Ngũ Tứ 1919 và những ảnh hưởng đến sáng tác của Lỗ Tấn.
*

Phong trào Ngũ Tứ 1919

Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và sự kết thúc
Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm bùng nổ một cao trào cách mạng mới ở
Trung Quốc, mở đầu bằng phong trào Ngũ Tứ.
Ngày 4 - 5 - 1919, hơn 3000 sinh viên yêu nước ở Bắc Kinh đã đứng lên đấu
tranh, phản đối quyết định bất công của các nước đế quốc về việc chuyển giao
những đặc quyền của nước Đức ở tỉnh Sơn Đông cho Nhật Bản. Phong trào lan
rộng khắp 22 tỉnh và 150 thành phố trong cả nước, lôi cuốn đông đảo các tầng
lớp nhân dân tham gia, đặc biệt là giai cấp công nhân.

22


Phong trào Ngũ Tứ đã mở đầu cao trào cách mạng chống đế quốc và chống
phong kiến ở Trung Quốc. Lần đầu tiên, giai cấp công nhân Trung Quốc xuất
hiện trên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng cách mạng độc lập. Phong
trào Ngũ Tứ đánh dấu bước chuyển của cách mạng Trung Quốc từ cách mạng
dân chủ tư sản kiểu cũ sang cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới.
Từ sau phong trào Ngũ Tứ, việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Trung
Quốc đã phát triển nhanh chóng, sâu rộng. Tầng lớp trí thức tiến bộ, tiêu biểu là

Lý Đại Chiêu (Giáo sư Trường Đại học Bắc Kinh), đã tích cực tuyên truyền, phổ
biến chủ nghĩa Mác - Lênin vào Trung Quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành
lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1920, một số nhóm cộng sản đã ra đời với
sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản. Trên cơ sở các nhóm này, tháng 7 - 1921,
Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập, đánh dấu bước ngoặt quan trọng của
cách mạng Trung Quốc. Từ đây, giai cấp vô sản Trung Quốc đã có chính đảng
của mình để từng bước nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng.
* Ảnh hưởng của phong trào Ngũ Tứ 1919 đến sáng tác của Lỗ Tấn.
Lỗ Tấn là một trong những người chủ xướng cuộc vận động Ngũ Tứ (19191923). Đó là cuộc vận động đòi độc lập và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến
mạnh mẽ trên hai mặt trận chính trị và văn hoá. Thời cận đại, các cuộc vận động
và cải cách thường chỉ quanh quẩn nơi cung đình, mục tiêu đề ra không triệt để
và có tính thoả hiệp, chưa có cuộc vận động nào rộng rãi, mạnh mẽ như Ngũ Tứ.
Ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, của phong trào Ngũ Tứ đã
đánh thức “những con người đang ngủ mê trong nhà hộp bằng sắt không có cửa
sổ và cũng không làm sao phá tung ra được” (Vì sao tôi viết tiểu thuyết - Nam
xoang Bắc điệu - Tạp văn) [48, tr. 52]. Đây là cuộc vận động làm thay đổi tư
tưởng nghệ thuật của Lỗ Tấn.

23


Từ năm 1918, mở màn với tác phẩm Nhật ký người điên viết bằng Bạch
thoại, Lỗ Tấn bắt đầu sáng tác liên tục, cho đến năm 1922 được tất cả 25 truyện,
in thành hai tập Gào thét và Bàng hoàng. Ông phủ định toàn diện và triệt để xã
hội cũ, lễ giáo và chế độ phong kiến. Ông lôi hết từng loại người trong xã hội:
nông dân, trí thức, sĩ phu… và “kê bệnh” của họ. Tuy vậy, ông vẫn nhìn nhận
những mặt tích cực của từng loại người, đặt biệt là đánh giá cao vai trò người lao
động, nhìn rõ bản chất tốt đẹp của người lao động so với trí thức tiểu tư sản.
1.2.2. Một số yếu tố khác có sự ảnh hưởng đến tư tưởng và quan điểm sáng
tác của Lỗ Tấn.

1.2.2.1

Ảnh hưởng của “Thuyết tiến hoá” của Đac-uyn đến Lỗ Tấn

Trong giai đoạn Lỗ Tấn học ở trường Khoáng lộ học đường, ông say mê “
Thiên diễn luận” của Hútx-lây (Huxley): Hútx-lây giải thích sự tiến hoá vũ trụ và
vạn vật theo quan điểm của Đác-uyn. Quan điểm này ảnh hưởng ở Lỗ Tấn khá
dài (khoảng 20 năm). Cùng với những kiến thức khoa học tự nhiên được học
trong nhà trường, thuyết tiến hoá đã đem lại cho Lỗ Tấn niềm tin vào tương lai,
vào tầng lớp thanh niên cứu nước và giải quyết những vấn đề xã hội Trung Quốc.
Như vậy, quan điểm tiến hoá của Đác-uyn chuyển sang Lỗ Tấn không đơn thuần
là quan điểm sinh vật học “cạnh tranh bài xích, thích giả sinh tồn” nữa mà
nghiêng về xã hội hơn. Ông hi vọng lớp sau bao giờ cũng hoàn toàn hơn lớp
trước, tương lai sẽ sáng sủa hơn hiện tại và lực lượng mới sẽ thay thế lực lượng
cũ. Từ đó ông ca ngợi sự đổi mới, kêu gọi thanh niên đứng lên phản kháng tình
trạng hủ bại, lạc hậu ngàn đời của xã hội Trung Quốc: “Trên con đường tiến hoá,
thế nào cái mới cũng phải thay thế cái cũ. Cho nên cái mới phải vui mừng hớn
hở mà tiến lên, cái cũ cũng phải vui mừng hớn hở mà tiến lên, đó là con đường
tiến hoá” [48, tr. 60]

24


Khuynh hướng sáng tác thời kỳ này là lãng mạn tích cực. Giai đoạn này
ông sáng tác không nhiều, lại toàn bằng cổ văn, tiểu thuyết có Hồn Sparte và
Hoài cựu, mấy bài thơ và hai chuyên luận văn học, đáng chú ý là Bàn về sức
mạnh của dòng thơ Mo-ra chủ trương giải phóng con người thoát khỏi sự trói
buộc của thế lực phong kiến. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc, ông
dịch một số tác phẩm văn nghệ thế giới, giới thiệu những nhà thơ đấu tranh cho
tự do như Bai-rơn (Byron), Púts-kin (Puskin), Se-lây (Shelley)… Đây là những

nhà thơ lãng mạn gắn cuộc đời mình với sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhằm
mượn tinh thần phản kháng của họ để thức tỉnh dân tộc.
Cách mạng Tân Hợi không đem lại cho xã hội Trung Quốc một sự thay đổi
đáng kể nào. Lỗ Tấn không khỏi thất vọng và hoài nghi. Trước yêu cầu tìm kiếm
một con đường thoát cho Trung Quốc, ông đã không ngừng suy xét, phân tích
những vấn đề về con người, xã hội, cách mạng ở Trung Quốc. Đó là bước chuẩn
bị để hình thành một tư tưởng mới.
1.2.2.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Ni-sơ đến Lỗ Tấn.
Nitsơ (Frederic Nietzshe), 1814-1841, là nhà triết học người Đức, chủ
xướng học thuyết về kẻ mạnh (siêu nhân). Theo quan điểm của Nit sơ, văn minh
thế kỷ XIX có hai điều tệ hại: một là cá nhân bị tập thể xoá mờ, hai là tinh thần
vật chất bị vùi lấp. Nit sơ đi đến chủ trương “ trọng cá nhân, phi tập thể, trọng
tinh thần, phi vật chất”. Quan điểm đó có ảnh hưởng rõ rệt đến cách nhìn nhận
và khai thác các vấn đề xã hội, con người trong tác phẩm của Lỗ Tấn. Mãi đến
khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, Lỗ Tấn mới dứt bỏ thuyết tiến hoá cũng như
chủ nghĩa Nit sơ. Dấu ấn đậm nét nhất của dòng tư tưởng này đến Lỗ Tấn là tác
phẩm “Nhật ký người điên”: một xã hội cậy sức, cậy quyền để “ăn thịt người”.
1.2.2.3. Ảnh hưởng của học thuyết Mac-xit đến Lỗ Tấn .

25


×