Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.73 KB, 22 trang )

LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI.
1.1. Tồng quan về BHXH.
1.1.1. Nguồn gốc ra đời và Sự cần thiết khách quan của BHXH.
Trong xã hội, con người muốn tồn tại, trước hết phải ăn mặc ở… Để thỏa
mãn nhu cầu này, con người cần phải lao động sáng tạo không ngừng tạo ra của
cải vật chất phục vụ những nhu cầu tối thiểu này.Của cải càng nhiều thì nhu cầu
ngày càng tăng, có nghĩa là việc thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao
động của con người.Trong thực tế không phải lúc nào con người cũng đủ khả
năng để lao động sản xuất đảm bảo cuộc sống ổn định, rủi ro thường mang tính
bất ngờ nên có thể xảy ra bất cứ khi nào,chẳng hạn như: tai nạn lao động, ốm
đau, thai sản, già yếu…và người lao động không thể làm chủ được tình huống
này do đó dễ rơi vào tình trạng mất cân bằng trong cuộc sống. Bên cạnh đó, khi
gặp phải rủi ro, những nhu cầu tối thiểu của con người không những không
giảm đi mà còn gia tăng thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới.Để giảm bớt
rủi ro bất hạnh thì ngoài việc bản thân người lao động khắc phục, cần phải có sự
hỗ trợ của cộng đồng và xã hội.
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển của xã hội, sự tương trợ cũng phát triển
và mở rộng theo nhiều hình thức khác nhau. Thời kỳ công xã nguyên thủy, con
người sống tập trung thành bầy đàn, hình thức sinh sống chủ yếu là săn bắn hái
lượm, sản phẩm được phân phối bình quân cho mọi người nên khó khăn bất lợi
của mỗi người được cả xã hội san sẻ. Đến thời kỳ xã hội phong kiến, quan lại
thì dựa vào chế độ bổng lộc của nhà vua, còn dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn
nhau trong họ hàng, cộng đồng làng xã, ngoài ra họ có thể đi vay đi xin. Tuy
nhiên đó mới chỉ là khả năng, có thể có và cũng có thể không, không hoàn toàn
chắc chắn.

Sức sáng tạo của con người ngày càng tăng, xã hội cũng ngày càng phát
triển lên trình độ cao hơn, xuất hiện nền kinh tế hàng hóa, mọc lên nhiều cơ sở
sản xuất và nhu cầu nhân công gia tăng.Điều này làm cho xã hội xuất hiện hai
giới cơ bản : giới những người thuê lao động (giới chủ) và giới những người lao


động (giới thợ ).
Giữa hai giới này tồn tại những mâu thuẫn rất gay gắt mà nguyên nhân chủ
yếu là do bất đồng quan điểm trong việc thỏa thuận lợi ích hai bên. Trong số rất
nhiều mâu thuẫn khác nhau thì mâu thuẫn sau càng trở nên gay gắt:
+ Mâu thuẫn về việc kéo dài thời gian lao động.
+ Mâu thuẫn về tiền lương tiền công.
+ Mâu thuẫn về thu nhập khi người lao động nghỉ việc.
+ Mâu thuẫn khi người lao động về già chết.
Cuộc tranh giành diễn ra gay gắt và tác động đến nhiều mặt của đời sống,
xã hội, hậu quả là sản xuất bị đình đốn, thể chế chính trị bị lung lay, các nguồn
lực trong xây dựng sản xuất bị xâm phạm. Chính vì vậy, chính phủ các nước
phải can thiệp bằng cách :
+ Thứ nhất, yêu cầu giới chủ trích một phần từ lợi nhuận của mình để
đóng góp vào nguồn quỹ mang tính xã hội.
+ Thứ hai, vận động người lao động đóng góp một phần từ khoản thu
nhập của mình nộp vào quỹ xã hội chung đó nhằm mục đích giải quyết khó
khăn cho người lao động trong trường hợp không may có biến cố rủi ro xảy ra.
Thời gian đầu cả giới thợ và giới chủ đều không chấp nhận cách giải quyết
này, cuộc đấu tranh diễn ra càng gay gắt với quy mô rộng khắp hơn. Chính vì
vậy Chính phủ các nước phải can thiệp lần hai, với tư cách là bên thứ ba đóng
góp vào quỹ tài chính chung đó. Khi đó cả người lao động và giới chủ nhận thấy
mình đều có lợi và mục đích ban đầu đã đạt được. Cả ba bên đưa ra bản cam kết
về việc xây dựng và hình thành nguồn quỹ này nhằm bảo vệ người lao động khi
rủi ro biến cố xảy ra.
Tất cả những vấn đề trên được thế giới quan niệm là Bảo hiểm xã hội cho
người lao động
Như vậy, sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan, do sự đòi hỏi
của cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh,khi mà mọi thành viên trong xã
hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH. Vì vậy BHXH đã
trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một

nhu cầu tất yếu khách quan. Vì vậy khái niệm “ Bảo hiểm xã hội ” trở nên gần
gũi gắn bó với mọi người đặc biệt là người lao động. Do đó có thể hiểu BHXH
theo các cách như sau:
- “ BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm
hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không sử dụng được, thông qua
việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham
gia BHXH và và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an toàn
kinh tế cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn
xã hội”.
- “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên trong xã hội
thông qua một loạt các biện pháp công cộng ( bằng pháp luật, trách nhiệm của
Chính phủ ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế xã hội do bị mất hoặc
giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau , mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và
chết đi. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khỏe và
trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết”. Đây là khái niệm về BHXH của Tổ chức
Lao động Quốc tế ( ILO ), phản ánh một cách tổng quan về mục tiêu, bản chất
và chức năng của BHXH đối với mỗi quốc gia. Mục tiêu cuối cùng của BHXH
là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết
quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối
với mỗi con người.
Ngoài ra còn có một số khái niệm về BHXH xét trên các khía cạnh khác:
+ Xét trên khía cạnh pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ
người lao động, sử dụng tiền đóng của người lao động, người sử dụng lao động,
và được sự tài trợ bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được
bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình
thường do ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao
động theo quy định của pháp luật ( hưu ) hoặc chết.
+ Xét trên giác độ tài chính: BHXH là thuật ( kỹ thuật ) chia sẻ rủi ro và
tài chính giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của Pháp luật.

+ Xét trên giác độ chính sách xã hội : BHXH là một chính sách xã hội
nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải
các rủi ro xã hội , nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
1.1.2. Đối tượng của BHXH:
Ở đây cần phân biệt rõ đối tượng của BHXH và đối tượng tham gia
BHXH. BHXH là một hệ thống đam bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc mất đi do
người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các
nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy đối tượng của
BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do
bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của người lao động tham gia
BHXH.
Còn đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao
động. Tuy vậy, tùy theo điều kiện kinh tế của mỗi nước mà đối tượng này có thể
là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối
với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam
cũng không vượt khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là chưa công bằng
với tất cả những người lao động. Nếu xét trên mối quan hệ ràng buộc trong
BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH
được sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ
BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng.
Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao
động có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH
đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có
của BHXH, nó quyết định sự tồn tại và phát của BHXH một cách ổn định và
bền vững.
1.1.3. Bản chất của BHXH.
Như đã trình bày ở trên, BHXH ra đời là do những mối quan hệ ràng
buộc, những mâu thuẫn mà người lao động và người sử dụng lao động không
thể giải quyết được, đòi hỏi Nhà nước phải đứng ra can thiệp.Bản chất của

BHXH thể hiện ở những vấn đề sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng
hóa.Kinh tế càng phát triển thì hệ thống BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì
vậy có thể cho rằng sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển
của nền kinh tế hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước.
Một nền kinh tế càng phát triển,. đời sống nhân dân thấp kém không thể có một
hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH
càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày
càng phong phú.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH.
Bên tham gia BHX H có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động
và người sử dụng lao động.
Bên BHXH ( bên nhận nhiệm vụ BHXH ) thông thường là cơ quan
chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ.
Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện
ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động , mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của
con người: ốm đau, tai nạn…hoặc những trường hợp xảy ra không hoàn toàn
ngẫu nhiên: thai sản, tuổi già…Đồng thời những biến cố có thể xảy ra cả trong
và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những rủi ro biến cố sẽ
được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tập trung hình thành do sự đóng
góp của các bên tham gia BHXH, gọi là quỹ BHXH Nguồn quỹ này do các bên
tham gia đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn nhận được sự hỗ trợ từ phía Nhà
nước.Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập.
- Mục tiêu của BHXH là đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và
gia đình họ, nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong

trường hợp mất hoặc giảm thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này được tổ chức
ILO cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo
nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu
khác đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Tóm lại, BHXH mang cả bản chất kinh tế và bản chất xã hội.Về mặt kinh
tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia
đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do
có sự san sẻ rủi ro của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một phần nhỏ
trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có lượng vật chất đủ
lớn để trang trải những rủi ro xảy ra, ở đây BHXH đã thực hiện nguyên tắc lấy
số đông bù số ít.
1.1.4. Chức năng của BHXH.
BHXH có chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
bảo hiểm khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất
việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH , nó quyết định nhiệm vụ,
tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham
gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả người sử dụng
lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng
để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu
nhập. Số lượng người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số người tham
gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân
phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những
người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp, giữa những người khỏe mạnh
đang làm việc và những người ốm yếu phải nghỉ việc. Thực hiện được chức
năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.

- Góp phần kích thích người lao động hăng say sản xuất nâng cao năng
suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh, tham gia
lao động được người sử dụng lao động trả tiền lương tiền công. Khi ốm đau
bệnh tật, tai nạn lao động, thai sản, hưu trí đã có BHXH trợ cấp thay thế phần
thu nhập đã bị mất. Vì vậy họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định. Chính
vì thế, người lao động an tâm làm việc và gắn bó với công việc hơn, nâng cao
năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.Chức năng này biểu hiện như một đòn
bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và
kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao với người sử dụng lao động, giữa người
lao động với xã hội. Thông qua BHXH, những mâu thuẫn nội tại, khách quan về
tiền lương , tiền công, thời gian lao động… được điều hòa và giải quyết. Đặc
biệt, cả hai giới đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó
làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi được với nhau. Đối với Nhà nước và xã
hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn
giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp
phần ổn định sản xuất kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển an toàn hơn.
1.1.5. Hệ thống các chế độ Bảo hiểm xã hội.
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy
định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH
đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được
pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường
hợp BHXH cụ thể. Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng
khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính
sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những
vấn đề mang tính cốt lõi của BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán
trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động Quốc tế đã nêu trong Công ước
số 102 tháng 06 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:
1. Chăm sóc y tế

2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho người còn sống
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tùy theo
điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện
khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế
độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ ( 3 ); ( 4 ); ( 5 ); ( 8 ); ( 9 )

Đặc điểm chủ yếu của hệ thống BHXH:
- Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước.
- Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
- Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả thì
mức chi trả sẽ là cao và ổn định.
- Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ và tiền mặt được sử dụng làm
phương tiện chi trả và thanh toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế
độ BHXH.
- Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự
thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội.
Đối với Việt Nam hiện nay, cơ bản chúng ta quy định có 5 chế độ:
1. Chế độ ốm đau
2. Chế độ thai sản
3.Chế độ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ tử tuất
5. Chế độ hưu trí

Năm 2006, BHXH bước sang giai đoạn mới, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội

×