Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

Tổ chức hoạt động ngoại khóa trong dạy học phần tiếng việt chương trình ngữ văn 10 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.39 KB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

LƢU HỒNG XUÂN

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ TRONG DẠY HỌC
TIẾNG VIỆT–CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2013

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

LƢU HỒNG XUÂN

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ TRONG
DẠY HỌC TIẾNG VIỆT–CHƢƠNG TRÌNH NGỮ
VĂN 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC

(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 10



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Ban

HÀ NỘI – 2013

ii


LỜI CẢM ƠN
Xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến quí thầy cô trong trƣờng Đại học Giáo Dục –
Đại học Quốc Gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi học tập và hoàn thành tốt khóa
học.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Tiến sĩ Nguyễn Thị Ban đã
tận tình, tâm huyết hƣớng dẫn, cùng quý thầy cô trong Hội đồng khoa học đã dành
thời gian đọc, đóng góp ý kiến quí báu giúp tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu, các thầy cô giáo và các em
học sinh các trƣờng THPT trên địa bàn quận Đống Đa, trƣờng THPT Đống Đa –
Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho tôi điều tra khảo sát và thực nghiệm sƣ phạm để
hoàn thành luận văn.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhƣng không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận
đƣợc sự chỉ dẫn, đóng góp của các thầy cô và các bạn đồng nghiệp để luận văn
hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả

Lƣu Hồng Xuân

iii



DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGH:

Ban giám hiệu

CLB:

Câu lạc bộ

GVCN:

Giáo viên chủ nhiệm

GV:

Giáo viên

HĐNK :

Hoạt động ngoại khóa

HS :

Học sinh

NGLL:

Ngoài giờ lên lớp


THCS :

Trung học cơ sở

THPT :

Trung học phổ thông

SGK:

Sách giáo khoa

ii


MỤC LỤC
Lời cảm ơn................................................................................................................. i
Danh mục các chữ viết tắt......................................................................................... ii
Mục lục....................................................................................................................iii
Danh mục các bảng................................................................................................... v
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC............................................................................ 9
1.1. Khái quát về hoạt động ngoại khóa................................................................... 9
1.1.1. Quan niệm về ngoại khóa................................................................................ 9
1.1.2. Đặc điểm của ngoại khóa.............................................................................. 11
1.2. HĐNK trong dạy học Tiếng Việt...................................................................... 13
1.2.1. Nội dung ngoại khóa Tiếng Việt.................................................................... 13
1.2.2. Các hình thức ngoại khóa Tiếng Việt............................................................. 16
1.2.3. Vai trò và tác dụng của ngoại khóa trong dạy học Tiếng Việt........................22
1.3. Thực trạng HĐNK trong dạy học Tiếng Việt ở lớp 10 THPT...........................27

1.3.1. Khảo sát thực trạng trạng HĐNK trong dạy học Tiếng Việt ở lớp 10 THPT 27
1.3.2. Những nhận xét rút ra từ kết quả khảo sát..................................................... 39
Chƣơng 2: ĐỀ XUẤT NỘI DUNG

VÀ CÁCH THỨC

TỔ CHỨC NGOẠI

KHÓA TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT - NGỮ VĂN 10............................... 42
2.1. Nguyên tắc lựa chọn nội dung và cách thức tổ chức ngoại khóa.....................42
2.1.1. Đảm bảo đáp ứng đƣợc mục đích dạy học bám sát nội dung chƣơng trình và
phù hợp với phƣơng pháp đặc trƣng của việc dạy học Tiếng Việt ở trƣờng THPT . 42

2.1.2. Đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm lí và khả năng nhận thức của học sinh
THPT...................................................................................................................... 43
2.1.3. Đảm bảo tạo hứng thú và sự sáng tạo trong học tập cho học sinh.................45
2.1.4. Đảm bảo tích hợp nội dung dạy học ở trƣờng THPT....................................47
2.2. Phân tích chƣơng trình Tiếng Việt - Ngữ văn 10 THPT từ góc nhìn ngoại khóa
49
2.3. Đề xuất nội dung và cách thức tổ chức ngoại khóa trong dạy học Tiếng Việt ở
lớp 10 THPT........................................................................................................... 52

iii


2.3.1. Tổ chức trò chơi, hội thi Tiếng Việt............................................................... 54
2.3.2. Tham quan dã ngoại...................................................................................... 56
2.3.3. Đọc ngoại khóa.............................................................................................. 61
2.3.4. Tổ chức CLB „„Em yêu Tiếng Việt”............................................................. 65
2.3.5. Tổ chức cho học sinh diễn kịch..................................................................... 69

2.4. Những lƣu ý khi tổ chức ngoại khóa................................................................ 74
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM........................................................... 75
3.1. Mục đích thực nghiệm...................................................................................... 75
3.2. Đối tƣợng và địa bàn thực nghiệm................................................................... 75
3.3. Nội dung thực nghiệm...................................................................................... 75
3.3.1. Tổ chức trò chơi, hội thi Tiếng Việt............................................................... 75
3.3.2. Tham quan dã ngoại...................................................................................... 88
3.4. Kết quả thực nghiệm........................................................................................ 90
KẾT LUẬN............................................................................................................ 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 94
PHỤ LỤC............................................................................................................... 96

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng: 1.1. Nhận thức của học sinh về vai trò của HĐNK.......................................28
Bảng: 1.2. Nhận thức của học sinh về những biểu hiện cụ thể mục tiêu HĐNK....29
Bảng: 1.3. Mức độ tham gia của học sinh đối với các nội dung HĐNK phần Tiếng
Việt trong chƣơng trình Ngữ văn 10 THPT............................................................ 30
Bảng: 1.4. Thực trạng nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của HĐNK......31
Bảng: 1.5. Đánh giá của GV về thực trạng tổ chức các hình thức HĐNK...............32
Bảng: 1.6. Đánh giá của giáo viên Ngữ văn về thái độ tham gia của học sinh trung
học phổ thông về nội dung các HĐNK tiêu biểu..................................................... 33
Bảng: 1.7. Đánh giá của BGH về tầm quan trọng của HĐNK................................. 34
Bảng: 1.8. Đánh giá của BGH về kết quả thực hiện chức năng quản lí các HĐNK . 34

Bảng: 1.9. Đánh giá của BGH về hiệu quả của HĐNK.......................................... 36
Bảng: 1.10. Nhận thức của BGH về mức độ quan trọng của các nội dung HĐNK . 37


Bảng: 1.11. Đánh giá của BGH về nhận thức, biểu hiện hành vi tham gia HĐNK
của HS..................................................................................................................... 38
Bảng 3.1. Kết quả thực nghiệm tại trƣờng THPT Đống Đa, Hà Nội.............................91

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động ngoại khóa
Trong giáo dục học nói chung cũng nhƣ trong dạy học các môn học nói
riêng, HĐNK (HĐNK ) là một nội dung quan trọng bổ trợ, mở rộng nội dung dạy
học chính khóa, tạo sự hấp dẫn cho học sinh trong quá trình học tập. Trong xu
hƣớng đổi mới, nâng cao chất lƣợng giáo dục, Bộ Giáo dục đã ban hành nhiều chỉ
thị, văn bản liên quan đến việc đẩy mạnh các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Nội dung của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đã đƣợc xác định trong Điều 26,
Điều lệ Trƣờng trung học cơ sở, trƣờng trung học phổ thông và trƣờng phổ thông
có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2007/QĐ-BGD ĐT ngày
02/04/2007 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) nêu: “Nhà trƣờng phối hợp với
các tổ chức, cá nhân tham gia giáo dục ngoài nhà trƣờng thực hiện các hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các
HĐNK về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an toàn giao thông,
phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục giới tính, giáo dục pháp luật nhằm phát triển
toàn diện và bồi dƣỡng năng khiếu; các hoạt đông vui chơi, tham quan du lịch, giao
lƣu văn hóa, giáo dục môi trƣờng; các hoạt động xã hội, từ thiện phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh”[22, tr. 14]
Công tác ngoại khóa là một phần quan trọng, có mối quan hệ gắn bó khăng
khít với chính khóa. Ngoại khóa là một hoạt động bổ sung và nâng cao chất lƣợng
của chính khóa lên một bƣớc. Bên cạnh những khái niệm, những công thức, tri
thức, việc dạy học cũng phải quan tâm đến quá trình hình thành và phát triển các kĩ

năng, các quan hệ giao tiếp, các mối liên hệ gắn bó giữa ngƣời học với hiện thực
cuộc sống, và việc này liên quan mật thiết đến HĐNK Thực tiễn trong những năm
gần đây ở các nhà trƣờng phổ thông hiện nay, hoạt động dạy học Tiếng Việt nói
chung và HĐNK Tiếng Việt nói riêng ít đƣợc tổ chức, lãnh đạo nhà trƣờng và giáo
viên bộ môn chƣa có sự đầu tƣ cho hoạt động này vì họ thƣờng chú trọng công tác
chuyên môn. Vì thế, kinh nghiệm tổ chức HĐNK còn hạn chế, nếu có tổ chức thì
nội dung và hình thức các buổi sinh hoạt ngoại khóa cứ lặp đi, lặp lại làm cho học
sinh nhàm chán, ít hứng thú tham gia nên hiệu quả đạt đƣợc chƣa cao

1


1.2. Xuất phát từ thực trạng dạy học Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông hiện
nay
Ở nhà trƣờng phổ thông, Tiếng Việt là một môn học giữ vai trò vô cùng quan

trọng có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh (HS) những tri thức về ngôn ngữ học và
hệ thống tiếng Việt, cùng với những quy tắc hoạt động và sản phẩm của nó trong
mọi hoạt động giao tiếp. Mặt khác, vì tiếng nói là công cụ của tƣ duy nên Tiếng
Việt còn đảm nhận thêm một chức năng khác – chức năng trang bị cho HS công cụ
để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trƣờng. Tƣ duy vƣợt trội
và giao tiếp thành công phụ thuộc rất lớn vào khả năng sử dụng ngôn ngữ của mỗi
cá nhân. Tuy vậy, trong chƣơng trình phổ thông, việc dạy Tiếng Việt chƣa đƣợc
chú trọng, bởi sách giáo khoa (SGK) vẫn còn nặng về lý thuyết khô khan. Tình
trạng nội dung lí thuyết và bài tập thực hành mang nặng tính chất ngôn ngữ, nên
hiệu quả dạy học Tiếng Việt trong nhà trƣờng nhìn chung còn chƣa cao, năng lực
sử dụng tiếng Việt của HS còn yếu kém. Nhiều giáo viên (GV) chỉ quan tâm đến
dạy Văn mà chƣa thật quan tâm đến việc hƣớng HS học Tiếng Việt để giao tiếp và
giao tiếp hiệu quả; cũng có những GV quan tâm đến việc dạy Tiếng Việt theo định
hƣớng giao tiếp nhƣng gặp khó khăn trong quá trình giảng dạy. Từ thực tế giao tiếp

với HS, cũng nhƣ qua các bài kiểm tra, bài viết của các em, các thầy cô giáo đều có
chung nhận xét: “kĩ năng trình bày, diễn đạt của HS phần nhiều chƣa tốt”; có em có
ý tƣởng nhƣng “không biết trình bày”, “lúng túng khi diễn đạt, nói (viết) vụng về,

sơ sài” hoặc “lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu logic”, khiến ngƣời nghe khó nắm bắt
đƣợc vấn đề các em muốn trình bày. Dạy nhiều, học nhiều và có thể biết nhiều song
vẫn còn thiếu nhiều hiểu biết đến nơi đến chốn về cách thức và nghệ thuật sử dụng
Tiếng Việt. Và kết quả tất yếu là năng lực Tiếng Việt của các em chƣa đủ đáp ứng
yêu cầu giao tiếp trong công việc học tập cũng nhƣ trong lĩnh vực giao tiếp xã hội.
Đổi mới phƣơng pháp dạy học Ngữ văn đặc biệt là phần Tiếng Việt là tăng
cƣờng các HĐNK cho HS trong quá trình học tập để môn học này gắn bó hơn với
đời sống, hạn chế đƣợc những bất cập. Theo những tinh thần nêu trên, qua quá trình
nghiên cứu sách giáo khoa Ngữ văn 10, với mong muốn góp phần vào việc nghiên
cứu, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả dạy và học Ngữ văn ở trƣờng trung học phổ
thông (THPT) nói chung và dạy học phần Tiếng Việt nói riêng, chúng tôi chọn

2


nghiên cứu đề tài: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ TRONG DẠY HỌC
TIẾNG VIỆT–CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1.Các nghiên cứu ở nước ngoài
Giáo dục hiểu theo nghĩa xã hội học là một hiện tƣợng xã hội, bản chất là sự
tiếp nối kinh nghiệm xã hội, lịch sử qua các thế hệ. Quá trình giáo dục đƣợc tổ
chức, thực hiện một cách có ý thức theo định chuẩn xã hội. Giáo dục khi đó có mục
tiêu, nội dung, phƣơng pháp và các hình thức tổ chức xã hội Ở các nƣớc phát triển
trên thế giới và trong khu vực nhƣ Mỹ, Hàn Quốc, Singapore… ngoại khóa nói
chung, ngoại khóa Văn học nói riêng là một phần không thể thiếu đƣợc trong
chƣơng trình đào tạo của mình. Mục tiêu cuối cùng của giáo dục nhằm phát triển

toàn diện nhân cách đƣợc giáo dục (phổ biến là HS), sự phát triển toàn diện nhân
cách, sự phát triển về thể chất (thể lực, thể hình, thể năng), tâm trí (trí tuệ, tình cảm)
và năng lực thực tiễn (Mác gọi là năng lực kĩ thuật tổ chức, Phƣơng tây gọi là kĩ
năng xã hội, UNESCO gọi là kĩ năng sống)
Muốn đạt đƣợc mục tiêu của giáo dục nêu trên thì giáo dục không khuôn gọn
trong thời gian trên lớp học mà phải mở rộng trong không gian xã hội, tổ chức
HĐNK là hƣớng đến các yêu cầu đó. HS không chỉ là khách thể mà cuối cùng phải
là chủ thể của quá trình giáo dục, giáo dục không chỉ diễn ra trên lớp, trong trƣờng
học mà phải thực hiện lớp, ngoài trƣờng theo phƣơng thức kết hợp giáo dục giữa
nhà trƣờng và xã hội thông qua các hình thức nhƣ học tập, lao động, vui chơi, giáo
dục, sinh hoạt ngoài trời, thăm quan, du lịch, hoạt động trong môi trƣờng, sinh hoạt
tập thể, v.v…
Đây chính là tƣ tƣởng giáo dục lớn của nhân loại và dân tộc. Giáo dục nhà
trƣờng gắn liền với giáo dục xã hội, giáo dục gia đình. Chẳng hạn, Khổng Tử (551
– 479 trƣớc Công nguyên) – một triết gia, một nhà giáo dục lỗi lạc của Trung Hoa
cổ đại muốn rằng qua giáo dục để tạo ra lớp ngƣời “Trị quốc” cũng phải học gắn
với hành. Ông khẳng định “Đọc thuộc ba trăm thƣớc kinh thƣ giỏi, giao cho việc
hành chính không làm đƣợc, giao cho việc đi sứ không có khả năng đối đáp, học
kiểu nhƣ vậy chẳng có ích gì”.

3


Đặc biệt J.A Cômenxki (1592 – 1670) đƣợc coi là “Ông tổ của nền sƣ phạm
hiện đại” đã có những đóng góp lớn lao cho nền giáo dục trên thế giới. Trong đó, ông
đặc biệt quan tâm đến việc kết hợp học tập ở trên lớp và hoạt động ngoài lớp nhằm giải
phóng hình thức học tập “Giam hãm trong bốn bức tƣờng” của hệ thống nhà trƣờng
giáo hội thời trung cổ. Ông khẳng định “học tập không phải là lĩnh hội kiến thức trong
sách vở mà còn lĩnh hội kiến thức từ mặt trời, mặt đất, từ cây sồi, cây dẻ” .


Thomas More (1478–1535) – Nhà giáo dục Không tƣởng đầu thế kỷ XVI đã
đánh giá rất cao vai trò của lao động đối với con ngƣời và đối với xã hội. Việc giáo
dục con ngƣời phải thực hiện kết hợp giáo dục nhà trƣờng và giáo dục ngoài nhà
trƣờng, trong lao động và hoạt động xã hội
Pétxtalôzi (1746–1827) – Một nhà giáo dục lớn của Thụy Sĩ và thế giới trong
thế kỷ 19, với lòng nhân ái sâu sắc, ông muốn cứu vớt trẻ em con nhà nghèo bằng con
đƣờng giáo dục thông qua thực nghiệm giáo dục, đó là việc ông dựng ra “trại mới” ở đây trẻ em vừa đƣợc học tập, vừa lao động (trồng cây thiên thảo, sản xuất thuốc

nhuộm vải ..) ngoài lớp, ngoài trƣờng học. Theo ông hoạt động ngoài lớp không
những tạo ra của cải vật chất mà là con đƣờng để giáo dục toàn diện học sinh
C. Mác (1818 – 1883) và F. Anghen (1820 – 1895) – Ngƣời sáng lập học
thuyết cách mạng XHCN và là ông tổ của nền giáo dục hiện đại. Ông xác định mục
đích nền giáo dục XHCN là tạo ra “con ngƣời phát triển toàn diện”. Muốn vậy phải
theo phƣơng thức giáo dục kết hợp với lao động vật chất”. Đây chính là phƣơng
thức giáo dục hiện đại .
V.I Lênin (1870–1924) ngƣời phát triển học thuyết giáo dục XHCN Mác và
F.Anghen đã vận dụng phƣơng thức giáo dục này vào thực tiễn là một trong những
nguyên tắc của giáo dục XHCN. Trong bài phân tích “nhiệm vụ của Đoàn thanh
niên” (1920) Ngƣời nói “chỉ có thể trở thành cộng sản khi biết lao động và hoạt
động xã hội cùng với công nhân vô sản”
K. Cơrupxkaia (1869 – 1939) – Nhà giáo dục Xô Viết vĩ đại đã phản ánh sâu
sắc ý nghĩa của hoạt động lao động, hoạt động chính trị xã hội. Bà đã vận dụng
phƣơng pháp luận Mác xít vào việc nghiên cứu khoa học giáo dục và đặt nền móng
phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học xã hội chủ nghĩa.

4


Hay A. Macarencô (1888 – 1939) – Nhà giáo dục Xô Viết vĩ đại bỏ công làm
một cuộc thực nghiệm giáo dục vĩ đại trong gần 20 năm “ Trại lao động Goocki và

DecZinxki” nhằm cải tạo trẻ em phạm pháp
Nhƣ vậy, tƣ tƣởng giáo dục trong nhà trƣờng kết hợp với giáo dục ngoài
nhà trƣờng, kết hợp giáo dục lao động sản xuất đã đƣợc nhiều nhà giáo dục vĩ đại
trên thế giới đề cập tới và thử nghiệm thành công.
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
- Về HĐNK

Đã có rất nhiều nghiên cứu về hoạt động này. Nghiên cứu HĐNK ở trƣờng
phổ thông nhấn mạnh vai trò chủ thể trong hoạt động tập thể.; Nghiên cứu đề cập
đến các hình thức tổ chức HĐNK ; Nghiên cứu về công tác quản lý tổ chức HĐNK .
Tiêu biểu nhƣ:
Năm 1995, Chƣơng trình Khoa học – Công nghệ cấp Nhà nƣớc KX.05 với
đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc KX.05.10: “Vị trí, vai trò hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” do PGS. TS Nguyễn Viết Vƣợng chủ nhiệm đề
tài đã bƣớc đầu xây dựng hệ thống các quan điểm lý luận, nhận thức mới, làm tiền
đề đổi mới tổ chức, hoạt động của các tổ chức, đoàn thể nhân dân trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa Xã hội. Trong đề tài đã xác định vị trí, vai trò, tính chất, chức
năng, đặc điểm của các mặt trận, các đoàn thể, tổ chức xã hội.
Luận án tiến sĩ giáo dục học của Nguyễn Thị Thành nghiên cứu về “Biện
pháp tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh trung học phổ
thông”. Công trình đi sâu phân tích khẳng định vai trò hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp (NGLL) trong việc hỗ trợ các hoạt động giáo dục khác trong việc hình thành
những phẩm chất nhân cách, kỹ năng sống cho HS. Vấn đề tác giả đặt ra là: nhà
trƣờng và xã hội dần từng bƣớc tổ chức hoạt động vui chơi, giải trí có tính kỹ thuật,
nghệ thuật để các em phát triển năng khiếu, tài năng của mình và sâu xa hơn là qua
các hoạt động đó mà tác động tới việc hình thành nhân cách của HS.
Công trình nghiên cứu: “Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh
lớp 6 ”, tác giải Phạm Hoàng Gia bằng cách tác động tới cha mẹ HS, các lực lƣợng
giáo dục về định hƣớng giá trị và coi trọng hơn nữa kết quả học tập cho thấy tổ


5


chức hoạt động học tập, nếu lồng ghép đƣợc ý nghĩa tập thể thì nhân cách của HS
cũng đƣợc phát triển.
Hà Nhật Thăng trong cuốn “Thực hành tổ chức hoạt động giáo dục” [24, tr.
44] cũng đã đề cập đến sự cần thiết mục tiêu, nội dung, một số nguyên tắc tổ chức
hoạt động giáo dục, hệ thống kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục và phƣơng pháp
tổ chức hoạt động giáo dục của giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp.
Trong sách “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” Hà Nhật Thăng (Tổng
chủ biên kiêm chủ biên) – Sách giáo viên từ lớp 6, 7, 8, 9, [24, tr. 45 - 48] cũng đã
nêu lên mục tiêu, nội dung chƣơng trình hoạt động giáo dục NGLL, phƣơng tiện,
trang thiết bị cho việc tổ chức hoạt động giáo dục NGLL, đánh giá kết quả tổ chức
hoạt động giáo dục NGLL của HS, đồng thời hƣớng dẫn thực hiện cụ thể các chủ
điểm giáo dục.
Trong các bài viết của tác giả Nguyễn Dục Quang đã đề cập vấn đề đổi mới
nội dung, phƣơng pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục NGLL, giáo dục
quốc tế cho học sinh qua các hoạt động giáo dục NGLL [2., tr. 22, 38, 39, 43], ngoài
ra còn không ít các khóa luận đại học và luận văn thạc sỹ nghiên cứu vấn đề này ở
những khía cạnh khác nhau.
Nhƣ vậy, đã có rất nhiều tác giả đề cập tới vấn đề HĐNK , song các tác giả
hầu hết chỉ đƣa ra các hình thức tổ chức, các biện pháp quản lý hoạt mà chƣa phân
tích các biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả hoạt động này cho HS, chƣa làm nổi
bật vai trò thế mạnh của HĐNK trong việc hình thành nhân cách HS góp phần nâng
cao chất lƣợng giáo dục toàn diện các trƣờng THPT trong giai đoạn hiện nay. Các
chƣơng trình trên cũng chƣa đi sâu nghiên cứu các biện pháp tổ chức HĐNK cho
đối tƣợng HS THPT.
- Về ngoại khóa Tiếng Việt


Trong các giáo trình về lí luận và phƣơng pháp dạy học văn đều có dành một
phần bàn về ngoại khóa và các HĐNK Văn học nói chung, ngoại khóa Tiếng Việt nói
riêng, nhƣ: "Hoạt động văn học ngoài nhà trƣờng, vị trí của công tác ngoại khóa văn
học", "Công tác ngoại khóa văn học với nhiệm vụ đào tạo con ngƣời toàn diện của nhà
trƣờng xã hội chủ nghĩa", "Nguyên tắc HĐNK văn học" của GS. Phan Trọng Luận;
"Tổ chức và hƣớng dẫn học sinh đọc ngoại khóa văn học" của TS.Trần Thanh

6


Bình; gần đây nhất, một số hội thảo đáng chú ý đề cập đến vấn đề HĐNK nhƣ: Hội
thảo "Hiệu quả của HĐNK đối với việc nâng cao chất lƣợng dạy-học trong nhà trƣờng
phổ thông" của Viện Nghiên cứu giáo dục-Trung tâm Đánh giá và kiểm định chất
lƣợng giáo dục; Hội thảo "Công tác quản lí hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở
trƣờng phổ thông" của Trƣờng Cán bộ quản lí giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh cũng
đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề xung quanh HĐNK , hoạt động ngoại khóa văn học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất nội dung và cách thức tổ chức HĐNK trong dạy học
Tiếng Việt 10 - THPT nhằm củng cố, khắc sâu, mở rộng kiến thức tiếng Việt cho
học sinh. Thông qua đó, phát huy tính tích cực, phát triển năng lực sáng tạo của HS;
tạo cho các em hứng thú học tập và yêu thích môn học này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(1)

Nghiên cứu những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu nhƣ: về tính

tích cực, năng lực sáng tạo; việc tổ chức dạy học ngoại khóa Tiếng Việt, việc vận
dụng kiến thức vào việc tổ chức một số HĐNK Tiếng Việt lớp 10 THPT.

(2)

Khảo sát thực trạng dạy học ngoại khóa Tiếng Việt tại một số trƣờng THPT

thuộc địa bàn thành phố Hà Nội.
(3) Đề xuất nội dung và cách thức tổ chức ngoại khoá cho một số đơn vị kiến thức

về Tiếng Việt 10 – THPT
(4) Tổ chức thực nghiệm để kiểm chứng tính khả thi của đề xuất và rút ra một số

kết luận cần thiết.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chƣơng trình Tiếng Việt 10 và việc tổ chức ngoại khoá Tiếng Việt lớp 10 - THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các bài học trong chƣơng trình Tiếng Việt - Ngữ văn 10 THPT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Đọc và phân tích các tài liệu, văn bản để tìm hiểu các khái niệm thuật ngữ và
vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động ngoại khóa, biện pháp tổ chức hoạt động

7


ngoại khóa, đặc điểm tâm lý, phƣơng pháp giáo dục học sinh THPT, nghiên cứu
định hƣớng, đổi mới giáo dục Việt Nam và chƣơng trình đổi mới giáo dục THPT.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng nhóm phƣơng pháp này nhằm xem xét, phân tích các biện pháp,
cách thức tổ chức HĐNK cho HS ở các trƣờng THPT, đảm bảo tính chân thực,
khách quan của đối tƣợng nghiên cứu.

(1) Phương pháp quan sát: Quan sát các kỹ năng, thao tác của HS khi tổ chức hoặc

tham gia các HĐNK .
(2) Phương pháp tọa đàm: Trò chuyện trao đổi với HS, GV, phụ huynh, để đánh

giá nhận thức, hành vi, thái độ của HS, đánh giá những biện pháp tổ chức HĐNK .
(3) Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các của các chuyên gia với các

nhà quản lý thu nhập các thông tin cần thiết liên quan đến đề tài biện pháp tổ chức
HĐNK , nâng cao chất lƣợng giáo dục ở trƣờng THPT.
5.3. Các phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Phân tích những kinh nghiệm trong và ngoài nƣớc của việc tổ chức HĐNK
ở các trƣờng THPT, từ đó đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động phù hợp với

từng địa phƣơng, từng trƣờng THPT.
5.4. Phương pháp thực nghiệm
Tổ chức thực nghiệm một số biện pháp tổ chức HĐNK ở trƣờng THPT đề
xuất nhằm kiểm chứng tính khả thi và kết quả của các hoạt động ở trƣờng THPT về
một số nội dung đã chọn và đánh giá mức độ hoàn thành của luận văn so với mục
đích nghiên cứu của đề tài
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn trình bày thành 3
chƣơng :
Chƣơng 1 : Cơ sở khoa học của việc tổ chức HĐNK Tiếng Việt
Chƣơng 2 : Đề xuất nội dung và cách thức tổ chức ngoại khóa trong dạy học
Tiếng Việt - chƣơng trình Ngữ văn 10 THPT
Chƣơng 3 : Thực nghiệm sƣ phạm

8



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC
1.1. Khái quát về hoạt động ngoại khóa
1.1.1. Quan niệm về ngoại khóa
Từ điển Tiếng Việt giải thích ngoại khóa là: ” môn học hoặc hoạt động giáo
dục ngoài giờ, ngoài chƣơng trình chính thức (nói khái quát): phân biệt với nội
khóa” [2., tr. 66]. Cách cắt nghĩa này chủ yếu nhìn từ phƣơng diện ngôn ngữ, vì
vậy, chƣa làm rõ đƣợc vị trí, vai trò cũng nhƣ quan hệ mật thiết giữa HĐNK
(HĐNK ) và chính khóa. Bởi, ngoại khóa không đơn thuần là một nội dung thứ yếu
độc lập với chính khóa mà song hành, hỗ trợ trực tiếp cho chƣơng trình chính khóa.
Ở Việt Nam, những năm gần đây, cùng với việc đổi mới nội dung, phƣơng

pháp dạy học ở các bậc học thì HĐNK ngày càng đƣợc các nhà giáo dục chú trọng
hơn. Trƣớc hết, đó là sự thay đổi nhận thức về vai trò của HĐNK trong chƣơng
trình giáo dục. Sau những giờ học tập căng thẳng trên lớp, thời gian dành cho
những HĐNK giúp học sinh chủ động tham gia, vui vẻ xả stress, nâng cao đƣợc kĩ
năng sống; tham gia những HĐNK , HS còn có điều kiện gần gũi nhau hơn, chia sẻ
với nhau những kiến thức mà mình đã học tập đƣợc, rèn luyện bản lĩnh tuổi trẻ,
tính tự lập, lòng dũng cảm, sự nhanh nhẹn tháo vát và tinh thần tƣơng thân tƣơng
ái trong quan hệ cộng đồng, bạn bè. Ngoại khóa cũng là một loại hình hoạt động
giáo dục đào tạo nằm trong những phạm vi quy phạm giáo dục của nhà trƣờng. Đó
những hoạt động ngoài thời gian trên lớp, có hoặc không có sự chỉ đạo hay hƣớng
dẫn của GV, đối tƣợng tham gia chính là HS; có nội dung liên quan trực tiếp hay
gián tiếp đến môi trƣờng dạy và học mang tính giáo dục cao.
Xã hội hiện đại đòi hỏi ngƣời có học vấn không chỉ có khả năng lấy ra từ trí
nhớ các tri thức dƣới dạng có sẵn, đã lĩnh hội ở nhà trƣờng phổ thông; mà còn phải có
năng lực chiếm lĩnh, sử dụng các tri thức một cách độc lập; khả năng đánh giá các sự
kiện, các tƣ tƣởng, các hiện tƣợng mới một cách thông minh, sáng suốt khi gặp vấn đề
trong cuộc sống, trong lao động và trong mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời. Nội dung

kiến thức đƣợc hình thành và phát triển trong quá trình đƣợc đào tạo trong nhà trƣờng
và quá trình tự học phải góp phần quan trọng để phát triển hứng

9


thú và năng lực nhận thức của học sinh; cung cấp cho HS những kĩ năng cần thiết
cho việc tự học và tự giáo dục sau này.
Tuy nhiên, những nội dung kiến thức đƣợc trình bày trong SGK không đủ
đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển con ngƣời mới theo mong muốn. Chính vì vậy,
bên cạnh các hoạt động phục vụ chƣơng trình chính khóa, phải có các HĐNK .
HĐNK là dịp để HS củng cố, đối chiếu những kiến thức đã đƣợc học và giúp các
em phát huy cao độ tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức mới.
HĐNK là hoạt động giáo dục sự lĩnh hội và hoạt động thẩm mĩ, là các hoạt
động nằm ngoài chƣơng trình học chính khóa, thƣờng mang tính chất tự nguyện
hơn là bắt buộc, là một hoạt động không đặt sự giảng dạy của GV lên hàng đầu, mà
xem trọng hoạt động tự giác, sự vận dụng sáng tạo của HS. Các HĐNK cho phép
HS tự thể hiện ý kiến và suy nghĩ, góp phần xây dựng kỹ năng lãnh đạo và áp dụng
kiến thức vào thực tế. HS biết cách học một cách kiên nhẫn để đạt đến mục tiêu,
phát triển tài năng hay kỹ năng cũng nhƣ xây dựng nhân cách trong quá trình tự
học tập. HS có thể tham gia HĐNK ở lớp/trƣờng hoặc ngoài xã hội với nhiều lựa
chọn khác nhau: thể thao, văn hóa, nghệ thuật....
Về hiệu quả của HĐNK , các nhà giáo dục khẳng định: “Bên cạnh chức
năng củng cố, mở rộng kiến thức và kỹ năng của một môn học nào đấy đƣợc học ở
chƣơng trình chính khóa, HĐNK đáp ứng yêu cầu đa dạng hoá hình thức học tập,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện tƣ duy sáng tạo, phát triển‟‟; HĐNK
góp phần “ rèn luyện kỹ năng sống, các kiến thức xã hội và các năng lực khác cho
học sinh” [3.tr 17]
Ngoài tác dụng tích cực đối với ngƣời học, HĐNK “còn góp phần hoàn
thiện khả năng chuyên môn và kỹ năng sƣ phạm của ngƣời thầy trong quá trình

chuẩn bị và "đồng hành" với ngƣời học khám phá kiến thức mới.” [3.tr 50]. Chính
vì vậy, hiện nay ngoại khóa là một nội dung không thể thiếu trong chƣơng trình
giáo dục ở tất cả các bậc học. Tuy nhiên, HĐNK là những hoạt động đƣợc thực
hiện ngoài giờ học, tuỳ thuộc vào hứng thú, sở thích, nguyện vọng của mỗi HS
trong khuôn khổ khả năng và điều kiện tổ chức có đƣợc của nhà trƣờng.

10


Nhƣ vậy, HĐNK là một thuật ngữ dùng để chỉ các hình thức hoạt động nằm
ngoài chương trình học chính khóa, kết hợp dạy học với vui chơi, nhằm mục đích
gắn việc giảng dạy, học tập trong nhà trường với thực tế xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của ngoại khóa
Nhiệm vụ trung tâm mà nhà trƣờng phổ thông ngày nay đang ra sức phấn
đấu chính là nhiệm vụ rèn luyện đào tạo con ngƣời mới phát triển toàn diện về trí,
đức, thể, mĩ,… Để đảm đƣơng đƣợc nhiệm vụ to lớn đó, nhà trƣờng phải nỗ lực
phấn đấu với tất cả những khả năng có thể có của mình. Những kết quả nghiên cứu
tâm - sinh lý của HS và điều tra xã hội gần đây trên thế giới cũng nhƣ ở nƣớc ta
cho thấy thanh thiếu niên có những thay đổi trong sự phát triển tâm-sinh lý, đó là sự
thay đổi có gia tốc. Trong điều kiện phát triển của các phƣơng tiện thông tin đại
chúng, trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao lƣu, HS đƣợc tiếp nhận nhiều nguồn
thông tin đa dạng, phong phú từ nhiều mặt của cuộc sống, có hiểu biết nhiều hơn,
linh hoạt và thực tế hơn. Trong học tập, HS không thỏa mãn với vai trò của ngƣời
tiếp thu thụ động, không chỉ chấp nhận các giải pháp đã có sẵn đƣợc đƣa ra. Nhƣ
vậy, ở lứa tuổi này nảy sinh một yêu cầu và cũng là một quá trình là sự lĩnh hội độc
lập các tri thức và phát triển kĩ năng. Nhƣng các phƣơng thức học tập ở HS nếu
muốn đƣợc hình thành và phát triển một cách có chủ định thì cần thiết phải có sự
hƣớng dẫn đồng thời tạo các điều kiện thuận lợi nhất.
Trong công tác ngoại khóa, năng lực hoạt động tự lập của HS đƣợc phát huy.
Các em tìm hiểu, nghiên cứu, suy nghĩ và tự mình trình bày các kiến thức mà tự mình

khám phá đƣợc. GV không phải là ngƣời lên lớp giảng bài, truyền thụ kiến thức, ở
đây công tác độc lập của HS chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Ngoài tác dụng giáo
dục tƣ tƣởng, tình cảm, mở rộng, bổ sung cho kiến thức nội khóa, phát triển tài năng
cá nhân, nâng cao khả năng hoạt động tự lập, trình độ thực hành và khả năng làm việc
tập thể của HS đƣợc phát huy rõ rệt. Công tác ngoại khóa đƣợc tổ chức tốt còn có tác
dụng gắn liền HS với đời sống một cách có hiệu quả. HĐNK là một cầu nối giúp HS
vận dụng kiến thức vào đời sống, sinh hoạt gần gũi với tập thể, với nhân dân hơn một
bƣớc. Ngoại khóa không chỉ nhằm mục đích phục vụ nội khóa nhƣ bổ sung, nâng cao,
đào sâu kiến thức và kĩ năng của chính khóa; nó còn có tác dụng tốt đối với việc giảng
dạy của giáo viên, củng cố mối quan hệ đúng đắn giữa

11


thầy và trò.
Đối với GV, giờ học ngoại khóa giúp họ hiểu hơn về HS của mình, phát hiện
đƣợc khả năng của các em, từ đó mà điều chỉnh phƣơng pháp giảng dạy cho phù
hợp; GV có thêm vốn kiến thức thực tế để bài giảng phong phú hơn, và họ tự tin
hơn khi truyền thụ kiến thức cho HS.
Trong Báo cáo chính trị của Trung ƣơng Đảng Lao động Việt Nam tai Đại
hội lần thứ III đã khẳng định: "Công tác giáo dục và đấu tranh tƣ tƣởng phải gắn
liền với cuộc sống, nó phải cụ thể, tinh tế, linh hoạt, có lí có tình, không đƣợc trừu
tƣợng, giản đơn, rập khuôn cứng nhắc" [21]. GV phải biết đi sâu vào tâm hồn, tình
cảm của các em để uốn nắn và xây dựng. Chính trong HĐNK , GV có điều kiện
gần gũi với HS để nắm vững những biểu hiện về đạo đức, tƣ tƣởng, tình cảm của
các em ngay trong sinh hoạt hằng ngày cũng nhƣ trong sinh hoạt tập thể. Phạm vi
những giờ lên lớp không cho phép GV hiểu đƣợc sâu sắc đối tƣợng mà mình giáo
dục vì tình cảm, đạo đức của HS không phải là những khái niệm, những công thức,
những câu lí luận trong sách vở. Thời gian học tập trên lớp thì hạn chế mà nhu cầu
hiểu biết của HS là không có giới hạn. Công tác ngoại khóa đƣợc tổ chức một cách

hợp lí và có chất lƣợng sẽ mở rộng và nâng cao vốn hiểu biết của HS.
HĐNK là hình thức dạy học mang tính tích hợp cao, có tác dụng phát triển kiến
thức và rèn luyện kĩ năng toàn diện cho ngƣời học, là một trong những con đƣờng để
phát triển năng lực trong mỗi cá nhân HS trong nhà trƣờng phổ thông, tạo ra môi
trƣờng thuận lợi để HS phát triển tƣ duy, hình thành nhân cách đáp ứng theo yêu cầu
của xã hội. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc bổ sung các kĩ năng và kinh
nghiệm sống cho HS, giúp HS trở thành một con ngƣời toàn diện và thú vị hơn.

HĐNK cũng góp phần đổi mới phƣơng pháp giáo dục, khắc phục lối truyền
thụ một chiều nhƣ bấy lâu nay của ta, giúp HS rèn luyện thói quen, biết cách tự học
và hợp tác trong học tập; tích cực, chủ động, sáng tạo trong phát hiện và giải quyết
vấn đề để tự chiếm lĩnh tri thức mới; giúp HS tự đánh giá năng lực của bản thân;
đồng thời góp phần giúp GV phát hiện và bồi dƣỡng những học sinh có năng lực
đặc biệt, đem lại chất lƣợng mới cho giáo dục phổ thông nói riêng, cho ngành giáo
dục và đào tạo Việt Nam nói chung.
Điều lệ trƣờng trung học (Điều 26) quy định: "Nhà trƣờng phối hợp với các

12


tổ chức, cá nhân tham gia giáo dục ngoài nhà trƣờng thực hiện các hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các HĐNK về khoa
học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an toàn giao thông, phòng chống tệ nạn xã
hội, giáo dục giới tính, pháp luật nhằm phát triển toàn diện và bồi dƣỡng năng khiếu;
các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lƣu văn hóa, giáo dục môi trƣờng;
các hoạt động xã hội, từ thiện phù hợp với đặc điểm sinh lí tuổi học sinh" [22, tr. 14].
Quy định này cũng đồng thời là những nội dung cụ thể mà HĐNK phải hƣớng đến. Tổ
chức thực hiện các HĐNK cũng là tổ chức thực hiện điều lệ.

HĐNK là một khoa học sử dụng tổng hợp tri thức của nhiều hình thức

học tập. Đồng thời nó còn là một trong những biện pháp hiệu lực nhằm gắn liền
việc giảng dạy và học tập văn học với đời sống, góp phần đào tạo và xây dựng con
ngƣời toàn diện cho xã hội.
1.2. HĐNK trong dạy học Tiếng Việt
1.2.1. Nội dung ngoại khóa Tiếng Việt
Mục tiêu của hoạt đông ngoại khóa là nhằm củng cố, khắc sâu những tri thức đã
học qua các môn học trên lớp, mở rộng, nâng cao hiểu biết cho học sinh về các lĩnh
vực đời sống xã hội, tăng vốn hoạt động thực tiễn… Chƣơng trình Ngữ văn hiện nay
đƣợc xây dựng theo tinh thần tích hợp, gắn bó chặt chẽ giữa phân môn Văn học Tiếng Việt - Làm văn. Mục đích của môn Ngữ văn là rèn luyện năng lực cảm thụ cái
đẹp trong văn học nghệ thuật, biết sử dụng tiếng Việt để giao tiếp có hiệu quả, biết yêu
nƣớc, yêu xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, ngƣời dạy phải xây dựng nội dung ngoại
khóa sao cho phù hợp.Về nội dung của HĐNK đối với GV, kinh nghiệm cho thấy
ngƣời phụ trách ngoại khoá phải nắm bắt đƣợc những vấn đề khó khăn từ thực tế
giảng dạy của đồng nghiệp, có thể là những vấn đề thuộc về kiến thức, về kĩ năng,
phƣơng pháp giảng dạy. Cũng có thể là những vấn đề khó khăn từ phía HS: trình độ,
tâm lý tiếp nhận. Ngƣời chủ trì ngoại khoá phải tập hợp đƣợc nhiều ý kiến tranh luận
của các thành viên tham dự, phải coi đó là điều bình thƣờng, là dấu hiệu chứng tỏ
những vấn đề, những nội dung mà ngƣời chủ trì ngoại khoá đƣa ra đã thực sự là vấn
đề đƣợc quan tâm. Đồng thời, ngƣời chủ trì tổ chức ngoại khoá cũng cần đƣa ra đƣợc
những đề xuất, cách thức giải quyết các vấn đề khó khăn, bức xúc một cách kịp thời,
thể hiện đƣợc tiếng nói và trí tuệ, quyết tâm của cả tập thể. Ngƣời tổ

13


chức cần tôn trọng và hiểu biết điều này để phát huy trí tuệ của tập thể, của đồng
nghiệp trong điều kiện tốt nhƣ thế. Việc dạy tiếng chỉ có hiệu quả khi quá trình dạy
học trở thành quá trình tổ chức và hoạt động giao tiếp. Kết quả của HĐNK phụ thuộc
rất nhiều vào phƣơng pháp làm việc giữa thầy và trò. Nó tạo ra không khí thân mật,
gần gũi giữa thầy và trò; tạo ra những tranh luận khoa học cần thiết giữa các nhóm HS

với nhau. Thể hiện ở chỗ: mỗi HS đều tham gia vào hoạt động và bộc lộ hết mình. GV
đóng vai trò dẫn dắt HS thực hiên các thao tác cần thiết, trên cơ sở phân tích mục đích
- yêu cầu - nội dung của buổi ngoại khoá nhằm phát triển hứng thú nhận thức - sáng
tạo ở các em Khi hƣớng dẫn HS tham gia vào quá trình này, GV đã phát huy đƣợc tính
tích cực, chủ động, của các em qua các mặt: sƣu tầm tƣ liệu, chuẩn bị bài, phát biểu ý
kiến, đánh giá và vận dụng… Việc làm này hình thành ở HS nhu cầu tự học, cách tích
luỹ và khai thác kiến thức. Mặt khác, nhiều "mẫu" trong SGK mặc dù đã đƣợc chọn
lọc nhƣng vẫn không thể phong phú, đa dạng bằng thực tiễn nói năng hàng ngày.
Nhiều công thức, qui tắc, khái niệm trừu tƣợng chƣa đƣợc hiểu sâu, hiểu kĩ ở phần
chính khoá sẽ đƣợc phản ánh sinh động, cụ thể hơn trong thực hành giao tiếp qua hệ
thống ngữ liệu đƣợc HS tập hợp. HS sẽ biết rút ra những qui tắc, thể thức cần thiết cho
việc sử dụng tiếng Việt, hình thành nên kĩ năng, kĩ xảo. Những nhận xét, kết luận của
các em sẽ không mang tính sơ lƣợc, phiến diện mà trở nên có cơ sở khoa học nhờ
đƣợc kiểm chứng bằng phản xạ, bằng trực cảm tự nhiên của ngƣời bản ngữ. Kiến thức
đƣợc hình thành theo lối qui nạp nhƣ vậy sẽ chắc chắn hơn, hiệu quả hơn so với lối
dạy "chay", thuần tuý thuyết trình.
Nội dung của HĐNK nói riêng và ngoại khóa phần Tiếng Việt trong chƣơng
trình Ngữ văn THPT nói chung rất phong phú và đa dạng thể hiện qua các hoạt động
nhƣ đọc sách, văn nghệ, nghiên cứu, tham quan, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sinh hoạt
câu lạc bộ (CLB), tổ chức triển lãm… nhờ đó các kiến thức tiếp thu đƣợc ở trên lớp có
cơ hội đƣợc áp dụng, mở rộng trên thực tế, đồng thời có tác dụng nâng cao hứng thú
học tập môn Ngữ văn ở trƣờng phổ thông. Tiếng Việt là một môn học mang tính đặc
thù: học tiếng Việt để sử dụng nó thành thạo trong giao tiếp hằng ngày. Thông qua bài
học ngoại khóa giúp học sinh nắm đƣợc những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt, đồng
thời có ý thức rèn luyện thói quen và năng lực sử dụng tiếng Việt theo yêu cầu đó. Rèn
luyện về tiếng Việt để rèn luyện về tƣ duy lôgic, giúp HS có cơ sở học tốt các môn

14



học khác: biết phân tích - phán đoán, có khả năng rút ra kết luận và suy luận một cách
khoa học, biết cách giải quyết có hiệu quả những tình huống vấn đề trong học tập và
cuộc sống. Trên nền tảng về kiến thức và kỹ năng, HS khi học tiếng Việt phải có năng
lực hành động, năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp và năng lực tự khẳng định. Phải
xác định rằng ngoại khoá trong chƣơng trình chung của môn học về HĐNK thƣờng
tiến hành sau những bài học (lý thuyết) ở phần chính khoá, đƣợc nhấn mạnh lại ở phần
này nên GV cần bao quát phạm vi tri thức - kĩ năng thể hiện nó trong hệ thống của
phân môn để đề ra yêu cầu thực hiện nó với thời lƣợng thích hợp, tránh làm xáo trộn
chƣơng trình và trùng lặp về kiến thức. Tốt nhất là phần chính khoá chỉ nên giới thiệu
ở một chừng mực cần thiết cho sự hiểu biết tối thiểu về một mặt nào đó của vấn đề để
qua đó gợi trí tò mò, ham tìm tòi, phát hiện ở HS, đặt cơ sở cho việc trình bày nó sâu
hơn, đầy đủ hơn trong phần ngoại khoá. Trong phần Tiếng Việt 10, cần phải căn cứ vào
nội dung bài học chính khóa để xác định nội dung và hình thức tổ chức HĐNK . Ví dụ,
sau khi học xong bài học Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, HS hiểu đƣợc đặc điểm của
phong cách ngôn ngữ này trong giờ học chính khóa trên lớp. Qua ngoại khóa sân khấu
hóa văn học, các em đƣợc xem và đƣợc biểu diễn các trích đoạn chèo cổ dân gian,
chơi các trò chơi đố vui Tiếng Việt, giải đáp các ô chữ, học sinh đƣợc mở rộng thêm
kiến thức về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, lời ăn tiếng nói vừa gần gũi bình dị, vừa
tế nhị và hết sức duyên dáng của ông bà ta xƣa. Từ đó các em biết vận dụng hiểu biết
về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt để tạo lập và lĩnh hội văn bản phù hợp phong cách.
Hay qua hình thức sinh hoạt CLB, tổ chức các đêm thơ, các buổi văn nghệ, HS sẽ
đƣợc sắm vai các liền anh liền chị, hát những bài hát giao duyên, giã bạn quan họ, rồi
giao lƣu với các thầy cô giáo trong tổ bộ môn để tìm hiểu thêm ý nghĩa của các bài ca
dao dân ca mà mình vừa thể hiện, qua đó các em cũng đƣợc thực hành về các phép tu
từ ẩn dụ và hoán dụ, phép điệp và phép đối trong chƣơng trình Tiếng Việt lớp 10 thật
thú vị và sâu sắc. Muốn đạt đƣợc điều đó, ngƣời tổ chức các HĐNK phải lựa chọn nội
dung ngoại khoá đảm bảo tính thiết thực - bổ ích, tính thực tiễn - khả thi, tính ứng dụng
- thực hành cao tránh đƣa vấn đề ra một cách chung chung, sơ lƣợc, phiến diện.
Những nội dung chủ đề tìm hiểu về Tiếng Việt vừa phải có ý nghĩa - tức là phải đƣợc
khái quát từ nhiều dạng hoạt động và sử dụng tiếng Việt không mang tính khiên cƣỡng

và cá biệt - lại vừa phải phù hợp đặc điểm tâm lý - nhận

15


thức của HS. Tiếng Việt đang trên đà phát triển mạnh mẽ, để theo kịp với đà phát
triển của xã hội về mọi mặt cho nên những vấn đề ngoại khoá cũng cần đƣợc
"soạn" theo sát hƣớng phát triển này, qua đó giúp HS đón nhận đƣợc những tri thức
- thành tựu mới của Việt ngữ học nhƣ: ngôn ngữ học văn bản, ngữ pháp chức năng,
ngữ nghĩa học, ngữ dụng học… góp phần củng cố thêm những khái niệm vốn rất
trừu tƣợng và khó hiểu đối với HS mà ở phần chính khoá chƣa có điều kiện nhấn
mạnh, đào sâu (nhƣ: tiền giả định, hàm ngôn, hàm ý, hàm ẩn, ý nghĩa tình thái, ngữ
cảnh…) Ngoài ra, khi tiến hành một nội dung ngoại khoá nào đấy, GV cũng cần
giúp HS nhận ra đặc điểm loại hình của tiếng Việt - một thứ tiếng tiêu biểu cho loại
hình ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính, không biến hình (biểu hiện ở các phƣơng
diện khác nhau của nó). Việc phân tích, miêu tả tiếng Việt cần xuất phát từ lời ăn
tiếng nói hằng ngày của ngƣời Việt để rút ra qui tắc sử dụng nó, tránh bị ảnh hƣởng
từ những ngôn ngữ xa lạ nhƣ các tiếng châu Âu.
Thông qua HĐNK Tiếng Việt, ngƣời học đã trƣởng thành và học tập đƣợc rất
nhiều, rất sâu sắc những vấn đề mà trong các hoạt động chính khóa không đủ đáp ứng.

1.2.2. Các hình thức ngoại khóa Tiếng Việt
Cơ sở lựa chọn hình thức ngoại khóa là phải đảm bảo số lƣợng, năng lực,
điều kiện và hoàn cảnh của học sinh. Do điều kiện hòan cảnh để xác định hình thức,
không lặp lại cái cũ, cách thức tiến hành ở các lớp và các thời điểm là phải khác
nhau. Ngay cả tên Câu lạc bộ dù không thay đổi thì nội dung thực hiện cũng khác
nhau. Giáo viên không nên áp đặt mà nên xuất phát từ nhu cầu thực sự của học trò.
Việc phát triển hứng thú cho HS trong HĐNK đòi hỏi GV phải lựa chọn nội
dung và cụ thể hoá hình thức ngoại khoá; đồng thời sáng tạo thêm những cách làm
mới và vận dụng nó một cách linh hoạt sao cho phù hợp với điều kiện, tình hình

thực tế ở từng địa phƣơng, tôn trọng tính tiếp thu vừa mức, vừa sức của HS. HĐNK
có thể đƣợc tổ chức dƣới nhiều dạng: dạng tập thể, dạng nhóm theo năng khiếu,
dạng thƣờng kì hay đột xuất nhân những dịp kỉ niệm hay lễ hội. Ví dụ: cắm trại
chào mừng ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thành lập Đoàn TNCS HCM;
học nhảy cuối tuần.....
HĐNK có thể do tổ bộ môn, GVCN, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh... và học sinh của một lớp, một khối lớp hay toàn trƣờng thực hiện. Đối với

16


phần Tiếng Việt trong chƣơng trình ngữ văn 10 THPT có rất nhiều hình thức tổ
chức HĐNK . Ở bậc Tiểu học, tƣ duy của HS thƣờng mang tính trực quan, cảm
tính, bao giờ cũng phải gắn liền với những sự vật, hình ảnh đƣợc tri giác cụ thể trực tiếp. Còn bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông thì các em đã biết tƣ duy
trừu tƣợng. Ngƣời tổ chức căn cứ vào những đặc điểm thực tế của HS mà lựa chọn
hình thức ngoại khóa phù hợp, sinh động, gây hứng thú, tránh sự đơn điệu, gò bó,
căng thẳng. Phải làm sao để những "trò chơi ngôn ngữ" cũng nhƣ những vấn đề về
tiếng mẹ đẻ mà ngƣời thầy gợi ra có sức hấp dẫn, lôi cuốn đƣợc tất cả HS trong
lớp, huy động các em tham gia tích cực vào quá trình tìm kiếm ngữ liệu, khám phá
tri thức, chủ động phát hiện vấn đề, biết bảo về quan điểm, biết trình bày kết quả
khảo sát của mình trên cơ sở cùng tham gia một hoạt động tập thể… Để làm đƣợc
điều này, vai trò của GV rất quan trọng: định hƣớng trò chơi, gợi ý cách hiểu vấn
đề, sửa những lỗi sau trong khi sắp xếp phân loại ngữ liệu, đƣa ra nhận xét, đánh
giá chính xác, động viên và khích lệ tinh thần tập thể ở các em.
Do đó, việc truyền giảng các khái niệm chuyên sâu - các thuật ngữ khoa học
không dễ dàng và đơn giản. GV cần chuẩn bị những tài liệu hấp dẫn và đa dạng,
những hình thức là trò chơi trí tuệ giúp HS phát triển lời nói, làm giàu vốn từ, nâng
cao năng lực biểu đạt cả trong nói và viết. Có những hình thức ngoại khoá sau đây:
• Nhóm Tiếng Việt
• Góc Tiếng Việt

• Báo tƣờng
• Thi HS giỏi Tiếng Việt
• Trò chơi ngôn ngữ
• Tham quan
• Dạ hội Tiếng Việt
Ở bậc THCS, các trò chơi ngôn ngữ vẫn tiếp tục đƣợc thực hiện nhƣng có

mở rộng hơn với những hình thức phong phú, đa dạng, mới lạ hơn nhƣ:
• Rút thăm điền từ
• Lật hình nối chữ
• Ô chữ cầu thang
• Đô-mi-nô

17


• Kết bạn
• Ô quan
• Chơi bài tạo câu…

Lên bậc PTTH, khi trình độ tƣ duy của HS phát triển ở mức khái quát hơn,
trừu tƣợng hơn và năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ của các em trở nên hoàn thiện hơn
thì một số hình thức trên không còn phù hợp nữa do hiệu quả nhận thức và tính ứng
dụng không cao. Một số hình thức ngoại khoá khác vẫn đƣợc kế thừa nhƣng đƣợc
nâng cao hơn về yêu cầu-quy mô-tính chất (phù hợp với việc cung cấp dung lƣợng
kiến thức cho HS ở bậc này nhiều hơn và cao hơn ở bậc dƣới)
Chẳng hạn, cùng thực hiện trò chơi ngôn ngữ với mục đích luyện phản ứng
nhanh, mở rộng vốn từ và kết hợp từ, nếu ở bậc Tiểu học, HS chỉ đơn giản gọi tên
nhanh các vật đƣa ra trong dạng hình vẽ, hoặc cho trƣớc một chữ cái rồi gọi nhanh
tên các loài cây, con vật… thì ở bậc PTTH lại áp dụng hình thức "qua hình vẽ đoán

ý nghĩa của từ, ngữ". Ví dụ: Còn ở hình thức thi đố, nếu ở bậc Tiểu học, HS chỉ
dừng ở mức tìm những từ mà đọc từ trái sang phải, từ phải sang trái đều nhƣ nhau
(những âm tiếng có phụ âm đầu và phụ âm cuối giống nhau nhƣ: nan, ngang, các,
tốt, chếch…) thì lên bậc PTTH, khi đố chữ, đố hình ảnh - sự vật, HS đƣợc yêu cầu
phải liên hệ, suy luận ở mức cao hơn: phải nắm đƣợc ý nghĩa sự vật trong các
trƣờng đồng nghĩa, phân biệt đƣợc hiện tƣợng đồng âm giữa các từ cũng nhƣ nhận
ra sự chuyển nghĩa phức tạp của từ trong ngữ cảnh sử dụng.
Cách này phát huy khả năng liên tƣởng, liên hệ phong phú của HS, rèn cho
các em thói quen tƣ duy chính xác. Ngƣời nào đoán đƣợc đúng, đƣợc nhiều thì
ngƣời đó có vốn từ phong phú, có khả năng trực cảm cao về tiếng mẹ đẻ. HS vừa
đƣợc mở rộng kiến thức và văn hoá - xã hội - lịch sử qua ý nghĩa của các thành ngữ
- tục ngữ vừa biết cách phân tích cấu trúc của nó (tính chất cân xứng về vần điệu,
âm thanh trong câu tục ngữ; tính chất "đối" hoặc "so sánh" trong thành ngữ).
Ngoài ra, ở bậc PTTH còn có thể áp dụng những hình thức nhƣ:
Sƣu tầm tài liệu, ngữ liệu:
Đây là hình thức ngoại khoá theo hƣớng tích hợp nhiều nội dung của một phân
môn sau một số bài học cụ thể. Việc học lý thuyết liên tục sẽ tạo ra áp lực nặng nề,
căng thẳng đối với HS nhất là khi các em cần phải ghi nhớ và nắm bắt hàng loạt

18


×