BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. LỜI GIỚI THIỆU
Nhân loại đang đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học công
nghệ, trước những biến đổi không ngừng vừa theo dòng chảy quy luật vừa đột
biến bất thường. Con người trong tương lai phải là con người biết hành động
một cách năng động và sáng tạo, thích ứng nhanh với những thay đổi và khả
năng tiếp cận giải quyết vấn đề mềm dẻo, linh hoạt. Thế nhưng trong hoạt
động dạy học hiện nay vai trò chủ thể của học sinh dường như còn đang ở dạng
tiềm tàng – tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh chưa được phát huy,
không ít giáo viên vẫn còn là trung tâm của lớp học. Vì vậy, việc tìm hiểu và xác
định phương pháp dạy học thích ứng để nâng cao chất lượng giảng dạy là một
đòi hỏi cấp bách đối với các trường học, và xét ở góc độ nhỏ hơn thì đó cũng là
ước muốn và trách nhiệm của mỗi giáo viên tâm huyết với nghề nghiệp.
Đứng ở góc độ khác, trong những năm gần đây các tài liệu bồi dưỡng cho
giáo viên đã đề cập khá nhiều việc chuyển từ kiểu dạy học lấy giáo viên làm
trung tâm sang kiểu dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Nội dung của kiểu dạy
học này nhằm chuẩn bị cho học sinh khả năng thích ứng với đời sống và năng
lực giải quyết vấn đề thực tiễn. Phương pháp của kiểu dạy học lấy học sinh
làm trung tâm rất chú ý đến cách hoạt động nhằm phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh.
Nhìn chung việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học đã và đang
được nhiều giáo viên thực hiện, và cũng đã có nhiều sáng kiến trong việc phát
huy tính tích cực học tập của học sinh. Thế nhưng, khi áp dụng thực tế dạy học
giáo viên cũng gặp không ít những khó trong việc áp dụng phưong dạy học phát
huy tính tích cực học tập của học sinh, một số giáo viên vẫn còn thuyết trình
nhiều, cung cấp kiến thức đôi khi còn áp đặt, vì thế kết quả giảng dạy chưa
cao. Do đó, vận dụng phương pháp dạy học nào để thu hút học sinh vào bài dạy
của mình để nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung và ở bộ môn Ngữ văn nói
riêng, làm thế nào để rèn cho cho học sinh có phương pháp tự học, học sinh tích
cực chủ động chiếm lĩnh tri thức trong giờ học, đây là vấn đề trăn trở được
nhiếu giáo viên quan tâm.
1
Vì vậy, để phát huy hơn nữa kết quả đã đạt được trong những năm học
vừa qua và khắc phục những hạn chế thiếu sót trong dạy học Ngữ văn theo
hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Được sự quan tâm cho phép
của Ban giám hiệu trường THPT Tam Đảo 2, tôi đã mạnh dạn tiến hành làm
sáng kiến kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng
dạy môn Ngữ văn, mặc dù khả năng còn hạn chế nhưng bằng sự tìm tòi của
mình tôi cố gắng đề xuất một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có
thể vận dụng trong giờ học Ngữ văn. Đây là cơ hội để bản thân tự củng cố, trau
dồi kiến thức học hỏi kinh nghiệm từ các thế hệ giáo viên đi trước để vận dụng
vào trong quá trình giảng dạy sau này của bản thân và cũng để đồng nghiệp
tham khảo.
2. TÊN SÁNG KIẾN: Vận dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích
cực nhằm hình thành năng lực học sinh trong giờ đọc hiểu Ngữ văn tại trường
THPT Tam Đảo 2
3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
Họ và tên: Lê Thị Thoa
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Tam Đảo 2.
Số điện thoại: 0948005683
E_mail:
4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN
Tác giả cùng với sự hỗ trợ của nhóm giáo viên môn ngữ văn trường
THPT Tam Đảo 2 về kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật trong quá trình
viết sáng kiến và dạy thực nghiệm sáng kiến.
5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Sáng kiến được áp dụng cho việc dạy giờ đọc hiểu Ngữ văn của trường
THPT Tam Đảo 2. Từ đó, sáng kiến đưa ra những định hướng cho giáo viên bộ
môn Ngữ văn trong những giờ dạy đọc hiểu Ngữ văn cho học sinh.
6. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU
Sáng kiến này chính thức được áp dụng lần đầu vào 10/12/2018.
7. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
7.1 NỘI DUNG SÁNG KIẾN:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của sáng kiến
1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục
2
Ngày nay, nhiều thành tựu khoa học và kĩ thuật xuất hiện và đổi mới vô
cùng nhanh chóng. Theo đó, hệ thống giáo dục cũng đặt ra những yêu cầu cần
phải đổi mới. Việc thi thố tài năng bằng sự thuộc lòng những hiểu biết mang
tính lí thuyết dần được thay bằng năng lực chuyên môn, năng lực giải quyết vấn
đề đưa ra những cách giải quyết mang tính sáng tạo hiệu quả cao, thích ứng với
đời sống xã hội.
Trước đòi hỏi của thực tiễn, nước ta đang trên con đường hội nhập và
phát triển thì đổi mới giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học, là hết
sức cần thiết. Điều 28 khoản 2 của Luật giáo dục có ghi: “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học
sinh”. Đổi mới giáo dục đỏi hỏi nhà trường không chỉ trang bị cho học sinh
những kiến thức đã có của nhân loại mà còn phải bồi dưỡng, hình thành ở các
em tính năng động, óc tư duy sáng tạo, và kĩ năng thực hành.
2. Xuất phát từ những quy luật hoạt động của não bộ.
Nếu như một cái cây có ba phần lá ngọn, thân và dễ thì những phương
pháp và kĩ thuật dạy học chỉ là phần lá ngọn, và gốc rễ của phần lá ngọn của
những phương pháp kĩ thuật dạy học chính là phần những quy luật hoạt động
của não bộ. Từ những quy luật nhận thức của người học, các nhà nghiên cứu
mới đưa ra những phương pháp và kĩ thuật dạy học khác nhau nhằm phát huy tối
đa quá trình nhận thức của người học. Từ những quy luật hoạt động của não bộ,
chúng ta có thể ứng dụng vào dạy học như sau:
Quy luật thứ nhất: Não có giới hạn về số lượng thông tin ghi nhớ (Chỉ ghi
nhớ được một lượng thông tin nhất định nếu quá tải sẽ xóa bỏ (quên) hoặc bóp
méo (nhớ nhầm). Vì thế trong dạy học giáo viên cần: chia nhỏ, cung cấp liều
lượng thông tin vừa đủ, tránh tràn; tập trung vào những điểm trọng tâm; nói
chậm, giảng chậm.
Quy luật thứ hai: Mức độ xử lí thông tin tỉ lệ thuận với hiệu quả ghi nhớ.
Muốn thông tin được ghi nhớ lâu và chính xác trong não bộ thì thông tin đó cần
được não xử lí bằng việc tìm ra mối quan hệ, sắp xếp các thông tin theo một
trật tự, lôgic nhất định. Vì thế trong dạy học giáo viên cần: tạo cơ hội cho
người học chủ động xử lí thông; đa dạng hóa các hoạt động xử lí thông tin.
Quy luật thứ ba: Trong rất nhiều những thông tin thì não bộ sẽ ghi nhớ rất
tốt những thông tin độc đáo, khác biệt. Vì thế trong dạy học giáo viên cần: làm
3
cho bài giảng của mình độc đáo; đưa thêm các yếu tố thú vị, cuốn hút vào bài
giảng.
Quy luật thứ tư: Não bộ ghi nhớ rất tốt những thông quen thuộc, có ý
nghĩa. Vì thế trong dạy học giáo viên cần: đi từ những điều đã biết; tăng ví dụ
liên hệ thực tế; sử dụng ẩn dụ, kể chuyện…
Quy luật thứ năm: Não bộ ghi nhớ thông tin rất tốt và rất lâu khi có nhu
cầu cần ghi nhớ. Vì thế trong dạy học giáo viên cần: để “ngứa” rồi hãy gãi; tạo
ra các tình huống thách thức; để học sinh thật “bí” rồi mới giúp.
Quy luật thứ sáu: Não bộ chia ra làm hai bán cầu, ở mỗi bán cầu não trái
thì hoạt động hoàn toàn khác nhau. Vì thế trong dạy học giáo viên cần: tăng yếu
tố âm thanh, hình ảnh; sử dụng sơ đồ tư duy; hướng dẫn học sinh ghi nhớ, ghi
chú bằng hình ảnh.
2. Xuất phát từ thực tiễn.
Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông, tôi luôn
trăn trở phải làm thế nào để học sinh có thể làm chủ, tự lực chiếm lĩnh kiến
thức, tích cực, chủ động, sáng tạo, phát huy năng lực có kĩ năng giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Và đặc biệt phải làm thế nào để học sinh yêu
thích môn văn không coi môn ngữ văn là môn học ru ngủ. Đây thưc sự là một
thách thức lớn đối với bản thân tôi.
Thực chất mục đích của việc học là để đem những kiến thức được trang
bị để vận dụng giải quyết những tình huống/ vấn đề đặt ra trong thực tiễn, góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống nhưng hiện nay nhiều học sinh giỏi trong
nhà trường lại cũng là những “chú gà công nghiệp” trong thực tiễn đời sống.
Học môn Ngữ văn ngoài việc bồi dưỡng năng lực thẩm mĩ, làm giàu dời sống
tâm hồn, hướng thiện cho đời sống tinh thần,…. còn là để sử dụng ngôn từ.
Ngôn từ là công cụ để đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản,… Tuy nhiên đó là
chưa nói đến việc đọc để hiểu một văn bản. Học về ngôn ngữ để sử dụng ngôn
ngữ nhưng học sinh có khả năng giao tiếp tốt, khả năng viết một văn bản đúng
phong cách chức năng trong mỗi nhà trường đều không nhiều, đó là chưa kể đến
khả năng trình bày thuyết phục một vấn đề trước tập thể,… Sẽ rất lãng phí nếu
học một tác phẩm văn học mà chỉ để hiểu giá trị của tác phẩm ấy. Thực tế là
vậy, tuy học về một tác phẩm thơ nhưng người học vẫn thiếu khả năng tự đọc
hiểu, phân tích một bài thơ tương tự. Điều này xuất phát từ hai lí do chính: thứ
nhất, do không được trang bị những tri thức, công cụ, tức là các tri thức về
phương pháp tiếp cận; thứ hai, do áp lực về nội dung, người dạy không có thời
gian hướng dẫn học sinh dùng các tri thức công cụ để tự mình tiếp cận và phân
tích tác phẩm.
4
Tôi đã thử nhiều giải pháp, mỗi giải pháp đem lại thành công nhất định. Vì
thế qua mỗi lần thử nghiệm, tôi đã tự điều chỉnh và tự hoàn thiện dần phương
pháp dạy học. Đặc biệt sau khi tham gia khóa học “Các phương pháp dạy học
tích cực” của tiến sĩ Trần Khánh Ngọc, tôi nhận thấy việc sử dụng những
phương pháp kĩ thuât dạy học tích cực nhằm phát huy năng lực người học sẽ
đem lại hiệu quả cao trong việc giúp học sinh chủ động tìm kiếm và lĩnh hội
kiến thức bài học, giúp học sinh có được những năng lực cần thiết và biết vận
dụng những năng lực đó vào thực tiễn cuộc sống.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã thiết kế bài giảng những tiết đọc hiểu
Ngữ văn theo những phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy
năng lực của học sinh.
Chương II: Một số khái niệm và phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực
1. Dạy học tích cực
Dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để
chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học.
“Tích cực” trong phương pháp dạy học tích cực tức là hoạt động, chủ
động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái
với tiêu cực.
Dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động
nhận thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người
học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy
nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so
với dạy theo phương pháp thụ động.
2. Đặc trưng của dạy học tích cực
Dạy học thông qua các hoạt động của học sinh
Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp học
sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những
tri thức được sắp đặt sẵn. Theo tinh thần này, giáo viên không cung cấp, áp đặt
kiến thức có sẵn mà là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt
động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng
tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn,...
Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Chú trọng rèn luyện cho HS những tri thức phương pháp để họ biết
cách đọc sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến
thức đã có, biết cách suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới,... Các tri
5
thức phương pháp thường là những quy tắc, quy trình, phương thức hành động,
tuy nhiên cũng cần coi trọng cả các phương pháp có tính chất dự đoán, giả định
(ví dụ: phương pháp giải bài tập vật lí, các bước cân bằng phương trình phản
ứng hóa học, phương pháp giải bài tập toán học,...). Cần rèn luyện cho học sinh
các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương
tự, quy lạ về quen... để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo của họ.
Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác
Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương
châm “tạo điều kiện cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận
nhiều hơn”. Điều đó có nghĩa, mỗi học sinh vừa cố gắng tự lực một cách độc
lập, vừa hợp tác chặt chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi
kiến thức mới. Lớp học trở thành môi trường giao tiếp thầy – trò và trò – trò
nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể
trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung.
Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến
trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng
phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của HS với nhiều hình thức
như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có
thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.
3. Một số kĩ thuật dạy học tích cực
Kĩ thuật đặt câu hỏi
Kĩ thuật khăn phủ bàn
Kĩ thuật mảnh ghép
Sơ đồ tư duy
Kĩ thuật “KWL”
Kĩ thuật lắng ghe và phản hồi tích cực…
4. Một số phương pháp dạy học tích cực
Dạy học theo nhóm
Dạy học nêu/phát hiện và giải quyết vấn đề.
Dạy học theo góc
Dạy học theo hợp đồng
Dạy học theo dự án…
Chương III: Đề xuất một số phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực
nhằm phát huy năng lực người học trong giờ đọc hiểu Ngữ văn khối
THPT.
6
1. Mục đích, yêu cầu của một giờ đọc hiểu Ngữ văn.
Mục đích: Trong giờ đọc hiểu Ngữ Văn, giáo viên phải giúp học sinh đạt
được những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng thái độ và năng lực.
Yêu cầu: để đạt được những mục đích đó yêu cầu một giờ đọc hiểu cần
phải
+ Học sinh phải được trải nghiệm những hoạt động học tập dưới sự tổ
chức hướng dẫn của giáo viên. Muốn làm được điều đó trong mỗi tiết dạy giáo
viên phải thiết kế được những hoạt động học tập phù hợp với nội dung bài học,
qua những hoạt động đó học sinh năm được nội dung bài học, phát triển kĩ năng,
năng lực.
+ Khối lượng kiến thức vừa đủ, dễ tiếp thu đối với học sinh. Não bộ của
con người có giới hạn ghi nhớ, mà trong giờ đọc hiểu Ngữ văn học sinh phải
tiêp xúc với một khối lượng thông tin đồ sộ về tác giả, về hoàn cảnh sáng tác,
nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Nếu giáo viên bê nguyên cả một khối
lượng kiến thức khổng lồ vào giờ học, sẽ dẫn đến hiện tượng học sinh xóa bỏ
hoặc bóp méo thông tin kiến thức. Muốn vậy trong giờ học, giáo viên phải chọn
lựa những kiến thức trọng tâm, cho học sinh ghi nhớ bằng những từ khóa và đặc
biệt cần phải chia nhỏ kiến thức, hệ thống kiến thức bằng cây thư mục bằng
sơ đồ tư duy.
+ Trong giờ học giáo viên phải tạo cơ hội cho học sinh xử lí, nhào lặn
thông tin thì hiệu quả ghi nhớ sẽ rất cao. Ví dụ khi cảm thụ văn bản, giáo viên
nên cho học sinh cảm nhận qua gợi ý, trình bày vào giấy, thuyết trình, nghe và
nhận xét thông qua các hoạt động học tập. Càng được xử lí thông tin nhiều lần
thì thông tin sẽ được ghi nhớ chính xác trong não bộ.
+ Giờ dạy phải có sự độc đáo và mới lạ. Để tạo được sự độc đáo trong
giờ đọc hiểu Ngữ văn, giáo viên nên tổ chức cho học sinh học tập thông qua
những trò chơi như giải ô chữ, nhìn hình đoán chữ, tìm chữ, tìm số, tìm
người…..
+ Kiến thức bài học phải có sự quen thuộc và ý nghĩa. Đối với những văn
bản xa lạ, khó hiểu, trừu tượng, giáo viên cần phải biến lạ thành quen biến trừu
tượng thành cụ thể, rõ ràng để học sinh dễ nhận biết.
+ Học sinh cần được nhận thức rõ học bài này để làm gì? Khi có mục
đích, có nhu cầu cần học thì thái độ học tập sẽ rất nghiêm túc và hiệu quả.
2. Thực hiện các hoạt động học tập trong giờ đọc hiểu Ngữ văn thông qua
các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
Trong giờ đọc hiểu môn Ngữ văn nói riêng cũng như giờ học nói chung
phải đảm bảo 5 hoạt động. Ở mỗi một hoạt động chúng ta thường vận dụng
7
những phương pháp kĩ thuật khác nhau nhằm đạt mục tiêu riêng của mỗi hoạt
động và đảm bảo sự phong phú linh hoạt trong giờ dạy.
2.1. Hoạt động khởi động
Mục đích: Hoạt động khởi động tạo hứng thú và kết nối giữa kiến thức
cũ và kiến thức mới, tạo động cơ học tập cho học sinh.
Cách thực hiện: Có nhiều cách để tạo tình huống nhưng nguyên tắc
chung là:
+ Giáo viên dựa trên việc huy động kiến thức, kinh nghiệm của bản thân
học sinh có liên quan đến vấn đề xuất hiện trong bài học, làm bộc lộ “cái” học
sinh đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân học sinh còn thiếu, giúp học sinh nhận
ra “cái” chưa biết và muốn biết thông qua hoạt động này. Từ đó, giúp học sinh
suy nghĩ và bộc lộ những quan niệm của mình về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập.
+ Các câu hỏi/nhiệm vụ trong hoạt động này là những câu hỏi/vấn đề mở,
không cần có câu trả lời hoàn chỉnh. Kết thúc hoạt động này, giáo viên không
chốt về nội dung kiến thức mà chỉ giúp học sinh phát biểu được vấn đề để
chuyển sang các hoạt động tiếp theo nhằm bổ sung những kiến thức, kĩ năng
mới, qua đó, hoàn thiện câu trả lời hoặc giải quyết được vấn đề.
Đối với hoạt động khởi động trong giờ đọc hiểu chúng ta nên sử dụng
những kĩ thuật dạy học như sau:
+ Kĩ thuật trò chơi: Cho học sinh tham gia một trò chơi (đoán ô chữ, tìm từ
khóa ai nhanh hơn, nhớ nhanh….) thông quac các trò chơi này giáo viên cho chọ
sinh hướng tới một từ khóa, một chủ đề, một vấn đề có liên quan đến nội dung
tiết dạy. Sau khi kết thúc trò chơi từ khóa, chủ đề đã được gọi ra, giáo viên sẽ
dẫn dắt vào giới thiệu bài mới.
+ Kĩ thuật theo dõi tư liệu và trả lời câu hỏi: Yêu cầu học sinh theo dõi
một đoạn nhạc, một video, một tiểu phẩm, hoặc giáo viên có thể hát một bài
hát, hoặc đọc một đoạn thơ. Sau đó giáo viên đưa ra một câu hỏi có liên quan
đến tư liệu vừa rồi để gọi tên từ khóa hoặc chủ đề của bài học và đẫn dắt giới
thiệu vào bài mới.
+ Kĩ thuật giải quyết tình huống: Giáo viên đưa ra một tình huống, một
vấn đề cần giải quyết, cho học sinh đưa ra những phương án giải quyết khác
nhau và giáo viên dẫn dắt vào nội dung bài học sẽ giúp học sinh có cách giải
quyết vấn đề đó một cách đúng đắn.
2.2. Hoạt động hình thành kiến thức
Mục đích: Giúp học sinh chiếm lĩnh được kiến thức, kỹ năng mới và đưa
các kiến thức mới vào hệ thống kiến thức, kĩ năng của bản thân.
8
Cách thực hiện
+ Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học sinh, giúp học sinh xây
dựng những kiến thức mới thông qua các hoạt động khác nhau như: nghiên cứu
tài liệu, đọc văn bản, xử lí ngữ liệu, hoạt động trải nghiệm sáng tạo… học sinh
tạo ra sản phẩm, báo cáo kết quả, phản biện, bổ sung lẫn nhau…giáo viên quan
sát và hỗ trợ khi cần thiết.
+ Mỗi câu hỏi, nhiệm vụ học tập đều phải tường minh, rõ nghĩa để học
sinh không hiểu lầm ý giáo viên.
+ Kết thúc hoạt động này, trên cơ sở kết quả hoạt động học của học sinh,
giáo viên cần chốt kiến thức mới để học sinh chính thức ghi nhận và vận dụng,
giáo viên cần có định hướng mở để phát huy năng lực cảm thụ, tiếp nhận sáng
tạo.
Đối với hoạt động hình thành kiến thức trong những giờ đọc hiểu Ngữ
văn, giáo viên cần hướng dẫn, tổ chức các hoạt động học tập cho học sinhthông
qua các kĩ thuật như sau:
a. Kĩ thuật đóng vai
Kĩ thuật đóng vai có rất nhiều ưu điểm nổi bật. Học sinh được rèn luyện,
thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn
trước khi thực hành trong môi trường thực tiễn gây hứng thú cho học sinh, thông
qua đó hình thành kĩ năng giao tiếp, cơ hội bộc lộ cảm xúc. Tạo điều kiện phát
triển óc sáng tạo của học sinh.
Trong trường hợp, có thể có một số học sinh nhút nhát, thiếu tự tin khi
đứng trước tập thể, vốn từ ít khó thực hiện vai diễn của mình, giáo viên cần
động viên, khuyến khích, tạo cơ hội cho các học sinh tham gia bắt đầu từ những
tình huống cơ bản.
Có thể cho một học sinh đóng vai phóng viên, hay MC còn một học sinh
đóng vai tác giả tham gia trong một chương trình. Trong cuộc trò chuyện đó học
sinh đóng vai phóng viên, MC sẽ có những cau hỏi gợi dẫn để học sinh đóng vai
tác giả trả lời những câu hỏi đó. Qua những câu trả lời của tác giả thì những
kiến thức về tác giả tác phẩm được cụ thể hóa. Giáo viên yêu cầu cả lớp chú ý
và ghi chép lại sau đó giáo viên củng cố. Hoặc có thể cho học sinh đóng vai một
nhân vật để kể lại câu chuyện, trình bày một vấn đề ở các góc nhìn khác nhau…
b Kĩ thuật nhóm
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự
tham gia tích cực của học sinh trong học tập; là phương pháp góp phần quan
trọng trong hình thành và phát triển năng lực hợp tác Trong thảo luận nhóm, học
sinh được tham gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm
9
cùng quan tâm Thảo luận nhóm là hoạt động mang tính dân chủ. Mọi cá nhân
đều được tự do trình bày quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón
nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện
kĩ năng giải quyết vấn đề khó khăn.
Thảo luận nhóm được tiến hành theo các hình thức: nhóm nhỏ (cặp đôi,
cặp ba), nhóm trung bình ( 4 đến 6 người), nhóm lớn (8 đến 10 người).
Khi tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, giáo viên cần sử dụng
nhiều cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho học sinh, đồng thời tạo cơ
hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Có
các cách chia nhóm như theo số điểm danh, theo tháng sinh, theo sở thích, theo
hình ghép…
Khi chia nhóm, giáo viên cần lưu ý, số lượng đơn vị kiến thức tỉ lệ thuận
với số lượng nhóm, và nhiệm vụ của các nhóm phải đảm bảo tương đương
nhau, tránh quá dễ hoặc quá khó Gv có thể có những câu hỏi gợi ý cho mỗi nhóm
thông qua phiếu học tập.
Đối với giờ đọc hiểu môn Ngữ văn hoạt động thảo luận nhóm được tiến
hành khi tổ chức nội dung học tập tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của văn bản.
c. Kĩ thuật Bản đồ/sơ đồ tư duy
Bản đồ sơ đồ tư duy nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng hay
kết quả làm việc của cá nhân nhóm về một chủ đề.
Đầu tiên học sinh sẽ viết tên chủ đề, ý tưởng chính ở trung tâm, sau đó từ
chủ đề trung tâm sẽ vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh chính viết một nội dung
lớn của chủ đề hoặc ý tưởng có liên quan xoay quanh ý tưởng trung tâm. Từ mỗi
nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết thêm những nội dung thuộc nhanh
chính đó.
Kĩ thuật này thường sử dụng kết hợp với kĩ thuật nhóm trong yêu cầu
trình bày sản phẩm của các nhóm.
d. Kĩ thuật phòng tranh.
Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm
Giáo viên cần nêu câu hỏi/ vấn đề cho cả lớp hoặc cho nhóm. Mỗi thành
viên hoặc mỗi nhóm phác họa những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên
một tờ bìa và treo lên tường xuang quanh lớp học như một phòng tranh.
Giáo viên cho học sinh cả lớp đi xem tranh và có thể có ý kiến bình luận
hoặc bổ sung.
Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết đều được tập hợp lại và tìm
phương án tối ưu.
e. Kĩ thuật hỏi chuyên gia
10
Kĩ thuật này có thể kết hợp với kĩ thuật nhóm để tạo thành nhóm ghép và
nhóm chuyên gia.
Từ nhóm chuyên gia ban đầu, giáo viên đánh số thứ tự cho các thành viên
trong từng nhóm, sau đó yêu cầu các thành viên trong mỗi nhóm di chuyển để
tạo thành nhóm ghép, ở mỗi nhóm ghép đều có các chuyên gia về các sản phẩm
mà nhóm chuyên gia ban đầu tạo thành.
Ở mỗi nhóm ghép các chuyên gia sẽ là người giảng giải và trả lời các câu
hỏi của thành viên trong nhóm về sản phẩm mà nhóm chuyên gia ban đầu của
mình nghiên cứu. Sau đó các nhóm ghép di chuyển sang sản phẩm khác và
chuyên gia khác lai tiếp tục giảng giải và trả lời các câu hỏi của các thành viên
trong nhóm.
g. Kĩ thuật hẹn hò
Đây là kĩ thuật gây húng thú và sự hấp dẫn cho người đọc nhờ sự hồi hộp
và dí dỏm.
Để thực hiện kĩ thuật này, giáo viên chia lớp thành hai dãy mỗi dãy tìm
hiểu một nội dung khác nhau của bài học. Sau đó giáo viên phát cho học sinh
một tờ giấy có vẽ chiếc đồng hồ, yêu cầu học sinh tìm đối tác ( khác dãy) để
hẹn hò trong các cung giờ quy định. Sau khi tìm được đối tác xong giáo viên cho
học sinh đến tìm đúng đối tác mà mình đã hẹn hò để trao đổi với nhau về những
nội dung của bài học.
h. Kĩ thuật khăn trải bàn.
Kĩ thuật này giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả hơn, mỗi học sinh
đều phải đưa ra ý kiến của mình về chủ đề đang thảo luận, không ỷ lại vào các
bạn học khá, giỏi.
Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với một chủ đề nhỏ trong tiết
học, toàn thể học sinh cùng nghiên cứu một chủ đề.
Sau khi các nhóm hoàn tất công việc giáo viên có thể gắn các mẫu giấy
“khăn trải bàn” lên bảng để cả lớp cùng nhận xét. Có thể dùng giấy nhỏ hơn,
dùng máy chiếu phóng lớn. Có thể thay số bằng tên của học sinh để sau đó giáo
viên có thể đánh giá được khả năng nhận thức của từng học sinh về chủ đề
được nêu.
Trong giờ đọc hiểu Ngữ văn, kĩ thuật này sẽ phát huy hiệu quả trong việc
giáo viên cho học sinh hình thành kiến thức về văn bản thông qua cảm nhận văn
bản. Mỗi học sinh sẽ có một cảm nhận khác nhau về đối tượng, điều quan
trọng là học sinh phải biết sâu chuỗi những cảm nhận riêng biệt đó thành hệ
thống và có sức thuyết phục.
2.3. Hoạt động luyện tập
11
Mục đích: Giúp học sinh củng cố, hoàn thiện kiến thức, kỹ năng vừa lĩnh
hội được, đặc biệt là kiến thức, kĩ năng trọng tâm của bài học, từ đó giáo viên
đánh giá được mức độ nắm bắt kiến thức của học sinh.
Cách thực hiện
+ Giáo viên yêu cầu học sinh áp dụng trực tiếp kiến thức vừa học vào giải
quyết các câu hỏi/bài tập/tình huống/vấn đề trong học tập.
+ Tùy từng đối tượng người học, giáo viên có thể giao những nhiệm vụ
đảm bảo tính vừa sức và tính định hướng nhằm giúp học sinh thuần thục kĩ
năng, hiểu sâu hơn về những tri thức vừa chiếm lĩnh. Đồng thời, cần thiết kế
những bài tập có tính nâng cao, tính mở nhằm phát huy năng lực sáng tạo của
học sinh và chuẩn bị cho các bước còn lại của bài học.
+ Kết thúc hoạt động này, giáo viên chốt kiến thức để học sinh ghi nhận
và vận dụng, trước hết là vận dụng để hoàn chỉnh câu trả lời/giải quyết vấn đề
đặt ra trong hoạt động khởi động.
Đối với hoạt động luyện tập trong giờ đọc hiểu Ngữ văn, giáo viên có
thể sử dụng những phương pháp và kĩ thuật như hệ thống thành sơ đồ tư duy,
giải mật thư, hẹn hò…. Qua các hoạt động này học sinh có thể vận dụng tốt
những kiến thức vừa tiếp thu được vận dụng vào tình huống, bài tập.
2.4. Hoạt động vận dụng
Mục đích: Giúp học sinh vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học
để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề trong thực tế cuộc sống ở gia
đình, địa phương.
Cách thực hiện
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã
học để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề trong thực tế cuộc sống ở
gia đình, địa phương…
+ Học sinh có thể nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự hiểu biết
của mình, tìm phương pháp giải quyết vấn đề và đưa ra những cách giải quyết
vấn đề khác nhau, góp phần hình thành năng lực học tập với gia đình và cộng
đồng
2.5. Hoạt động tìm tòi, mở rộng
Mục đích: Giúp học sinh mở rộng thêm kiến thức, phát triển sáng tạo
Cách thực hiện
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc thêm các đoạn trích, văn bản có liên
quan, trao đổi với người thân về nội dung bài học, tìm đọc thêm ở sách báo,
mạng Internet..
12
+ Hoạt động này không cần tổ chức ở trên lớp và không đòi hỏi tất cả học
sinh tham gia. Tuy nhiên, giáo viên cần quan tâm, động viên để có thể thu hút
nhiều học sinh tham gia một cách tự nguyện, khuyến khích những học sinh có
sản phẩm chia sẻ với các bạn trong lớp.
+ Học sinh có thể có những ý tưởng sáng tạo vượt ra khỏi ý tưởng thiết
kế bài học của giáo viên. Khi ấy, giáo viên càng có vai trò quan trọng trong việc
định hướng, uốn nắn, khích lệ học sinh.
Chương IV: Xây dựng bài giảng minh họa
1. Xây dựng kế hoạch bài học cho tác phẩm thơ: Tiết 26 Ca dao than thân
yêu thương tình nghĩa môn Ngữ văn lớp 10
Tiết 26 CA DAO THAN THÂN, YÊU THƯƠNG, TÌNH NGHĨA
( Tiết 2)
1. MỤC TIÊU BÀI HỌC
a. Kiến thức
Cảm nhận được tiếng hát than thân và lời ca yêu thương tình nghĩa của
người bình dân trong XHPK qua nghệ thuật đậm đà màu sắc dân gian của ca
dao.
Đồng cảm, thương xót cho thân phạn bất hạnh của người phụ nữ và
những bất hạnh trong tình yêu của con người trong xã hội cũ.
b. Kĩ năng.
Có kĩ năng đọc và phân tích ca dao
c. Thái độ
Trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người lao động và yêu quý những sáng tác
của họ.
d Năng lực
Năng lực tự học:
+ Xác định mục tiêu học tập: Xác định được nhiệm vụ học tập một
cách tự giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để nỗ lực phấn đấu thực
hiện.
+ Đánh giá và điều chỉnh việc học: Nhận ra và điều chỉnh những sai
sót, hạn chế của bản thân khi được giáo viên, bạn bè góp ý; chủ động tìm kiếm
sự hỗ trợ của người khác khi gặp khó khăn trong học tập.
Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo:
+ Phát hiện và làm rõ vấn đề: Phân tích được tình huống trong học
tập; phát hiện và nêu được tình huống có vấn đề trong học tập.
+ Đề xuất, lựa chọn giải pháp: Xác định được và biết tìm hiểu các
thông tin liên quan đến vấn đề; đề xuất được giải pháp giải quyết vấn đề.
13
+ Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề: Thực hiện
giải pháp giải quyết vấn đề và nhận ra sự phù hợp hay không phù hợp của giải
pháp thực hiện.
Năng lực giao tiếp:
+ Sử dụng tiếng Việt: Nghe hiểu nội dung chính hay nội dung chi tiết các
đề bài, lời giải thích, cuộc thảo luận; có thái độ tích cực trong khi nghe; có phản hồi phù
hợp,...
+ Xác định mục đích giao tiếp: Bước đầu biết đặt ra mục đích giao
tiếp và hiểu được vai trò quan trọng của việc đặt mục tiêu trước khi giao tiếp.
Năng lực hợp tác:
+ Xác định mục đích và phương thức hợp tác: Chủ động đề xuất
mục đích hợp tác khi được giao các nhiệm vụ; xác định được loại công việc nào
có thể hoàn thành tốt nhất bằng hợp tác theo nhóm với quy mô phù hợp.
+ Đánh giá hoạt động hợp tác: Biết dựa vào mục đích đặt ra để tổng
kết hoạt động chung của nhóm; nêu mặt được, mặt thiếu sót của cá nhân và của
cả nhóm.
Năng lực thẩm mỹ:
+ Nhận ra cái đẹp: Có cảm xúc và chính kiến cá nhân trước hiện
tượng trong tự nhiên, đời sống xã hội và nghệ thuật.
+ Diễn tả, giao lưu thẩm mỹ: Giới thiệu được, tiếp nhận có chọn
lọc thông tin trao đổi về biểu hiện của cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã
hội, trong nghệ thuật và trong tác phẩm của mình, của người khác.
II. CHUẨN BỊ CỦA THẦY VÀ TRÒ
1. Chuẩn bị của giáo viên
Giáo án/thiết kế bài học;
Sách giáo khoa, SGV, sách bài tập;
Các slides trình chiếu;
Các phiếu học tập, bao gồm: các sơ đồ để HS điền thông tin, các bài tập
dùng để kiểm tra, đánh giá HS trong quá trình đọc hiểu;
Bang phân công nhiêm vu cho hoc sinh hoat đông trên l
̉
̣
̣
̣
̣
̣
ơp, bút d
́
ạ;
Bang giao nhiêm vu hoc tâp cho hoc sinh
̉
̣
̣ ̣ ̣
̣
ở nha.̀
2. Chuẩn bị của học sinh
Sách giáo khoa, sách bài tập, giấy A0, bút dạ, bút màu;
Soạn bài theo các câu hỏi hướng dẫn học bài.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức
Lớp
Ngày dạy
Sĩ số
14
2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra trong giờ
3. Bài mới:
Hoạt động của gv và hs
Yêu cầu cần đạt
I. Ho
ạt độ
ng Kh
ở
i
độ
ng
(5 phút)
* Muc tiêu:
̣
+ Đặt vấn đề vào bài mới, giúp học
sinh có tâm thế thoải mái, chủ động
khi tiếp cận kiến thức mới.
+ Rèn kĩ năng cảm thụ văn học
+ HS phát triển năng lực: năng lực
tìm hiểu vấn đề, năng lực giao tiếp.
* Phương phap/kĩ thu
́
ật:
Theo dõi vi deo và trả lời câu hỏi.
* Phương tiện:
+ Giáo án/thiết kế bài học
+ Sách giáo khoa
+ Vi deo
+ Đồng hồ đếm ngược có nhạc.
* Cách thức thực hiện:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
học tập
Giáo viên Cho học sinh theo dõi vi
deo bài hát Thuyền và biển, yêu cầu
chú ý vào những câu từ và khái quát
nên trạng thái cảm xúc được nhắc
đến trong lời bài hát là gì?
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học
tập
Học sinh theo dõi, suy nghĩ, làm
việc cá nhân
Bước 3: Báo cáo kết quả học tập:
Giáo viên gọi học sinh trả lời
Cả lớp theo dõi, nhận xét góp ý.
15
Bước 4: Đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ
Giáo viên nhận xét, đánh giá, bổ sung,
chốt lại
Từ đó Giáo viên dẫn dắt học sinh vào
bài:
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ.
Một trái tim còn yêu là một trái tim
còn nhớ, một trái tim hết nhớ là một
trái tim đã hết yêu. Vì vậy nỗi nhớ
trong tình yêu đã trở thành một nguồn
cảm hứng bất tận cho các văn nghệ
sĩ. Từ thời xa xưa các tác giả dân gian
cũng đã diễn tả rất trọn cảm xúc này
trong một bài ca dao vô cùng da diết
và sâu lắng đó là bài ca dao số 4 trong
trùm ca dao than thân yêu thương tình
nghĩa
II. Hoạt độ
ng:
Hình thành kiến
thức mới (30 phút)
1. Bài ca dao số 4
a. Hoạt động tìm hiểu nỗi nhớ
thương
* Muc tiêu:
̣
Học sinh phân tích được nỗi nhớ
được thể hiện qua các hình ảnh khăn,
đèn, mắt
Rèn kỹ năng cảm thụ văn học, phân
tích văn học.
HS phát triển năng lực: năng lực
giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng
lực giao tiếp và hợp tác, năng lực
thẩm mỹ.
* Phương phap/kĩ thu
́
ật: kĩ thuật
bản đồ tư duy, kĩ thuật băng chuyền,
nhóm ghép nhóm chuyên gia.
* Phương tiện:
1. Bài 4:
Bài Ca dao gồm 12 dòng được sáng
tác theo thể thơ vãn bốn và lục bát. Dù là
thể vãn bốn hay thể lục bát thì nhịp thơ
vẫn là nhịp chẵn đều đặn 2/2/2 nó gợi ra
âm điệu da diết nên rất phù hợp cho việc
diễn tả những cung bậc cảm xúc của con
người. Trong thể vãn bốn kết hợp với lục
bát thì những câu vãn bốn là những câu nói
về những sự vật và ở đây nó là những hình
ảnh ngoại hiện còn những câu lục bát là
trực tiếp giãi bày những tâm tư tình cảm
16
Giáo án/thiết kế bài học
Sách giáo khoa
Các slides trình chiếu
Bảng phụ, bút dạ
Đồng hồ đếm ngược có nhạc kích
thích học tập
* Cách thức thực hiện:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
học tập.
Giáo viên chia lớp thành 3 cụm, mỗi
cụm 3 nhóm (nhóm 1, 2,3), thực hiện
các nhiệm vụ sau
Các nhóm số 1 của 3 cụm: Tìm hiểu
về hình ảnh “khăn”
Các nhóm số 2 của 3 cụm: Tìm hiểu
về hình ảnh “đèn”
Các nhóm số 3 của 3 cụm: Tìm hiểu
về hình ảnh “mắt”
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học
tập
Nhiệm vụ 1: Các nhóm thảo luận
theo nhiệm vụ đã đã phân công. Nội
dung thảo luận ghi vào tờ giấy A0.
Thời gian thảo luận là 4 phút theo
đồng hồ đếm ngược.
Nhiệm vụ 2: Các nhóm thảo luận
thống nhất về cách thuyết trình về
sản phẩm của mình. Thời gian là 2
phút.
Nhiệm vụ 3: Các nhóm sẽ phân số
cho nhau từ 13. Những người thừa ra
sẽ đứng ra lên trên bục giảng để giáo
viên phân số theo tứ tự từ 13.
Nhiệm vụ 4: Các nhóm di chuyển
về nhóm mới (nhóm ghép) theo quy
luật: số 1 về đứng tại vị trí sản
phẩm số 1, số 2 sẽ về vị trí sản
phẩm số 2, những bạn số 3 về vị trí
của cô gái. Trong những bài ca dao khác
sáng tác theo thể thơ này chúng ta cũng
thấy rõ cấu trúc như thế.
Hòn đá đóng rong
vì dòng nước chảy
Hòn đá bạc đầu
Bởi tại sương sa
Thương anh chẳng dám nói ra
Sợ mẹ bằng đất sợ cha bằng trời.
Thương anh cũng muốn kết đôi
Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan
Và ở bài ca dao này tác giả dân gian đã
dùng thể vãn bốn để giúp cô gái bày tỏ nỗi
nhớ một cách gian tiếp qua các hình ảnh
khăn đèn mắt.
Nhân vật trữ tình: cô gái.
* Nỗi nhớ thương:
Điệp từ “thương nhớ” (5 lần):
nỗi nhớ chồng chất, triền miên, cồn cào,
da diết như những lớp sóng đang dồn vỗ
trong tâm hồn cô gái đang yêu.
tình yêu chân thành, mãnh liệt, sâu sắc.
17
sản phẩm số 3, (Lưu ý chỉ di chuyển
trong cụm)
Nhiệm vụ 5: Các nhóm di chuyển
đến sản phẩm của nhóm nào thì
chuyên gia của thuyết trình cho các
thành viên khác trong nhóm ghép của
mình hiểu về sản phẩm mà nhóm
chuyên gia của mình vừa thảo luận.
Các thành viên khác nhận xét góp ý.
Thời gian là 2 phút đếm ngược.
Nhiệm vụ 6: Các nhóm di chuyển
trong cụm thuyết trình và nhận xét.
Bước 3: Báo cáo kết quả học tập:
Học sinh di chuyển trở về nhóm
chuyên gia ban đầu. Các thanh viên
thảo luận, sửa chữa lại sản phẩm sau
khi đã được các nhóm khác góp ý.
Thời gian là 2 phút đếm ngược.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ
Giáo viên nhận xét, đánh giá, bổ
sung
Giáo viên kết luận, trình chiếu bằng
những sile ngắn ngọn cho học sinh
điều chỉnh lại sản phẩm của mình.
* Hình ảnh khăn
Tại sao cô gái lại mượn khăn để thể
hiện nỗi nhớ của mình mà không phải
một vật nào khác bởi vì
Ý nghĩa
+ Là vật trao duyên, vật kỉ niệm tình yêu
+ Là vật bất li thân với người con gái xưa.
Nghệ thuật
+ Nhân hóa: Khăn thương nhớ ai
+ Động từ vận động trái chiều => những
trạng thái của chiếc khăn
rơi xuống đất
vắt trên vai
chùi nước mắt
Những trạng thái của chiếc khăn nó đang
18
phản chiếu tâm tư rối bời, lo lắng bất an
của cô gái. Hành động này cũng giống như
hành động trèo lên cây bưởi trèo lên cây
khế cứ treo lên lại trèo xuống vì tâm trạng
đang rối bời đang bất an. Chiếc khăn này
có thể roi xuống và nhặt lên rất nhiều lần
nghĩa là cô gái nhớ người yêu da diết mãnh
liệt và cảm thấy bất an để rồi cao trào
thành dòng nước mắt. Đến đây ta lại càng
thấm thía hơn ý nghĩa của câu ca dao Nhớ
ai bổi hổi….
=> Nỗi nhớ da diết, khắc khoải và trải
rộng ra không gian.
* Hình ảnh ngọn đèn
Ý nghĩa:
+ Gợi thời gian ban đêm
+ Sự vật gắn liền với nỗi nhớ nhung, thao
thức, cô đơn
Nghệ thuật
+ Nhân hóa Đèn thương nhớ ai => nhờ đèn
nói hộ nỗi nhớ
+ Ẩn dụ đèn không tắt chỉ ngọn lửa tình
yêu bừng cháy, mãnh liệt.
Nỗi nhớ chuyển từ ngày sang đêm dằng
dặc theo thời gian.
*Hình ảnh đôi mắt
Ý nghĩa
+ Là cửa sổ tâm hồn con người khó giấu
cảm xúc, tình yêu qua nó.
+ Thông qua đôi mắt để thấy được nỗi
lòng của cô gái.
Nghệ thuật hoán dụ: Mắt ngủ không yên
(lấy bộ phận chỉ toàn thể, cô gái không nói
mình thương nhớ ai mà lại nói mắt thương
nhớ ai. Từ đôi mắt ấy có thể nhìn thấy
chiều sâu tâm hồn, chiều sâu tâm tư tình
cảm của cô gái)
=> Vì nhớ mà trằn trọc, thao thức
(nhớ trong cõi ý thức)
Ngủ mà vẫn nhớ (nhớ trong cõi
vô thức)
19
Có thể trong mơ vẫn nhớ (nhớ
trong cả tiềm thức)
b. Hoạt động tìm hiểu nỗi lo phiền
* Muc tiêu:
̣
Học sinh phân tích được nỗi lo
phiền của cô gái
Rèn kỹ năng cảm thụ văn học, phân
tích văn học.
HS phát triển năng lực: năng lực
giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng
lực giao tiếp, năng lực thẩm mỹ.
* Phương phap/kĩ thu
́
ật:
Học sinh làm trên phiếu học tập có
hướng dẫn, sau đó giáo viên cho học
sinh chấm chéo bài của nhau.
* Phương tiện:
Giáo án/thiết kế bài học
Sách giáo khoa
Các slides trình chiếu
Phiếu học tập
Đồng hồ đếm ngược có nhạc kích
thích học tập
* Cách thức thực hiện:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
học tập.
Giáo viên phát phiếu học tập cho học
sinh.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học
tập
Học sinh trả lời vào phiếu học tâp
trong 3 phút
Bước 3: Báo cáo kết quả học tập:
Học sinh tráo đổi phiếu học tập và
nhận xét vào phiếu theo hướng dẫn
của giáo viên và báo cáo kết quả.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ
20
Giáo viên nhận xét, đánh giá, bổ
sung
Giáo viên kết luận, trình chiếu bằng
những sile ngắn ngọn cho học sinh
điều chỉnh lại sản phẩm của mình.
2. Bài ca dao số 6
* Muc tiêu:
̣
Học sinh phân tích được tình nghĩa
thủy chung gắn bó giữa người với
người qua hình ảnh muối mặn gừng
cay.
Rèn kỹ năng cảm thụ văn học, phân
tích văn học.
HS phát triển năng lực: năng lực
giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng
lực giao tiếp, năng lực thẩm mỹ.
* Phương phap/kĩ thu
́
ật:
Học sinh làm trên phiếu học tập có
hướng dẫn, sau đó giáo viên bốc
thăm học sinh trình bày.
* Phương tiện:
b Nỗi lo phiền.
Tâm trạng
+ lo phiền:
+ không yên:
tâm trạng nảy sinh khi con người đối
diện với những trở ngại trong cuộc sống.
Nguyên nhân:
Thứ nhất là sợ mẹ cha.
Thứ hai sợ tình cảm của chàng trai không
bền chặt .
=> Nỗi lo lắng của tình yêu trước ngưỡng
cửa hôn nhân.
* Tiểu kết: Bài ca dao thể hiện nỗi nhớ
thương, bồn chồn, da diết xen lẫn những
lo âu của một trái tim chân thành, cháy
bỏng yêu thương da diết xen lẫn những lo
âu của một trái tim chân thành, cháy bỏng
yêu thương.
21
Giáo án/thiết kế bài học
Sách giáo khoa
Các slides trình chiếu
Phiếu học tập
Đồng hồ đếm ngược có nhạc kích
thích học tập
* Cách thức thực hiện:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
học tập.
Giáo viên phát phiếu học tập cho học
sinh.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học
tập
Học sinh trả lời vào phiếu học tâp
trong 3 phút
Bước 3: Báo cáo kết quả học tập:
Giáo viên bốc thăm ngẫu nhiên trong
hộp có tên của từng học sinh chọn ra
5 học sinh trình bày phiếu học tập
của mình. Các học sinh khác đánh giá
bằng giơ sao.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ
Giáo viên nhận xét, đánh giá, bổ
sung
Giáo viên kết luận, trình chiếu bằng Thể thơ: Song thất lục bát biến thể
những sile ngắn ngọn cho học sinh Hình ảnh muối và gừng:
+ Những gia vị có hương vị rất đậm đặc
điều chỉnh lại sản phẩm của mình.
+ Bền chặt của hương vị Muối 3 năm
còn mặn/ Gừng 9 tháng còn cay.
=> Biểu tượng: Nghĩa tình sâu nặng bền
chặt
tình nghĩa thủy chung
gắn bó.
Tình nghĩa con người:
+ Giả thiết: xa nhau
+ Điều kiện : ba vạn sáu ngàn ngày= 100
năm (cả đời người)
Người ta thường nói hai năm mươi về là
22
III. Hoạt động luyện tập (7 phút)
* Muc tiêu:
̣
Áp dụng kiến thức đã học vào thực
tiễn
Học sinh phát triển năng lực: Năng
lực tự học, năng lực giải quyết vấn
đề và sáng tạo.
* Phương phap/kĩ
́ thuật: Kĩ thuật
sơ đồ tư duy.
* Phương tiện:
Giáo án/thiết kế bài học
Các slides trình chiếu
* Cách thức thực hiện:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
học tập:
Hệ thống hóa lại vẻ đẹp của người
lao động trong hai bài ca dao.
về cửa về nhà/ Mọt trăm năm nữa mới đà
về quê.
Chỉ có cái chết mới đủ sức chia lìa đôi ta.
Đôi ta sẽ gắn bó cùng nhau đi đến hết
cuộc đời
Tiểu kết: Bài ca dao trên khẳng định
ngợi ca nghĩa tình vợ chồng ngắn bó thủy
chung sâu nặn
III. Tổng kết bài học:
1. Nghệ thuật:
+ Sự lặp lại mô típ mở đầu: thân em…
+ Dùng hình ảnh biểu tượng: chiếc cầu,
tấm
khăn, ngọn đèn, gừng cay, muối mặn, …
+ Dùng hình ảnh so sánh ẩn dụ: tấm lụa
đào, củ ấu gai, mặt trời, mặt trăng, sao,…
+ Thể lục bát, thể 4 chữ, song thất lục bát,
biến thể,…
2. Nội dung: chùm ca dao than thân, yêu
thương tình nghĩa đã thể hiện rất sâu sắc
nỗi niềm chua xót, đắng cay và tình cảm
yêu thương, chung thủy của người bình
dân trong xã hội cũ.
23
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học
tập
Học sinh vẽ nhanh sơ đồ tư duy
Bước 3: Báo cáo kết quả học tập:
Học sinh nộp sản phẩm
Bước 4: Đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ
Giáo viên xem sản phẩm, nhận xét,
đánh giá, chốt ý.
IV. Hoạt động vận dụng (2 phút)
* Muc tiêu:
̣
Học sinh mở rộng thêm kiến thức
Học sinh phát triển năng lực: Năng
lực tự học, năng lực giải quyết vấn
đề và sáng tạo, năng lực thẩm mĩ
* Phương phap/kĩ
́ thuật: Kĩ thuật
đặt câu hỏi, kĩ thuật công não đặt câu
hỏi
* Phương tiện:
Giáo án/thiết kế bài học
Các slides trình chiếu
* Cách thức thực hiện:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
học tập.
Chuẩn bị bài thuyết trình với chủ đề
Từ tình cảm nhớ nhung yêu thương
ngắn bó bền chặt trong tình yêu,
trong tình vợ chồng ở hai bài ca dao,
em có suy nghĩ gì về tình yêu của giới
trẻ hiện nay?
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học
tập
Học sinh nhà làm.
Bước 3: Báo cáo kết quả học tập:
Nộp sản phẩm vào buổi học sau
Bước 4: Đánh giá kết quả thực
24
hiện nhiệm vụ
V. Hoạt động mở rộng, sáng tạo (1
phút)
* Muc tiêu:
̣
Học sinh mở rộng thêm kiến thức
Học sinh phát triển năng lực: Năng
lực tự học, năng lực giải quyết vấn
đề và sáng tạo, năng lực thẩm mĩ
* Phương phap/kĩ
́ thuật: Kĩ thuật
đặt câu hỏi trả lời nhanh
* Phương tiện:
Giáo án/thiết kế bài học
Các slides trình chiếu
* Cách thức thực hiện:
Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ
học tập.
Đọc những bài ca dao cùng chủ đề
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học
tập
Học sinh thực hiện.
Bước 3: Báo cáo kết quả học tập:
Học sinh đọc bài
Bước 4: Đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ
Giáo viên nhận xét, đánh giá.
2. Xây dựng kế hoạch cho tác phẩm truyện: Tiết 52 Chí Phèo
CHÍ PHÈO
Nam Cao –
PHẦN HAI: TÁC PHẨM
I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Về kiến thức, kĩ năng, thái độ
Về kiến thức
25