Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC văn PHÒNG THỐNG kê cấp xã TRÊN địa bàn TỈNH QUẢNG TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN SUNG

BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC
VĂN PHÒNG - THỐNG KÊ CẤP XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN SUNG

BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC
VĂN PHÒNG - THỐNG KÊ CẤP XÃ


TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý Công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN HỮU HẢI

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, thông tin và kết quả được nêu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu khoa học nào khác.

Thừa Thiên Huế, ngày

tháng

Học viên

Nguyễn Sung

năm 2018


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, em xin gửi lời cảm ơn đến:

Quý Thầy Cô phụ trách giảng dạy đã tận tình truyền đạt kiến thức trong

suốt khóa học, đối với em những kiến thức được lĩnh hội trong khóa học này
không chỉ quan trọng đối với công việc mà còn bổ sung vào nhận thức thực
tiễn cuộc sống.

Quý Thầy Cô phụ trách quản lý lớp đã hỗ trợ cho em rất nhiều về tất cả

các thông tin liên quan đến khóa học, chương trình học để em có thể hoàn
thành chương trình học đúng hạn.

Tất cả các anh chị em học viên cùng lớp, đồng nghiệp tại cơ quan, gia

đình và bạn bè đã luôn giúp đỡ, động viên em trong thời gian qua.

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Hữu

Hải đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình em thực hiện luận văn.

Do vốn kiến thức còn hạn chế nên luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu

sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý Thầy Cô.

Kính chúc Quý Thầy, Cô cùng tất cả mọi người dồi dào sức khỏe, thành

công trong cuộc sống.

Trân trọng

Nguyễn Sung


MỤC LỤC
Trang bìa

Lời cam đoan
Lời cảm ơn

Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC VĂN
PHÒNG - THỐNG KÊ CẤP XÃ ................................................................. 8

1.1 Khái quát chung về chính quyền cấp xã và công chức văn phòng- thống
kê ................................................................................................................... 8

1.2 Bồi dưỡng công chức văn phòng- thống kê cấp xã ................................ 26
1.3. Kinh nghiệm bồi dưỡng công chức cấp xã một số địa phương ............... 39

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 48

Chương 2. THỰC TRẠNG BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC VĂN PHÒNGTHỐNG KÊ CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ ................. 49

2.1. Tổng quan về đội ngũ công chức văn phòng- thống kê cấp xã trên địa bàn
tỉnh Quảng Trị .............................................................................................. 49


2.2. Thực trạng công tác bồi dưỡng công chức văn phòng- thống kê ở tỉnh
Quảng Trị trong những năm qua................................................................... 61

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 72

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC VĂN PHÒNG - THỐNG KÊ CẤP
XÃ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ ................................................ 73

3.1. Phương hướng chung về đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và công
chức văn phòng- thống kê cấp xã nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị ....... 73


3.2. Giải pháp bồi dưỡng công chức văn phòng- thống kê cấp xã trên địa bàn
tỉnh quảng trị ................................................................................................ 77
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 91

KẾT LUẬN ................................................................................................. 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Danh sách các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Quảng Trị ... 51

Bảng 2.2. Dân số và diện tích của các đơn vị hành chính ở Quảng Trị ............... 54
Bảng 2.3.Số liệu công chức văn phòng- thống kê cấp xã của tỉnh Quang Trị. 63

Bảng 2.4. Các loại hình lớp đào tạo, bồi dưỡng quản lý nhà nước cho công
chức ............................................................................................................. 65

Bảng 2.5. Số lượng và tỷ lệ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

được bồi dưỡng ............................................................................................ 66


1. Lý do chọn đề tài luận văn

MỞ ĐẦU

Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, trực tiếp tiếp xúc

và giải quyết các công việc hàng ngày của nhân dân. Trong hệ thống chính trị

của nước ta, chính quyền cấp cơ sở có một vị trí rất quan trọng, là cầu nối trực
tiếp của hệ thống chính quyền nhà nước với nhân dân, thực hiện hoạt động
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh trật tự, an

toàn xã hội ở địa phương theo thẩm quyền được phân cấp, đảm bảo cho các

chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được triển khai

thực hiện trong cuộc sống. Trong các hoạt động của chính quyền, công tác
văn phòng- thống kê có vai trò rất quan trọng trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước ở cấp cơ sở. Những năm qua, hoạt động quản lý hành chính
nhà nước ở cơ sở nói chung và công tác văn phòng- thống kê của chính quyền

cơ sở nói riêng ở tỉnh Quảng Trị đã có nhiều đổi mới, góp phần không nhỏ

vào việc nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền cơ sở. Tuy nhiên,
trước yêu cầu của công cuộc đổi mới và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trình


độ, năng lực của đội ngũ đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở nói chung và
công chức văn phòng- thống kê nói riêng vẫn chưa ngang tầm với nhiệm vụ

mới, còn nhiều hạn chế và yếu kém. Hoạt động của công chức văn phòngthống kê của chính quyền cấp cơ sở chưa thực hiện tốt vai trò điều phối, giúp
lãnh đạo kiểm tra, đôn đốc thực hiện các chương trình công tác của địa

phương. Yếu kém lớn nhất tập trung là hoạt động của công chức văn phòng-

thống kê chưa mạng tính hành chính chuyên nghiệp theo hướng hiện đại nên
chưa đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành
chính nói riêng đang đặt ra hiện nay. Nhiều địa phương chưa thực sự quan

tâm đến chất lượng hoạt động của công tác văn phòng- thống kê. Chất lượng

của đội ngũ công chức văn phòng- thống kê chưa cao, phần lớn chưa được
1


đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ. Mặt khác, đội ngũ công chức này
chưa được bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao năng lực hoạt động thực
hiện nhiệm vụ công vụ... Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa IX, về

“Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống chính trị cơ sở xã,
phường, thị trấn” đã đề ra nhiệm vụ phải:

Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chương trình, nội

dung sát hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường. Xây dựng đội ngũ cán bộ


cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát
huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hoá đội ngũ, chăm lo
công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với
cơ sở.[20, tr. 167-168].

Trước tình hình thực tế nêu trên, tôi đã chọn nội dung “Bồi dưỡng công

chức văn phòng - thống kê cấp xã trên địa bàn tỉnh Quảng Trị” cho đề tài
luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành quản lý công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn:

Từ trước đến nay, đã có nhiều đề tài nghiên cứu, khảo sát về đội ngũ

công chức các cấp; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức các

cấp; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức các cấp. Có thể kể đến một số
công trình có đề cập gần với nội dung bồi dưỡng công chức văn phòng- thống
kê cấp xã như sau:

- TS. Ngô Thành Can: Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực

trong khu vực công, Nxb Lao động, Hà Nội, 2014. Cuốn sách đã trình bày
những kiến thức, kỹ năng cơ bản trong đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn

nhân lực trong khu vực công; năng lực làm việc, năng lực thực thi công vụ

của cán bộ, công chức, viên chức, phát triển năng lực thực hiện công việc và
2



một số năng lực cần thiết đối với cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta.

- Tăng cường các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp xã

cho người dân tộc địa bàn Tây Nguyên (nghiên cứu trường hợp tỉnh Lâm
Đồng)- Đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Vĩnh Các- năm 2004.

- Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã trên địa bàn huyên Đức Phổ, tỉnh

Quảng Ngãi- Đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Võ Minh Châu- năm 2017.

- Bộ Nội vụ - Viện Nghiên cứu & Phát triển tổ chức, Hội thảo khoa học

với chủ đề “Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong điều kiện

hội nhập quốc tế”, Đà Nẵng ngày 12/6/2017. Những tham luận đã nhấn mạnh
ý nghĩa, tầm quan trọng của đào tạo, bồi dưỡng là một trong những nhiệm vụ

quan trọng quyết định nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và đội
ngũ cán bộ, công chức nói riêng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức thời gian qua đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và xác
định là yếu tố cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch,

vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước và hội nhập quốc tế. Hội thảo

tập trung cũng làm rõ các vấn đề như: Hội nhập quốc tế và yêu cầu đối với


công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở nước ta; Nội dung và
phương thức đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

- Đào tạo, bồi dưỡng công chức các cơ quan hành chính nhà nước cấp

huyện tỉnh Quảng Bình- Đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Đàm Anh Tuấnnăm 2015.

- Đào tạo, bồi dưỡng công chức xã là người dân tộc thiểu số trên địa bàn

các huyện miền núi tỉnh Quảng Nam- Đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả
Nguyễn Phước Sơn- năm 2015.

3


- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của Ủy ban nhân dân cấp xã trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam- Đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Văn Thị Nghĩanăm 2015.

- Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng

Trị, Nguyễn Thị Khởi (2014), Luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành chính công,

Học viện Hành chính. Luận văn này đã tập trung vào nội dung: xác định nhu

cầu, nội dung chương trình, phương pháp đào tạo, chế độ hỗ trợ và đánh giá
sau đào tạo; đề xuất nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã trên địa bàn huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.


Tuy nhiên, cho đến nay có thể nói chưa có công trình nào nghiên cứu một

cách tập trung, toàn diện và hệ thống về công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức
văn phòng- thống kê cấp xã trên địa bàn của tỉnh Quảng Trị. Những đề tài

nghiên cứu khoa học có nội dung gần thì chỉ tập trung nghiên cứu về đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức cấp xã nói chung hoặc đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã. Có thể nói nội dung nghiên cứu về việc bồi dưỡng công chức văn phòngthống kê cấp xã là một nội dung khá mới mẻ và khó khăn. Nhưng nếu thực hiện
tốt nội dung của đề tài này, luận văn sẽ góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn của công tác bồi dưỡng công chức chuyên môn văn phòng- thống kê cấp
xã. Từ cơ sở thực tiễn và khoa học đó để nâng cao chất lượng, hiệu quả công

tác bồi dưỡng đội ngũ công chức chuyên môn văn phòng- thống kê cấp xã
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong những năm tới theo định hướng của Đảng
và những quy định của Nhà nước.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu vai trò, chức năng, nhiệm vụ của công chức văn

phòng- thống kê cấp xã và thực trạng năng lực của đội ngũ này ở tỉnh Quảng Trị,
4


luận văn đề xuất các giải pháp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng để nâng cao chất
lượng, hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ công chức văn phòng- thống kê cấp
xã ở tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay và những năm về sau.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan các công trình khoa học đã nghiên cứu về những nội dung và

vấn đề có liên quan đến bồi dưỡng công chức cấp xã để chỉ ra khoảng trống
cần tiếp tục nghiên cứu và sự không trùng lặp trong nội dung

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về bồi dưỡng công chức văn phòng- thống kê

cấp xã, những yếu tố ảnh hưởng đến công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức
văn phòng- thống kê cấp xã.

- Phân tích, làm rõ thực trạng bồi dưỡng đội ngũ công chức văn phòng-

thống kê cấp xã trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, qua đó chỉ ra những bất cập cần
phải xử lý, nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng đội ngũ công chức văn
phòng- thống kê cấp xã ở tỉnh Quảng Trị.

- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng bồi dưỡng đội ngũ công

chức văn phòng- thống kê cấp xã, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách hành
chính và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu là công tác tổ chức và hoạt động bồi dưỡng đội ngũ

công chức chuyên môn văn phòng- thống kê cấp xã trên địa bàn của 141 xã,
phường, thị trấn của tỉnh Quảng Trị.
4.2 Phạm vi nghiên cứu


- Giới hạn về nội dung nghiên cứu: các yếu tố hợp thành và quá trình hoạt

động liên quan đến bồi dưỡng công chức văn phòng- thống kê cấp xã.
5


- Giới hạn về không gian: là công tác bồi dưỡng công chức văn phòng-

thống kê thuộc 141 xã, phường, thị trấn của tỉnh Quảng Trị.

- Giới hạn về thời gian nghiên cứu: nghiên cứu công tác bồi dưỡng công

chức văn phòng- thống kê cấp xã tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2010- 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1 Phương pháp luận

- Phương pháp luận duy vật biện chứng và lịch sử.

- Quan điểm, thái độ chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng cán bộ, công chức.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

- Phương pháp phân tích, tổng hợp thống kê,
- Phương pháp so sánh

- Phương pháp điều tra xã hội học
- Phương pháp chuyên gia.....


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận

Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận về bồi dưỡng công chức chuyên

môn văn phòng- thống kê cấp xã làm cơ sở khoa học để nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức văn phòng- thống kê cấp xã.
6.2. Về thực tiễn

Góp phần đánh giá khách quan, toàn diện về chất lượng công tác bồi

dưỡng công chức nói chung, công chức văn phòng- thống kê cấp xã của tỉnh

Quảng Trị nói riêng. Làm căn cứ cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối
mới công tác bồi dưỡng công chức nói chung, công chức văn phòng- thống kê
6


cấp xã, từng bước xây dựng đội ngũ này vừa hồng, vừa chuyên theo yêu cầu
cải cách hành chính ở tỉnh Quảng trị.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận văn được kết cấu thành 03 chương:

- Chương 1. Lý luận chung về bồi dưỡng công chức văn phòng- thống

kê cấp xã.


- Chương 2. Thực trạng công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức văn

phòng- thống kê cấp xã trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

- Chương 3. Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng

công chức văn phòng- thống kê cấp xã trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

7


Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC
VĂN PHÒNG - THỐNG KÊ CẤP XÃ

1.1 Khái quát chung về chính quyền cấp xã và công chức văn phòngthống kê

1.1.1. Khái niệm và vai trò của chính quyền cấp xã
1.1.1.1 Khái niệm về chính quyền cấp xã

Xã, phường, thị trấn (gọi tắt là cấp xã) là cấp cuối cùng trong hệ thống

hành chính bốn cấp của Nhà nước ta. Đây là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng

thời cũng là nơi kiểm tra, đánh giá đường lối, chủ trương của Đảng; chính
sách, pháp luật của Nhà nước; là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Trong thực tế cuộc sống, khi cần có sự can thiệp của chính quyền, thì nơi


người dân tìm đến đầu tiên chính là chính quyền cấp xã. Chính quyền cấp xã

cũng là nơi trực tiếp đưa ra các giải pháp cần thiết theo thẩm quyền để giải
quyết những yêu cầu chính đáng của người dân, tạo điều kiện cho người dân
có cuộc sống bình yên, thực hiện có hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của mình

trước Nhà nước và cộng đồng. Ngay từ những ngày đầu khi mới khai sinh ra

nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Về
hành chính: Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính.
Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi…” [22, tr.273].

Cấp xã là đơn vị hành chính thấp nhất trong hệ thống tổ chức hành

chính- lãnh thổ nước ta nhưng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ
trong cơ cấu quyền lực mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ đời sống chính trị,

kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng dân cư và của toàn thể người dân trên
8


địa bàn. Về vấn đề này, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung
ương khóa IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở
xã, phường, thị trấn” đã chỉ rõ:“ Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ

phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất
quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn
dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh


tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư” [20,Văn kiện Hội nghị
lần thứ 5 khóa IX].

Chính quyền cấp xã là cầu nối trực tiếp đưa Nghị quyết của Đảng, pháp

luật của Nhà nước vào cuộc sống đồng thời là nơi cung cấp cơ sở thực tiễn sát

hợp nhất để đưa cuộc sống vào nghị quyết và vào pháp luật. Như vậy, chính
quyền cấp xã là nơi kiểm định tính đúng đắn của mọi chủ trương, chính sách,

pháp luật. Chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật dù có đúng, có hay
đến đâu nhưng nếu không được thực hiện tốt ở cấp xã thì cũng chỉ nằm trên
giấy, cũng chỉ là “mớ lý luận xám xịt” mà thôi. Có thể nói rằng, chính quyền
xã là nơi mà người đân thường đến nhiều nhất- so với 3 cấp hành chính còn

lại. Người dân đến để đề xuất những nguyện vọng, ý kiến của mình; chính

quyền cấp xã phải là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân. Công chức cấp xã hàng ngày sinh hoạt với dân trong mối

quan hệ không chỉ là chính quyền với dân mà còn là quan hệ gia tộc và xóm

làng lâu đời. Khi giải quyết những yêu cầu của dân, đòi hỏi công chức cấp xã
một mặt phải theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; mặt khác phải sát hợp với tình hình thực tế của địa phương, phải thấu

tình, đạt lý trong quan hệ xóm làng. Mọi cử chỉ, hành vi, lời ăn tiếng nói,

phong cách, lề lối, năng lực thực thi nhiệm vụ... của đội ngũ công chức thể


9


hiện bộ mặt của Nhà nước ta. Người dân nhìn vào đội ngũ công chức này để
có thể đánh giá được Nhà nước, để có thể gởi gắm niềm tin.

Thực tiễn cho thấy ở đâu chính quyền cấp xã vững mạnh, ở đó mọi chủ

trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường, quyền làm chủ của nhân dân

được bảo đảm và phát huy; còn ở đâu chính quyền cấp xã yếu kém thì ở đó
phong trào quần chúng kém phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn, hoạt động quản lý nhà nước luôn sa vào những bất cập, thiếu sót.

Vai trò của chính quyền xã thể hiện tính chất đặc thù của hệ thống

chính quyền ở cơ sở xã; đồng thời, phải phản ánh tính chất tự quản khá cao
của nó, nhất là trong bối cảnh xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa với sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay.

1.1.1.2. Vai trò của chính quyền cấp xã

- Chính quyền cấp xã là cầu nối giữa Nhà nước, các tổ chức và cá nhân

trong xã.

- Là đại diện cho Nhà nước và nhân danh Nhà nước để thực thi quyền


lực nhà nước trên lãnh thổ theo quy định của pháp luật.

- Là cấp hành chính gần dân nhất trong hệ thống hành chính nhà nước 4

cấp ở nước ta, có chức năng chủ yếu là triển khai thực hiện chủ trương, biện
pháp phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trên địa bàn. Chính quyền

xã không chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo luật định, mà còn
phải chăm lo phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần của nhân dân trên địa bàn; cùng với chính quyền các cấp tổ chức thực

hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án của các chương trình này
nhằm phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trên địa bàn. Trực tiếp
10


triển khai, tổ chức thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước ở xã.

- Điều tiết sự tự quản của các thôn/làng trên địa bàn xã về phát triển

nông thôn. Vì thế, hiện nay yêu cầu đặt ra đối với chính quyền xã là: Chính
quyền xã phải đủ mạnh, thể hiện đầy đủ quyền lực của mình trong thực hiện
chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó. Đồng thời, phải mềm dẻo, linh

hoạt trong tiếp xúc, làm việc với người dân (những người luôn luôn bị các

mối quan hệ cộng đồng truyền thống chi phối, nhằm đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi

đa dạng của mỗi người dân, mỗi dòng họ, mỗi thôn làng, sao cho vừa đúng

pháp luật, vừa phù hợp với truyền thống và điều kiện của mỗi địa phương,
mỗi tộc người).

Về mặt pháp lý, theo quy định của Điều 110- Hiến pháp năm 2013, các

đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân
định như sau:

Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

được phân định như sau:

Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực

thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương
đương;

Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia

thành phường và xã; quận chia thành phường.

Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.

Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành

chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật

định [28, Điều 110].

11


Như vậy, xã, phường, thị trấn (gọi tắt là xã) là cấp hành chính thứ tư

(cấp cơ sở) trong tổ chức hành chính 4 cấp ở nước ta.
1.1.2. Đặc điểm của chính quyền cấp xã

Trên cơ sở pháp lý và thực tiễn nêu trên, có thể rút ra những đặc điểm

của chính quyền cấp xã như sau:

Một là, chính quyền cấp xã là cấp cơ sở, là cấp chính quyền xa Trung

ương nhất nhưng lại là cấp gần dân nhất, cấp trực tiếp tiếp xúc với nhân dân,

ở ngay trong nhân dân. Đây là cấp chính quyền có số lượng lớn nhất và có
đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội đa dạng nhất trong các loại hình đơn vị
hành chính với 9.085 xã, chiếm trên 80% tổng số đơn vị hành chính cấp cơ sở

hiện nay (11.112 xã, phường, thị trấn). Chính quyền cấp xã là cầu nối giữa

nhà nước với các tổ chức và cá nhân trong xã, đại diện cho nhà nước, để thực
thi quyền lực nhà nước, triển khai, tổ chức thực hiện những chủ trương, chính

sách của Đảng và pháp luật của nhà nước ở xã. Chính quyền xã giữ vai trò
quan trọng trong việc thực hiện công tác quản lý các vấn đề phát triển xã hội
ở nông thôn. Những vấn đề thuộc phạm vi, thẩm quyền, chức năng của chính


quyền cấp xã giải quyết thường trực tiếp liên quan đến sinh hoạt hàng ngày
của người dân. Công việc hàng ngày của chính quyền là công việc của dân và

công việc của dân cũng chính là công việc của chính quyền. Công chức cấp
xã hàng ngày sinh hoạt cùng với nhân dân trong mối quan hệ không chỉ với tư

cách đại diện cho chính quyền với nhân dân mà còn có những mối quan hệ

gia tộc, làng xóm lâu đời, với những ràng buộc về truyền thống, phong tục,
tập quán.

Hai là, chính quyền cấp xã có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện

các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; các mục tiêu
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở cơ sở; thực hiện việc quản lý

hành chính nhà nước trên địa bàn theo thẩm quyền; hướng dẫn và giám sát
12


các hoạt động tự quản của nhân dân, tạo thuận lợi cho nhân dân và doanh

nghiệp làm ăn theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, chính quyền cấp xã
được cấp trên ủy quyền, phân cấp, phân quyền thực hiện việc thu một số

nhiệm vụ quản lý nhà nước về ủy nhiệm thu một số loại thuế, quản lý tài

nguyên, thực hiện chính sách xã hội bằng kinh phí ngân sách nhà nước, thực


hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, văn hóa- xã hội trên địa bàn theo quy
định pháp luật.

Ba là, tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã theo quy định của pháp luật,

chỉ có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân không có các cơ quan tổ chức
chuyên môn như phòng, ban. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã

là cơ quan trực tiếp thực hiện công việc quản lý địa phương. Là nơi giải quyết
hàng ngày các vấn đề liên quan đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân như: dân

quyền, dân sinh, dân trí. Một mặt chính quyền cấp xã phải đảm bảo thực hiện

đúng chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở địa phương, mặt khác

chính quyền phải đi sát với nhân dân, nắm được tình hình thực tế xã hội ở địa
phương và giải quyết thấu tình, đạt lý trong các mối quan hệ giữa chính quyền

với người dân; quan hệ hàng xóm láng giềng. Chính quyền cấp xã là cầu nối
trực tiếp của hệ thống chính quyền nhà nước với nhân dân, là người thực hiện

hoạt động quản lý nhà nước về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh trật
tự, an toàn xã hội ở địa phương theo thẩm quyền quy định, đảm bảo cho các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống.

Bốn là, trong phạm vi xã thường có các đơn vị dân cư nhỏ hơn là

thôn/làng (xóm, bản, buôn, ấp,...). Hầu hết đơn vị thôn/làng (xóm, bản, buôn,

ấp,...) là những cộng đồng dân cư tồn tại đã lâu đời, có sự gắn bó chặt chẽ với


nhau về nhiều phương diện như kinh tế, văn hóa, xã hội, huyết thống, phong

tục, tập quán, cách thức sản xuất - kinh doanh...; do vậy có tính tự quản trên
nhiều phương diện của đời sống xã hội. Điều này liên quan mật thiết đến việc
13


chính quyền cấp xã thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền gắn liền với

phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đồng thời cũng là
chủ thể quan trọng ở cơ sở bảo đảm cho việc thực hiện phương châm này một
cách có hiệu quả nhất.

1.1.3 Công chức cấp xã

Thuật ngữ “công chức” thường được hiểu một cách khái quát là những

người được nhà nước tuyển dụng, nhận một công việc hoặc một nhiệm vụ
nhất định, do Nhà nước trả lương và có nghĩa vụ, bổn phận phục vụ nhân dân,

phục vụ nhà nước theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, phạm vi xác
định công chức là khác nhau đối với mỗi quốc gia khác nhau, phụ thuộc vào
thể chế chính trị, hệ thống pháp luật, cách thức tổ chức bộ máy và lịch sử, văn

hóa dân tộc mỗi quốc gia. Có những quốc gia coi công chức là những người
làm việc trong bộ máy nhà nước (bao gồm cả các cơ quan quản lý nhà nước,

đơn vị sự nghiệp hay các lực lượng vũ trang, công an). Trong khi đó, có
những nước lại chỉ giới hạn những người làm việc trong các cơ quan quản lý

nhà nước hay hẹp hơn nữa là trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
Chẳng hạn như: các nước Anh, Singapore quan niệm công chức chỉ là những

người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ trong bộ máy hành chính của các
bộ thuộc Chính phủ. Trong khi đó, các nước Nga, Trung Quốc, Ba Lan thì
quan niệm công chức bao gồm những người thực hiện các hoạt động chuyên
môn nghiệp vụ quản lý hành chính của các bộ và của bộ máy hành chính

thuộc các chính quyền địa phương. Nước Pháp lại quan niệm “công chức bao
gồm toàn bộ những người được Nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ (công xã,

tỉnh, vùng) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong một công sở hay công
sở tự quản, kể cả các bệnh viện và được biên chế vào một ngạch của nền
hành chính công”.

14


Ở Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành, phát triển và hoàn

thiện gắn liền với sự phát triển của nền hành chính nhà nước. Khái niệm công
chức lần đầu tiên được đề cập đến trong văn bản của Nhà nước là Sắc lệnh

76/SL về Quy chế Công chức Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Trước

đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 188/SL Quy định về các

hạng công chức, đó cũng được coi như văn bản pháp lý khởi đầu cho việc xây
dựng đội ngũ công chức sau này của Nhà nước ta.


Tại Điều 1 của Sắc lệnh 76/SL quy định: “Những công dân Việt Nam

được chính quyền nhân dân tuyển dụng để giữ chức vụ thường xuyên trong cơ

quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước, đều là công chức theo quy chế này,

trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”. Theo quan niệm
này thì công chức ở đây là những: Công dân của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa; do chính quyền nhân dân tuyển dụng; giữ chức vụ thường xuyên

trong cơ quan Chính phủ. Như vậy, những người làm việc trong các cơ quan

nhà nước khác không gọi là công chức. Quan niệm này cũng giống quan niệm
của một số nước, chỉ coi những người giữ những công việc thường xuyên
trong các cơ quan hành chính nhà nước mới là công chức.

- Khái niệm công chức cấp xã: Theo Luật Cán bộ công chức, Luật số

22/2008/QH12: công chức cấp xã được định nghĩa như sau: Công chức cấp
xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước”[29, Khoản 3, Điều 4].

- Và theo quy định Thông tư 06/2012/TT-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ,

ngày 30/10/2012 Hướng dẫn “Về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và
tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn” Điều 1 quy định : “Công chức xã,
phường, thị trấn (xã, phường, thị trấn sau đây gọi chung là cấp xã) làm công

tác chuyên môn thuộc biên chế của Ủy ban nhân dân cấp xã, có trách nhiệm

15


tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về lĩnh vực công tác được phân công và thực hiện các nhiệm vụ khác do
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao” [ 4, Điều 1]

Hiện nay, theo quy định tại Khoản 2, Điều 3 Nghị định số 92/2009/NĐ-

CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ “Về chức danh, số lượng, một số chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” công chức cấp xã có các chức danh
sau đây:

“Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính

- xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính -

nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã); Tài chính - kế toán; Tư
pháp - hộ tịch; Văn hoá - xã hội”.[6, Khoản 2, Điều 3]

Tiêu chuẩn chung của công chức cấp xã: Theo quy định tại Nghị định

112/2011/NĐ-CP, ngày 05/12/2011 của Chính phủ, Công chức cấp xã có các
tiêu chuẩn chung như sau:

Đối với với các công chức Văn phòng - thống kê, Địa chính - xây dựng

- đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính - nông
nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã), Tài chính - kế toán, Tư pháp hộ tịch, Văn hóa - xã hội:


Hiểu biết về lý luận chính trị, nắm vững quan điểm, chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;

Có năng lực tổ chức vận động nhân dân ở địa phương thực hiện có

hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước;

16


Có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp yêu

cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm, có đủ năng lực và sức khỏe để hoàn thành
nhiệm vụ được giao;

Am hiểu và tôn trọng phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư trên

địa bàn công tác.[8, Điều 3, 4].

Đối với công chức Chỉ huy trưởng Quân sự cấp xã và Trưởng Công an

xã: ngoài những tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1- Điều này còn phải có khả
năng phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực

lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thực
hiện một số nhiệm vụ phòng thủ dân sự; giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an


toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân
dân, tài sản của Nhà nước.

Tiêu chuẩn cụ thể của công chức xã: Theo quy định tại Thông tư

Số: 06/2012/TT-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ngày 30/10/2012 quy định
tiêu chuẩn cụ thể của công chức xã như sau:

Độ tuổi: Đủ 18 tuổi trở lên; Trình độ văn hóa: Tốt nghiệp trung

học phổ thông; Trình độ chuyên môn: Tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp
trở lên của ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của chức danh công

chức được đảm nhiệm; Trình độ tin học: Có chứng chỉ tin học văn phòng
trình độ A trở lên; Tiếng dân tộc thiểu số: Ở địa bàn công tác phải sử dụng
tiếng dân tộc thiểu số trong hoạt động công vụ thì phải biết thành thạo tiếng

dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn công tác đó; nếu khi tuyển dụng mà
chưa biết tiếng dân tộc thiểu số thì sau khi tuyển dụng phải hoàn thành lớp

học tiếng dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn công tác được phân công; Sau

khi được tuyển dụng phải hoàn thành lớp đào tạo, bồi dưỡng quản lý hành
chính nhà nước và lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo chương trình
đối với chức danh công chức cấp xã hiện đảm nhiệm.[4, Điều 2]
17


Từ những quy định trên của pháp luật, chúng ta thấy rõ vị trí, vai trò của


đội ngũ công chức cấp xã được biểu hiện ở những nội dung như sau:

- Là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại chính quyền cấp xã,

là cấp chính quyền gần dân nhất trong bộ máy chính quyền nhà nước, bản
thân họ vừa công tác, vừa gắn liền với đời sống và sinh hoạt của nhân dân ở

khu dân cư nên họ là “ cầu nối” trực tiếp giữa chính quyền các cấp với nhân
dân. Do vậy, họ có vai trò rất quan trọng trong việc quán triệt các đường lối,

chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, biến nó thành thực tiễn của
cuộc sống. Đồng thời, là cơ sở để đánh giá sự tín nhiệm của nhân dân đối với

Đảng, với Nhà nước. Ngoài ra, họ có vai trò quan trọng trong việc nắm bắt
tình hình, phản ánh ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân lên với Đảng và
các cấp chính quyền cao hơn.

- Đội ngũ công chức cấp xã là người công tác trong bộ máy công quyền

của Nhà nước, họ phải am hiểu pháp luật, chế độ, chính sách của Nhà nước

nhằm phổ biến, giáo dục, tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện. Đồng
thời có vai trò rất lớn trong việc bảo đảm nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành

Hiến pháp và pháp luật, thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân và các
quyết định quản lý của cấp trên tại cơ sở.

- Đội ngũ công chức cấp xã là người thay mặt Nhà nước thực hiện nhiệm

vụ quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở. Vì vậy, họ có vai trò hết sức to lớn


trong việc chăm lo phát triển kinh tế- xã hội ở cơ sở và thực hiện quản lý nhà
nước trên tất cả các mặt, lĩnh vực được giao một cách có hiệu quả.

Trên những cơ sở đó, chúng ta có thể thấy công chức cấp xã có những

điểm mang tính đặc thù như sau:

Thứ nhất, công chức cấp xã là người thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với

người dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
18


×