Sấm cũng bớt bất ngờ... (T.S Chu Văn Sơn)
TUESDAY, 22. SEPTEMBER 2009, 00:30:56
GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Mùa thu quả nhiên là mùa nhạy cảm bậc nhất trong năm. Con người cùng
Tạo vật thảy đều nhạy cảm. Tuy nhiên, cái thời điểm mà sự nhạy cảm của
hồn tạo vật luôn thách thức với sự nhạy cảm của hồn người vẫn là thời khắc
giao mùa - chớm thu. Các kênh cảm giác và cả tâm cảm nữa của mỗi hồn
thơ dường như đều được huy động tối đa để nắm bắt những làn sóng, những
tín hiệu mơ hồ nhất từ những giao chuyển âm thầm trong vạn vật.
Chả thế mà, bao đời nay luôn có sự đua ganh giữa hồn thơ với hồn tạo vật.
Chỉ cần điểm sơ qua những tín hiệu từng được hồn thơ từ cổ chí kim nắm
bắt trong những thi ảnh không thôi, cũng khó đủ giấy mực rồi. Gọn nhẹ hơn,
chỉ điểm qua những thi tứ nổi bật dành cho nhịp chuyển mùa thôi, chắc cũng
không xuể. Cho nên, tôi sẽ không nấn ná làm cái việc rút tỉa những thi ảnh
và thi tứ tiêu biểu về thời điểm nhạy cảm ấy của thơ ca các thời, nghĩa là
không tái hiện lại một truyền thống, một tiền đề nữa. Mà cùng Hữu Thỉnh,
bước ngay… Sang thu
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Thu, 1977
Tôi mừng cho Hữu Thỉnh và bài thơ, nó vừa giành được một chỗ xứng đáng
trong chương trình Văn và Tiếng Việt của nhà trường. Kể từ nay, hương ổi
của thi phẩm sẽ phả vào tâm hồn của nhiều thế hệ học trò, sẽ được những
tâm hồn ấy mang tới bao nẻo thu, đến cả những miền chưa từng có mùa thu
nữa.
1. Từ cấu trúc …
Trước tiên, thử đi vào cấu trúc của thi phẩm.
Hình thái tổ chức của Sang thu đâu dễ nhận diện. Về bố cục, ai chẳng thấy
chính tác giả đã tự chia bài thơ thành ba khổ khúc chiết. Nhưng về ý tứ ?
Xem chừng ý khổ này cứ “dính” vào khổ kia, chả chịu rành mạch gì cả. Thì
quanh đi quẩn lại vẫn là thế : hương ổi, gió se, sương chùng chình, sông
dềnh dàng, chim vội vã, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm bớt bất ngờ, hàng
cây đứng tuổi… chẳng dáng nét thu về, thì hình sắc thu sang, đấy thay đổi
tinh vi, đây đổi thay tinh tế. Ý đâu có khác gì nhau. Đến nỗi, ngay cả “Sách
giáo viên” hướng dẫn người dạy khai thác và soạn giảng chừng như cũng “
bí” trong việc phân định . Hay việc chia thành ba khổ thế chỉ hoàn toàn do
cảm tính lúc viết của thi sĩ, còn ý thơ thì vốn thiếu rành mạch, vô tổ chức ?
Không hẳn.
Đọc kĩ hơn thì thấy rằng: cùng viết về thiên nhiên lúc giao mùa, nhưng mỗi
khổ thơ vẫn nghiêng về một ý. Về cảnh vật, khổ một nghiêng về những tín
hiệu mách bảo sự hiện diện đây đó của mùa thu, từ góc nhìn vườn ngõ :
Bỗng nhận ra hương ổi /Phả vào trong gió se /Sương chùng chình qua
ngõ /Hình như thu đã về. Khổ hai lại nghiêng về những cảnh sắc trời mây
sông nước đang chuyển mình sang thu, với tầm nhìn rộng xa vào bầu trời
mặt đất : Sông được lúc dềnh dàng / Chim bắt đầu vội vã/Có đám mây mùa
hạ/ Vắt nửa mình sang thu. Trong khi đó, khổ ba lại nghiêng về những biến
đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và tạo vật : Vẫn còn bao nhiêu
nắng/Đã vơi dần cơn mưa/Sấm cũng bớt bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi.
Như vậy, ba khổ thơ đã được liên kết thành một chỉnh thể nhuần nhị nhờ vào
một trật tự khá tự nhiên : từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ
ngoài vào trong, với các lớp cảnh càng ngày càng đi vào chiều sâu… Một
trật tự hợp lí tự nhiên bao giờ cũng là điều sinh tử để một sản phẩm nghệ
thuật hiện ra như một sinh thể !
Nhưng, cả người khờ khạo nhất cũng phải thấy rằng : thơ thiên nhiên không
đơn thuần chỉ có cảnh. Cùng với cảnh, bao giờ cũng là tình, dù đậm hay
nhạt, dù kín hay lộ. Tình trong cảnh, cảnh trong tình. Cho nên, đồng hành
với mạch cảnh sắc trên đây, là tâm tư của thi sĩ. Cụ thể là mạch cảm nghĩ
trước mùa thu. Sự đan xen các mạch này là một khía cạnh phức tạp không
thể thiếu của cấu trúc. Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một (… Hình như
thu đã về), là đến niềm say sưa ở khổ hai (…Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa
mình sang thu), và kết lại ở khổ ba với vẻ trầm ngâm(… Sấm cũng bớt bất
ngờ / trên hàng cây đứng tuổi). Không chỉ có thế. Tương ứng với những
cung bậc của mạch cảm, là các cấp độ của mạch nghĩ. Khổ đầu : bất giác,
khổ hai : tri giác, khổ ba : suy ngẫm. Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng
song hành và chuyển hoá sang nhau trong cùng một dòng tâm tư . Chúng
đan bện với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi phức tạp. Rõ ràng,
từ khổ một đến khổ ba, thi phẩm là sự đồng hành và hoá thân vào nhau của
ba mạch nội dung vừa rõ nét vừa sống động.
2. … đến điệu tâm hồn
Cảm nhận tạo vật lúc sang thu, đa phần các thi sĩ nghiêng về vẻ biến suy một
chiều của cảnh. Vì thế, thần thái của cảnh thu thường hiện lên qua vẻ tiêu sơ.
Ví như bài Thu cảm, tiếng thơ khá tinh tế của một thi sĩ đương thời : Mướp
tàn sen cũng đi tu / Lá tre đã thả một mùa heo may / Con sông không ốm mà
gầy / Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn. Cảm nhận của Hữu Thỉnh khác,
không đơn tuyến. Tôi cho rằng, một trong những nét đặc sắc của bài Sang
thu là có hai hệ thống tín hiệu báo mùa có vẻ phản trái nhau, song cả hai đều
thuộc về thần thái của mùa thu. Tạm đặt tên là nhịp mạnh và nhịp nhẹ. Nhịp
mạnh bao gồm những động thái, sắc thái dương tính (mạnh, nhanh, nhiều…)
: hương ổi phả - chim vội vã - vẫn còn bao nhiêu nắng… Nhịp nhẹ thì
nghiêng về âm tính (êm, chậm, ít…) : sương chùng chình, sông dềnh dàng,
mưa vơi dần… Lúc bất giác nhận ra hương ổi “phả” vào trong gió se, thì
cũng là lúc bắt gặp sương “chùng chình” qua ngõ. Chính lúc sông “dềnh
dàng” là lúc chim “vội vã”. Khi nắng “còn” cũng là khi mưa “vơi”. Đừng
nghĩ thi sĩ cố ý đặt bày hai mạch tương phản nhằm chơi trò lạ hoá. Nó chính
là hiện tượng trái chiều mà cùng hướng ta vẫn thường thấy trong mỗi cuộc
đổi thay. Chẳng phải thế sao ? Chẳng phải bao mạch sống đang cần mẫn
chuyển lưu trong lòng tạo vật làm nên cõi sống trường cửu này vốn vẫn
tương sinh tương khắc như vậy sao ? Và chẳng phải những vận động trái
chiều mà cùng hướng vẫn thường đem đến cho sự sống thế quân bình ngay
trong lòng mỗi nhịp biến thiên hay sao ? Cho nên, thật thú vị mà cũng thật
hiển nhiên là hai nhịp mạnh - nhẹ với hệ thống hưng - suy, tiêu - trưởng kia
lại đan dệt trong nhau khá nhuần nhuyễn tạo nên cái bản giao hưởng gợi cảm
của đất trời thu. Có thể xem đó là nét phức điệu trong cảm nhận ngoại giới
của hồn thơ Hữu Thỉnh. Toàn cảnh thu trong bước chuyển mùa, nhờ lối cảm
ấy, đã hiện ra không chỉ có biến thiên, mà đây đó còn cả thế quân bình. Luôn
thấy được thế quân bình ngay giữa những biến thiên thì ít bất ngờ chao đảo.
Trong thiên nhiên đã vậy. Trong cuộc đời cũng thế. Và, tôi ngờ rằng cảm
quan quân bình về đời sống đã ngấm ngầm xui thi sĩ tìm đến cái kết điềm
tĩnh trước ba động, giấu cương sau nhu này :
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi ?
Nói đến câu kết kia, không thể không thêm vài lời về cách lập tứ dẫn tới kết.
Nó rõ nhất ở khổ ba : Vẫn còn bao nhiêu nắng /Đã vơi dần cơn mưa /Sấm
cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Để ý một chút, sẽ thấy rằng đến
đây, tâm thế thi sĩ không còn ngỡ ngàng bất giác như khổ một, say sưa tri
giác như khổ hai, mà lòng đã nặng hơn, đã ra chiều trầm ngâm với suy ngẫm
rồi. Lớp từ mang sắc thái đong đếm ở đây mách với ta điều đó. Hệ thống các
từ còn (-hết), vơi (-đầy), bớt (-thêm) bảo rằng thi sĩ đang suy xét, đúc kết,
chiêm nghiệm. Chiêm nghiệm điều gì ? Về một lẽ đời trong hai chiều biến
đổi trái nhau. Ba câu trên : nắng “vẫn còn”, tức là đã giảm ; mưa “vơi dần”
rõ là giảm ; sấm “bớt bất ngờ” càng giảm. Cả ba nghiêng về chiều giảm.
Nhưng, khi câu ba nối vào câu kết, thì chiều giảm đột ngột thành chiều tăng,
một chiều tăng kín đáo : Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Ấy
là sự từng trải tăng lên, là cây đã trưởng thành. Nhờ lối viết nén, mấy chữ
“bớt bất ngờ” như một nút buộc, câu thơ bỗng có “cú pháp dính”, lời thơ súc
tích hẳn nhờ các làn nghĩa giao nhập ràng néo nhau : sấm bớt gây bất ngờ
(sấm đã e cây), hay cây bớt bị bất ngờ (cây thôi e sấm)? Có lẽ là cả hai,
nhưng xem chừng, cái vế sau mới là chốt hạ. Nhờ ngữ pháp ấy mà cái ý
cương kia liền được giấu kín nhẹm, thậm chí được nhu hoá. Có thể nói, đây
là lối kết theo kiểu “đảo phách”. Một cú đảo phách ngoạn mục. Bởi đảo mà
cứ như không.
*
Sang thu là bài thơ tinh tế. Điều này khỏi bàn thêm. Chẳng thế mà các chi
tiết gợi cảm của thi phẩm đã cuốn hút nhiều người yêu thơ. Nào những
hương ổi phả vào trong gió se, nào sương chùng chình qua ngõ, rồi thì sông
được lúc dềnh dàng… xem ra, thi ảnh nào cũng tài hoa. Mà ấn tượng nhất
hẳn phải là cảnh tượng Có đám mây mùa hạ/Vắt nửa mình sang thu. Làm
xác định cái không xác định, khiến cái vô hình thành hữu hình, làm định
dạng cái vốn mơ hồ, là lối viết đâu có gì lạ về thi pháp. Thế mà thi ảnh lại
mới, hình sắc lại gợi. Đám mây thực thế mà ảo thế ! Cái cách “vắt nửa
mình” kia sao mà thi vị ! Có thật chăng một đám mây vốn của mùa hè đang
mải mê lấn sân sang mùa thu ? Có mà không có, thật mà không thật. Cứ y
như giữa mùa thu và mùa hè vẫn có một lằn ranh làm bằng sợi dây vô hình
giăng ra giữa thinh không, khiến đám mây yêu kiều và đỏng đảnh kia có thể
vắt nửa mình qua đó mà khoe sắc phô duyên vậy !
Mà đâu chỉ trong quan sát, ở thi phẩm này, Hữu Thỉnh còn tỏ ra tinh hơn
nữa trong sự đồng điệu với nhịp chuyển mùa. Những hiện tượng riêng lẻ thì
gồm cả hai hệ thống tín hiệu trái chiều, có chậm có nhanh. Nhưng cái nhịp
luân chuyển chung chi phối vạn vật thì bao giờ cũng khẩn trương và mau lẹ.
Nhịp luân chuyển ấy dường như đã nhập vào mấy chữ tưởng rất không đâu
mà lại thần tình này: Sông được lúc dềnh dàng/Chim bắt đầu vội vã ; Vẫn
còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa”. Mấy chữ ấy đi với nhau thành
cặp, hô ứng và tiếp ứng nhau làm hiển thị cái nhịp luân chuyển trong tạo vật
vốn mải mê mà vô hình.
Người đọc cũng dễ say với những nét tài hoa trong việc sử dụng nhuần
nhuyễn yếu tố cổ điển của thi sĩ. Đọc Hữu Thỉnh, có một chất rất dễ nhận :
dân gian. Còn có một chất khác, luôn cặp kè, mà xem ra lại khó thấy :
Đường thi. Sao lại cặp kè ? Thì một trong những chiêu rất Hữu Thỉnh chẳng
phải là chế tác thi liệu dân gian bằng thi pháp Đường ư ? Cố nhiên, anh
không chỉ có chiêu này. Ở Sang Thu, cái súc tích Đường thi kết hợp với chất
hồn nhiên thơ trẻ cứ loáng thoáng đâu đó trong cách nhìn tạo vật, trong cách
kiệm lời, mà hiển lộ nhất là ở phép đối ngẫu được dùng khá nhuyễn : Sông
được lúc dềnh dàng-Chim bắt đầu vội vã ; Vẫn còn bao nhiêu nắng-Đã vơi
dần cơn mưa. Có lẽ khi đọc các cặp ấy, tâm trí ta bị trôi theo lời thơ bình
đạm, ít ai để ý đến nghệ thuật tổ chức, chỉ lúc chợt ngoái lại, thì mới vỡ lẽ:
ồ, ra là phép đối ! Thế là nhuyễn, là tinh chứ sao !
Tuy nhiên, đó vẫn là những tinh tế tiểu tiết và dễ viết.
Đôi khi quá chú mục vào cái tinh tế trong tiểu tiết có thể quên sự tinh vi
trong đại cục. Tôi muốn nói đến điều khác : ý tưởng bao trùm. Nó mới là nét
tinh vi thuộc về đại cục. Ý tưởng Sang thu được gói kín vào thi tứ. Một thi
tứ đa tầng khiến hình tượng thơ thành đa nghĩa. Nhờ đó, thi phẩm nhỏ đã
mang thi tứ lớn.
Sang thu đa nghĩa, vì ít nhất, có sự chất chồng và giao thoa của ba lớp
nghĩa : trời đất sang thu, đời sống sang thu và đời người sang thu. Lớp nghĩa
thứ nhất dễ thấy. Vì nó ở bề nổi của văn bản thơ. Nó khiến bài thơ như một