Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

vô thức tập thể của carl jung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.45 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC

Tiểu luận cuối kỳ

Quan niệm về vô thức tập thể trong
Phân tâm học của C.G. Jung

MÔN: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI
Sinh viên

:

Tô Tường Vi

MSSV

:

17031827

Lớp

:

Triết học K62

Giảng viên

:


GS. TS. Nguyễn Vũ Hảo

Hà Nội, 2020
1


Mục Lục
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
1.

Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................3

2.

Tình hình nghiên cứu.........................................................................4

3.

Mục đích và nhiệm vụ........................................................................5

4.

Đối tượng và phạm vi.........................................................................5

5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.......................................5

6.


Kết cấu của đề tài...............................................................................6

NỘI DUNG......................................................................................................7
CHƯƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM CỦA CARL GUSTAV JUNG VỀ VÔ THỨC TẬP THỂ.................7
1.1 Cuộc đời và sự nghiệp của Carl Gustav Jung..................................7
1.2 Bối cảnh kinh tế xã hội nảy sinh tư tưởng của Jung.......................9
1.3 Những tiền đề tư tưởng hình thành quan niệm của C.G. Jung về
vô thức tập thể...........................................................................................10
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG CỦA CARL GUSTAV JUNG VỀ VÔ THỨC
TẬP THỂ.......................................................................................................12
2.1 Ý thức................................................................................................12
2.2 Vô thức..............................................................................................13
2.2.1

Vô thức cá nhân.......................................................................14

2.2.2

Vô thức tập thể........................................................................16

2.3 Giá trị và ý nghĩa trong học thuyết của Jung................................27
KẾT LUẬN....................................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................31

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Phân tâm học là một trong số hàng chục trào lưu của triết học phương
Tây hiện đại giai đoạn từ nửa cuối thế kỉ 19 đến nay. Nói đến Phân tâm học,
người ta thường nhắc đến Sigmund Freud như là người khởi xướng trào lưu
này, và đôi khi họ cho rằng học thuyết này là của chỉ riêng Freud mà quên đi
vai trò của những nhà phân tâm học khác đối với toàn bộ học thuyết. Nhưng
không phải Freud, mà chính Carl Gustav Jung mới là người phát triển học
thuyết về cái vô thức theo một hướng mới một cách tương đối đầy đủ, trọn
vẹn và chứa đựng nhiều yếu tố độc đáo. Ông thành lập một trường phái Tâm
Lý học mới có tên là "Tâm lý học phân tích" nhằm phân biệt với trường phái
"Phân Tâm Học" của Sigmund Freud.
Tôi nhận thấy rằng học thuyết của Carl Jung không chỉ được nghiên cứu
đơn thuần như một lý thuyết y học hay tâm lý học, mà còn được nghiên cứu ở
nhiều các khía cạnh khác như: triết học, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, nhân
học, xã hội học. Hiện nay nhiều người gọi vô thức tập thể của Carl Jung là
tâm thức di truyền, cất giữ trong nó tất cả những kinh ngiệm chung của một
chủng loại, một dạng kiến thức mỗi chúng ta sau khi sinh ra đã được trang bị.
Tuy nhiên những kiến thức này thường không hiện lên bên trên bề mặt ý thức.
Chúng ta mới chỉ nhìn thấy bề nổi của tâm thần con người. Đó cũng là lý do
thôi thúc tôi nghiên cứu học thuyết của Jung về cái vô thức, tuy nhiên vì có
quá nhiều khía cạnh chính vì vậy sau đây tôi xin phép chỉ trình bày phần
nghiên cứu của Jung về vô thức tập thể.

3


2. Tình hình nghiên cứu
 Các công trình liên quan đến vấn đề vô thức:
Tác phẩm: “Freud và tâm phân học” của tác giả Phạm Minh Lăng
(2004),“Đại cương lịch sử triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỉ 19- đầu
thế kỉ 20” của tập thể tác giả: TS.Đỗ Minh Hợp, TS.Nguyễn Anh Tuấn,

PGS.TS Nguyễn Thanh (2008), “Phân tâm học nhập môn” do Nguyễn Hiến
Lê dịch (2001). Các tác phẩm này mới chỉ đề cập đến vấn đề cái vô thức
mang tính hệ thống, ở tầm chung và khái quát mà chưa đi sâu vào quan niệm
về vô thức của từng nhà triết học cụ thể.
 Một số ít công trình nghiên cứu về lý thuyết vô thức của C.G. Jung:
Tác phẩm: “Tâm lý học chuyên sâu, ý thức và những tầng sâu vô thức”
của tác giả Lưu Hồng Khanh (2005), “Jung đã thực sự nói gì?” của tác giả
Edward Amstrong Bennet do Bùi Lưu Phi Khanh dịch (2002), “Phân tâm
học và văn hóa tâm linh” do Đoàn Văn Chúc dịch (2002), Bản đồ tâm hồn
con người của Jung của Murray Stein (2011) do Bùi Lưu Phi Khanh dịch.
Những công trình này đã mang lại những hiểu biết cơ bản và khái quát nhất
về toàn bộ quá trình nghiên cứu về cái vô thức của Jung.
Ngoài ra còn một số bài báo, bài tạp chí cũng đề cập ít nhiều đến vấn đề
cái vô thức dưới những góc nhìn và mức độ khác nhau như: “Một xác tín về
C.Jung” của tác giả Ngọc thúy đăng trên Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật, số 11
năm 2005, “Vô thức” của tác giả Ngô Xuân Điệp, Tạp chí Tâm Lý Học, số 2
năm 2002, “Giấc ngủ, nhà điêu khắc của kí ức” của tác giả Nguyễn Văn
Thiêm in trên Tạp chí Tâm Lý Học, số 6 năm 2004. Những bài báo, tạp chí
trên đã đề cập một cách khái quát vấn đề cái vô thức, tuy nhiên, những tác
phẩm này chưa hệ thống hóa được toàn bộ quan niệm của Jung về vô thức tập
thể, cũng như chưa có những đánh giá về những giá trị và hạn chế lịch sử
trong tư tưởng của Jung về cái vô thức.
4


3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích
Trình bày và phân tích những nội dung cơ bản trong phân tâm học của
C.Jung về vô thức tập thể để từ đó chỉ ra được giá trị, ý nghĩa cũng như hạn
chế trong quan niệm của C.Jung.

Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, bài tiểu luận tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp, bối cảnh nảy sinh quan niệm của
của C.Jung về vô thức tập thể.
Thứ hai, tìm hiểu tiền đề tư tưởng hình thành quan niệm về vô thức tập
thể của Carl Gustav Jung.
Thứ ba, trình bày và phân tích những nội dung cơ bản về vô thức tập thể
trong tâm lý học phân tích của Jung.
Thứ tư, chỉ ra bước tiến mới trong quan niệm của Jung so với các nhà
triết học trước ông về cái vô thức.
Thứ năm, đánh giá những giá trị, hạn chế, ý nghĩa trong tư tưởng của
Jung.
4. Đối tượng và phạm vi
Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của C.G.Jung về vô thức tập thể.
Phạm vi nghiên cứu: Bài tiểu luận này chỉ nghiên cứu tập trung vào vấn
đề cơ bản trong quan niệm của Jung về vô thức tập thể.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; cơ sở lý luận của tâm lý học.

5


Bài tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích- tổng hợp, so
sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa, phương pháp logic- lịch sử...
6. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận này gồm 3 chương:
Chương 1: Những điều kiện và tiền đề hình thành quan niệm của Carl
Gustav Jung về vô thức tập thể.

Chương 2: Tư tưởng của Carl Gustav Jung về vô thức tập thể.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM CỦA CARL GUSTAV JUNG VỀ VÔ THỨC TẬP THỂ
1.1 Cuộc đời và sự nghiệp của Carl Gustav Jung
Carl Gustav Jung sinh ngày 26/7/1875 tại một ngôi làng nhỏ ở Kessewil,
Thụy Điển. Sinh trưởng trong gia đình giàu truyền thống học thuật: ông nội là
nhà vật lý học, ông ngoại - thần học, khi 6 tuổi, Carl Jung đã vô cùng hứng
thú với ngôn ngữ và văn học, nhất là văn học cổ điển. Ông có thể đọc những
từ cổ, bao gồm cả Sanskrit, ngôn ngữ ban đầu của kinh Hindu. Mặc dù ban
đầu Jung chọn khảo cổ học, song ông lại học về y dược ở đại học của
Basel(1895 – 1900) và đã chọn tâm lý làm sự nghiệp của mình. Sau khi tốt
nghiệp, ông làm việc tại bệnh viện tâm thần Burghoeltzli ở Zurich do E.
Bleuer lãnh đạo.
Năm 1902 ông trình bày luận án tiến sỹ y học: “Góp phần nghiên cứu về
tâm lý học và bệnh lí học đối với những hiện tượng gọi là huyền bí”. Sau đó,
ông sang Paris để vừa thực tập vừa theo học Pierre Janet, rồi trở về Thụy Sỹ
và lấy vợ. Với tư cách là thầy thuốc tình nguyện, ông hướng dẫn những cuộc
nghiên cứu đầu tiên tại Burgholizli về những liên tưởng và lý thuyết mặc
cảm. Ông cũng nghiên cứu về thôi miên, về các bệnh thần kinh tâm lý và
về tâm lý học. Năm 1907, ông công bố những kết quả nghiên cứu đầu tiên
của mình. Từ năm 1909, ông mở phòng tư vấn về “tâm lý học phân tích” và
giảng dạy môn tâm thần học tại trường đại học Zurich cho tới năm 1913.
Jung biết đến tư tưởng của Freud từ rất sớm, năm 1902, ông đã dẫn
Freud trong một bài viết của mình và cố gắng áp dụng những tư tưởng của
Freud. Jung đã trở nên nổi tiếng trong giới khoa học nhờ các tác phẩm về tâm

lí học và thử nghiệm liên tưởng bằng ngôn từ. Năm 1907, Carl Jung đã đi
Vienna để gặp S.Freud. Khi ấy, Freud đã hủy tất cả các cuộc hẹn để trò
7


chuyện cùng Jung, Freud đã xem Jung là người kế thừa thuyết phân tâm của
mình. Nhưng Jung lại không hoàn toàn bị thuyết phục bởi học thuyết của
Freud và mối quan hệ của họ nguội lạnh dần vào năm 1909. Bản thân Freud
rất thích Jung, khi Freud lập Hội quốc tế Phân tâm học (1910), ông chỉ định
Jung làm chủ tịch trong thời gian vô hạn định, nhưng đến năm 1914 Jung xin
từ chức. Việc ông chia tay với Freud chủ yếu là do những bất đồng mang tính
nguyên tắc trong việc giải quyết các vấn đề về thế giới quan. Freud coi tâm lý
và cuộc sống nói chung là đấu trường của các mặt đối lập không thể dung hòa
giữa nguyên tắc thỏa mãn và nguyên tắc thực tại, thì Jung chủ yếu tập chung
vào sự thống nhất khởi thủy đã bị đánh mất, cái vô thức và ý thức bị tách rời
nhau ở con người hiện đại nhưng chúng đã từng kết hợp hài hòa với nhau
trong các thần thoại và tôn giáo cổ. Năm 1912, Jung công bố Những biến hóa
của libido và những tượng trưng của nó, thay cho quan điểm về tính dục của
Freud. Những học thuyết của ông được viết trong giai đoạn này và không gọi
là "Phân tâm học" nữa mà dùng tên "Tâm lý học phân tích".
Năm 1930, ông được cử làm chủ tịch danh dự của Hội y học Đức. Năm
1933, ông làm tổng biên tập một tờ tạp chí tâm lý học, có sự cộng tác của một
người anh em của Goering, một thủ lĩnh phát xít quan trọng ở Đức. Năm
1939, ông rút lui và sống ẩn dật trong thời gian chiến tranh. Năm 1944,
Trường đại học Bale mời ông giữ một chức giáo sư về y học tâm lý. Năm
1948, ông lập Viện Jung ở Zurich. Từ đây, tiếng tăm của ông nổi lên, khách từ
nhiều nước đến với ông. Năm 1957, ông lập Hội tâm lý học phân tích Thụy
Sỹ rồi năm 1958, lập Hội quốc tế tâm lý học phân tích. Jung mất ngày 6 tháng
6 năm 1961 ở Kusnacht, bên bờ hồ Zurich.
Trong cuộc đời của mình, Jung đã dành rất nhiều tác phẩm nghiên cứu cái

vô thức. Trong đó có tác phẩm “Biện chứng của cái Tôi và cái vô thức”, ra
đời vào năm 1926, trong một cuộc nói chuyện của Jung về cấu trúc của cái vô
thức, những gì ông trình bày trong cuộc nói chuyện là kết quả của một quá
8


trình nỗ lực hàng chục năm ròng rã nhằm làm sáng tỏ và mô tả những quan hệ
giữa ý thức của cái Tôi và các quá trình vô thức. Từ việc nghiên cứu thế giới
của cái vô thức và những hiện tượng đi từ cái vô thức, Jung đã nghiên cứu
đặc biệt về những hiện tượng biểu hiện sự phản ứng của nhân cách có ý thức
đối với những ảnh hưởng bắt nguồn từ cái vô thức. Những nghiên cứu ấy,
theo ông, vẫn chưa đi tới một kết cục thỏa mãn, vì vấn đề chủ yếu về bản chất
và thực chất của quá trình vô thức tự nó vẫn chưa có câu trả lời. Trong quá
trình nghiên cứu bệnh tâm thần và triệu chứng của các bệnh nhân, Jung tin
rằng không phải tất cả những kinh nghiệm bất bình thường đều có thể được
giải thích trên cơ sở lịch sử cá nhân của họ và sự dồn nén những ý nghĩ xung
đột với những ý nghĩ được chấp nhận. Từ đây ông bắt đầu có sự phân chia vô
thức thành hai loại: vô thức cá nhân và vô thức tập thể.
1.2 Bối cảnh kinh tế xã hội nảy sinh tư tưởng của Jung
Cuối thế kỉ XIX, các nước phong kiến Tây Âu lần lượt tan rã, chủ nghĩa
tư bản đã ra đời và phát triển nhanh chóng, từng bước chuyển sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa. Thời kì này, khoa học - kĩ thuật phát triển mạnh mẽ với
nhiều thành tựu to lớn đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong
lịch sử nhân loại tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn cho xã hội, do
đó đời sống vật chất của con người hiện đại cũng được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cách mạng khoa học
cũng đem đến những mặt trái ảnh hưởng đến đời sống con người. Các tập
đoàn tài chính liên kết với nhau nhằm tập trung sức sản xuất, thành lập các
liên minh, các tổ chức độc quyền tiến hành xuất khẩu dẫn đến mâu thuẫn,
cạnh tranh, tàn sát lẫn nhau trong giới tư bản. Kinh tế càng phát triển thì đồng

thời nó cũng kéo theo những mâu thuẫn trong nhiều lĩnh vực như kinh tế,
chính trị, triết học, tôn giáo,… và đời sống xã hội lúc bấy giờ càng trở nên
căng thẳng, hàng loạt công nhân thất nghiệp, nhân dân bị áp bức về mặt kinh
tế chính trị ngày càng nặng nề. Con người trở thành nô lệ về mặt tinh thần và
9


khoa học tự nhiên bất lực trong việc giải quyết vấn đề này. Con người lúc bấy
giờ không còn nhận thức đúng vị trí, giá trị của bản thân so với người khác và
so với toàn xã hội. Họ có nguy cơ đánh mất bản thân, định hướng, mục đích
sống… Bên cạnh nhiệm vụ giải phóng con người khỏi sự áp bức bóc lột về
mặt thể xác, thực tiễn xã hội còn đặt ra một cách gay gắt vấn đề tự do nội tâm
của con người. Sau khi được giải phóng khỏi xiềng xích của chế độ áp bức,
con người lại bộc lộ khát vọng được giải phóng về mặt tinh thần ngày càng
lớn hơn.
Sự khủng hoảng của tâm lý học cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã dẫn
đến sự ra đời của “Phân Tâm Học”. Đây là trường phái tâm lý học khách quan
đi sâu nghiên cứu hiện tượng vô thức trong con người, coi vô thức là mặt chủ
đạo của đời sống tâm lý người, là đối tượng thực sự của tâm lý học. Người
sáng lập ra “Phân Tâm Học” là S.Freud, bác sỹ thần kinh và tâm thần người
Áo gốc Do Thái.
C.G. Jung làm quen với những công trình của S. Freud từ năm 1902.
Nhiều bài viết của ông giai đoạn này đã trích dẫn Freud và cố gắng áp dụng
tư tưởng của ông. Chính Freud cũng rất thích Jung nên khi thành lập Hội
quốc tế phân tâm học, ông đã chỉ định Jung làm chủ tịch vô thời hạn. Freud
hy vọng Jung trở thành người kế thừa mình. Nhưng năm 1912, khi Jung công
bố tác phẩm Những biến hóa và tượng trưng của libido thay thế cho quan
điểm về tính dục của Freud thì quan hệ giữa ông và Freud sụp đổ bởi quan
điểm của họ quá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Freud coi đó là sự
phản bội của Jung đối với ông, nên không những chỉ tuyệt giao mà ông còn

cấm Jung không được dùng thuật ngữ phân tâm học, vì thế Jung mới gọi học
thuyết của mình là Tâm lý học phân tích hoặc Tâm lý học các chiều sâu.
1.3 Những tiền đề tư tưởng hình thành quan niệm của C.G. Jung về vô
thức tập thể
10


C.Jung kế thừa trực tiếp quan điểm của Freud về vô thức. Tuy nhiên,
quan niệm phân tâm học nói chung và ý tưởng về vô thức nói riêng không
phải do Freud nghĩ ra đầu tiên. Trước đó còn có Aristote, Descartes, Leibniz,
những quan niệm của các ông đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự ra đời của phân
tâm học. Aristote nhận thấy trong giấc mơ có một loại hoạt động ngầm nào đó
của trí não. Nhiều thế kỉ sau đó, Descartes thừa nhận rằng có sự tồn tại của
một miền nào đó vượt khỏi sự chi phối của ý thức chập chờn (liên quan đến
trạng thái nửa tỉnh nửa mê) sau khi phân tích các cơ chế của dục vọng.
Leibniz thì mở ra học thuyết về những “cảm nhận nhỏ” mà theo ông viết, đó
là những thay đổi liên tục trong tâm hồn mà chúng ta không thể cảm nhận
được.
Như đã nói ở trên, quan niệm của Jung về vô thức cá nhân và vô thức tập
thể là sự kế thừa quan niệm của nhiều nhà tư tưởng trước ông, mà trực tiếp
nhất đó là sự kế thừa những quan niệm cơ bản của S.Freud. Tuy nhiên, sự
xung đột giữa Freud và Jung bắt đầu từ sự hiểu khác nhau khái niệm gốc của
phân tâm học là libido. Nếu Freud coi libido chỉ là dục năng (xung năng tính
dục) thuần túy, thì Jung coi đó là một thứ năng lượng sống. Nhưng không bao
giờ Jung phủ nhận cách nhìn của Freud về lịch sử và những tưởng tượng tình
dục, Jung chỉ cho rằng cái libido tức là năng lượng của cái vô thức vượt cao
hơn tình dục. Từ cách hiểu rộng hơn và trừu tượng hơn này, Jung đã tách rời
lâm sàng học và đưa phân tâm học đi theo một hướng khác, mang lại nhiều
cống hiến to lớn trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa. Từ đó, Jung đã phát hiện
ra vô thức tập thể.


11


CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG CỦA CARL GUSTAV JUNG VỀ VÔ THỨC
TẬP THỂ
Carl Jung đưa ra một cấu trúc tâm trí có ý nghĩa khác Freud, chia thành 3
tầng: Ý thức, vô thức cá nhân, vô thức tập thể. Ở mô hình này, nhân cách là
một toàn thể bao gồm ý thức và vô thức. Cái vô thức lại là một toàn thể nhỏ
bao chứa hai tập hợp nhỏ hơn là tâm lý tập thể và tâm lý cá nhân. Cái bản ngã
(id) vô thức theo Jung gọi là “vô thức cá thể”, nó là một bộ phận của vô thức
và là một lớp mỏng nằm ngay dưới ý thức. Nó chứa đựng nội dung và hoạt
động tâm lý không điều hòa được với ý thức nhưng có khả năng chuyển hóa
được thành ý thức. Như bản năng tình dục thường bị vô thức khống chế
nhưng không khó khăn khi bị chuyển hóa thành hành động có ý thức. Vô thức
tập thể là lớp sâu nhất, nằm dưới lớp vô thức cá nhân.
2.1 Ý thức
Theo quan niệm của Jung, ý thức bao gồm cái tôi (ego) và cái bề
ngoài/mặt nạ (persona). Cái tôi là con người thường ngày, con người ý thức,
tồn tại theo nguyên tắc hiện thực, những gì con người ý thức, suy nghĩ, nhớ
lại và cảm nhận còn cái bề ngoài là hình ảnh cái tôi muốn thể hiện mình cho
thế giới bên ngoài. Ý thức là một trạng thái có chức năng quan sát, ghi nhận,
cảm nhận, phẩm định, phân định đối với những gì diễn ra trong thế giới xung
quanh và nội tâm, không hề mang tính thụ động. Jung cho rằng, chỉ ý thức
con người mới tạo ra hiện hữu khách quan và nhờ thế con người tìm ra được
chỗ đứng không thay thế được của mình trong tiến trình lớn của hữu thể. Jung
quan niệm, ý thức là đầu và là cuối của mọi lý thuyết tâm lý, bởi mục đích
hàng đầu của Jung là giúp con người biết “trở nên ý thức”, biết “ý thức hóa”
toàn bộ tâm thức của mình. Từ đó ta thấy được Jung đánh giá cao vai trò của
ý thức.

12


Ý thức còn có đặc tính phản hồi trên chính mình, con người có thể tự
quan sát chính mình, biết mình làm gì và biết mình là gì, biết mình sống và
chết như thế nào,…. Đây là một đặc tính riêng biệt của con người, khác với
mọi động vật và sinh vật trong trời đất chỉ có đơn thuần một ý thức đối ngoại.
Chính nhờ khả năng ý thức phản hồi này, thông qua sự quan sát trên chính
mình và trên hoạt động của mình mà con người phân biệt được sự khác biệt
giữa cái Tôi chủ thể và những hoạt động của cái Tôi.
2.2 Vô thức
Sigmund Freud (1856-1939) là người sáng lập phân tâm học lần đầu tiên
đưa ra thuật ngữ vô thức. Thuật ngữ vô thức do Freud đề xuất và phát triển về
sau này để trở thành hạt nhân của học thuyết phân tâm học của ông hoàn toàn
chỉ mang tính cá nhân, theo đó, vô thức là những kí ức bị dồn nén khỏi ý thức
nhưng có thể khôi phục lại được nhờ các kĩ thuật phân tâm học.
“Vô thức là những biến cố, những kỉ niệm con người đã trải qua trong
quá trình sống trước đó; là những tình cảm có được sau những biến cố, những
kỉ niệm đó. Đồng thời nó cũng là những ước muốn chưa được thực hiện do
nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó nguyên nhân xã hội có vai trò to lớn
và quyết định”1 Con người nhận biết được vô thức thông qua những biểu hiện
của nó. Khi quan sát thấy nhiều hiện tượng vô thức là động lực điều khiển
mọi sinh hoạt nội tâm, hành vi, ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta, thường
tàng ẩn trong bóng tối tiềm thức và chỉ hiện ra ý thức khi có cơ hội: buồn, vui
vô cớ nhưng sự thật là có cớ. Ví dụ khi có người yêu nhưng không quan tâm
đến anh ta mỗi ngày, đến khi mất đi mới cảm thấy thiếu vắng vì cái đó ở trong
bóng tối vô thức. Vô thức còn biểu hiện rõ trong giấc mơ hoặc trong hành vi
sai lạc. Freud đã phát hiện ra rằng, hành vi sai lạc không đơn giản chỉ là
những hành động xuất phát từ sinh lí của một người mà đó là những hành vi
1 Đỗ Lai Thúy (2002), Phân tâm học và văn hóa tâm linh: S.Freud, C.Jung, E.Fromm, R.Assagioli,


NXB Văn Hóa Thông Tin, HN. tr.108

13


tinh thần, đó là kết quả của sự liên kết giữa hai ý muốn khác nhau: một ý
muốn bị gây rối và một ý muốn đi gây rối. nguyên nhân của những “hành vi
sai lạc” đó là do cơ thể bị những tổn thương, mệt mỏi, những xung đột quá
mạnh mà không thể giải quyết được ngay lập tức và bị dồn nén, nằm trong
miền sâu của vô thức. Còn trong giấc mơ, nó là một hình thức đã được sửa
đổi của một biến cố vô thức và sự giải thích giấc mơ có mục đích nhằm tìm ra
cái vô thức. Trong quá trình giải thích giấc mơ, chúng ta không nhất thiết phải
biết người nằm mơ có thể nhớ lại giấc mơ đến giới hạn nào, đúng hay sai tới
mức nào, bởi vì, giấc mơ mà người ta nhớ lại không phải là điều mà chúng ta
cần tìm. Nó chỉ là một hình thức đã được sửa đổi của cái mà chúng ta đang
tìm, đó là cái vô thức, là hình thức thay thế mà chúng ta cần để làm cho cái vô
thức trở thành cái hữu thức.
Tuy nhiên đối với Carl Jung, sau một quá trình cộng tác lâu dài với
Freud từ 1907-1913, đã bất đồng quan điểm sâu sắc với Freud trong việc
nhấn mạnh tính cá nhân của vô thức cũng như yếu tố tính dục và mặc cảm
Oedipus như là nguồn gốc của sự phát triển tâm lí cá nhân và văn hoá xã hội.
Thay vì khái niệm vô thức của Freud, Jung đưa ra khái niệm vô thức tập
thể (l'inconscient collectif). Vô thức tập thể là yếu tố quan trọng đầu tiên
trong tâm lý học phân tích khác với vô thức của Freud mà Jung gọi là “vô
thức cá nhân”.
2.2.1 Vô thức cá nhân
Freud quan niệm, tất cả các hiện tượng tâm thần của con người về bản
chất là hiện tượng vô thức. Vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời sống tâm lý
con người. Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vô thức và tùy

theo tương quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện
ra theo những qui luật khác hẳn với ý thức.2

2 GS. TS. Nguyễn Ngọc Phú ,“Lịch sử tâm lý học”. NXB ĐH QGHN, tr.185

14


Quan niệm của Jung về vô thức cá nhân không khác gì quan niệm của
Freud về vô thức và đã được Jung nhìn theo một góc độ khác:
Với S.Freud, ông coi vô thức là kết quả được rút ra từ ý thức. Trong vô
thức bẩm sinh của con người thuần mang tính cá nhân. Những bản năng chứa
trong vô thức chỉ nhắm đến việc duy trì đời sống hoặc nhằm tìm kiếm khoái
lạc, tránh đau khổ cho cá nhân. Những yếu tố mang tính phi cá nhân chỉ bắt
đầu hình thành sau khi sinh ra. Điều này không thể lý giải tại sao những yếu
tố mang tính phi cá nhân, từ chỗ không có một nguồn gốc nào, chỉ mới xuất
hiện trong đời sống cá nhân lại có được sức mạnh không kém gì sức mạnh
của bản năng. Như người mẹ có thể hy sinh mạng sống vì con. Sự hy sinh có
được sức mạnh, thậm chí vượt qua cả bản năng sống.
Nếu Freud coi vô thức cá nhân chỉ là kết quả được rút ra từ ý thức, thì
Jung lại nhìn sâu hơn và nhìn cả theo chiều ngược lại, tức thấy được rằng vô
thức vừa là kết quả của ý thức và đồng thời cũng là nguồn cung cấp chất liệu
cho ý thức. Jung phân biệt hai loại vô thức như sau: vô thức tập thể bẩm sinh
trong ta và có tính cách phổ quát, ta không biết nó nhưng nó thuộc vào bản
chất của ta. Còn vô thức cá nhân là cái nôi chứa tất cả những gì bị bỏ rơi, bị
cấm, tức là bị giáo dục và đạo đức lùa vào bóng tối, rồi bị dồn nén trong đó.
Theo nghĩa này, vô thức cá nhân gần với vô thức của Freud.
Jung phân tích rằng vô thức cá nhân bao gồm những phức cảm, hoạt
động như một tổ hợp, khi một từ kích thích chạm vào một chủ đề có liên quan
tới tổ hợp đó, thỉnh thoảng sự trả lời gây ngạc nhiên cho chủ thể. Nếu “tưởng

tượng tâm thần là một đối tượng ba chiều giống như hệ mặt trời. Bản ngã ý
thức là trái đất, là vùng đất cứng, đó là nơi chúng ta sống. Không gian xung
quanh trái đất bao gồm các vệ tinh và thiên thạch to nhỏ khác nhau. Không
gian này được Jung gọi là vô thức, và những đối tượng mà chúng ta gặp trước
tiên khi chúng ta thám hiểm không gian này là các phức cảm. Vô thức là nơi
15


cư ngụ của các phức cảm” 3. Theo Jung phức cảm có năng lượng như điện tử
của hạt nhân xoay chiều. Jung đã kế thừa hoàn toàn quan niệm của Freud về
lý thuyết dồn nén khi cho rằng các phức cảm có trong vô thức được hình
thành thông thường là do những sang chấn cá nhân. Jung đề cập đến năng
lượng của phức cảm và ví chúng như những điện tử xoay quanh hạt nhân của
nguyên tử. Theo Jung “khi bị kích thích bởi một tình huống hay một sự kiện,
chúng làm bùng phát năng lượng và vượt qua các mức năng lượng cho đến
khi xuất hiện trong ý thức. Năng lượng của chúng xuyên qua vỏ bọc của bản
ngã – ý thức và tràn ngập nó, do đó bản ngã hoạt động theo cùng hướng với
nó và giải phóng một lượng năng lượng cảm xúc. Khi điều này xảy ra, bản
ngã hoàn toàn không kiểm soát được ý thức nữa và do đó không thể kiểm soát
được cả cơ thể… Tất cả những gì bản ngã có thể làm, nếu nó đủ mạnh, là giữ
lấy một năng lượng nhất định của phức cảm và làm giảm đến mức tối thiểu
các cơn bùng phát cảm xúc và cơ thể”4
Các phức cảm có tính cá nhân được sinh ra gắn với tiểu sử đặc biệt riêng
của một người và hoàn toàn thuộc về cá nhân đó. Ngoài ra còn có những phức
cảm xuất hiện do những tương tác với thế giới khách quan, do kiểu gia đình
và do sự quy định của văn hóa. Đó là những phức cảm gia đình và xã hội. Các
phức cảm được tạo thành từ những hình ảnh liên tưởng và những kí ức bị
đóng băng vào những thời điểm diễn ra sang chấn, được chôn sâu trong vô
thức và khó phục hồi bởi bản ngã.
2.2.2 Vô thức tập thể

 Nguồn gốc của vô thức tập thể
Nguồn gốc ra đời của thuật ngữ “Vô thức tập thể” xuất phát từ lý do và
kinh nghiệm nghiên cứu có sự phụ thuộc sâu sắc lẫn nhau của Jung như sau:
3 Murray Stein

(2011), Bản đồ tâm hồn con người của Jung, Bùi Lưu Phi Khanh dịch, xuất
bản lần đầu 1998, tr.62
4Murray Stein (2011), Bản đồ tâm hồn con người của Jung, Bùi Lưu Phi Khanh dịch, xuất
bản lần đầu 1998. Tr.74

16


- Giấc mơ của bản thân và ý tưởng về vô thức tập thể.
- Nghiên cứu bệnh nhân tâm thần của một bệnh nhân 1909-1913.
- Các nghiên cứu tâm lý từ sau năm 1913.
Thứ nhất, ý tưởng về vô thức tập thể lại bắt nguồn từ một giấc mơ của
Carl Jung. Trong tự truyện “Những kí ức, giấc mơ và suy nghĩ của mình”,
Jung kể về sự phát hiện các lớp của vô thức từ một giấc mơ mà ông trải qua
trong chuyến đi giảng bài ở Mỹ năm 1909 cùng với Freud. Ông mơ về một
ngôi nhà gồm nhiều tầng. Trong giấc mơ đó ông khảo sát các tầng của một
ngôi nhà từ tầng chính (thời hiện đại), đến móng (quá khứ lịch sử gần) và
vượt qua đó tới tận các tầng hầm (quá khứ lịch sử cổ xưa, như thời Hi Lạp và
La Mã, và cuối cùng là quá khứ tiền sử và thời Paleolithic). Giấc mơ này
được Jung suy nghĩ trong một thời gian dài và đã trả lời cho ông một câu hỏi
mà ông đã tự hỏi trong chuyến đi “tâm lí học của Freud đã được dựa trên
những tiền đề gì? Nó thuộc về phạm trù nào của tư tưởng con người?. Hình
ảnh giấc mơ này giúp Jung nhận biết cấu trúc tâm thần như thế nào. Nó chính
là ấn tượng đầu tiên của ông về tính tập thể và sự tiên nghiệm phía bên dưới
tâm thần cá nhân.

Thứ hai, sau khi nghiên cứu bệnh tâm thần của một bệnh nhân từ 19091913, có một cô gái đang trong giai đoạn đầu của bệnh tâm thần phân liệt
luôn tưởng tượng về một anh hùng Chiwantopel của Nam Mỹ đã gợi ý cho
ông về những thuộc tính chung trong tâm lí con người không bị chi phối bởi
chủng tộc và thời đại. Khảo sát kĩ hơn về các thần thoại, truyện cổ tích và các
mô típ tôn giáo có liên quan đến những huyễn tưởng của cô gái ấy đã khiến
Jung ngạc nhiên vì sự giống nhau của của các chủ đề chung đó từ thần thoại
Ai Cập cổ đến các bộ lạc bản địa châu Úc, và những thổ dân da đỏ châu Mỹ.
Theo Jung, vô thức và các tiền đề của nó phải bắt nguồn từ một tầng lớp tâm
lý sâu hơn và có tính phổ quát. Những ý tưởng về một lớp vô thức phi cá
nhân như vậy, đã được Jung trình bày trong cuốn “Những biến hoá và tượng
trưng của libido” xuất bản năm 1913, không chỉ đánh dấu sự ra đời của một
17


học thuyết mới, mà còn là sự kết thúc của mối quan hệ 7 năm với người sáng
lập phân tâm học là Sigmund Freud.
Tuy nhiên, trong cả sự nghiệp khoa học của ông, việc tìm kiếm bằng
chứng thực nghiệm cho thuật ngữ này tỏ ra không có ích và ông chỉ có thể thu
được những bằng chứng cho giả thuyết của mình thông qua sự quy nạp các
trường hợp nghiên cứu khoa học để rút ra kết luận về tính xác thực của giả
thuyết về vô thức tập thể.
Cuối cùng, qua hàng vạn giấc mơ và huyễn tưởng được phân tích kĩ
càng, Jung đã nhận thấy sự giống nhau của những hình ảnh, môtíp, chủ đề
trong đó dù những người nằm mơ thuộc các nền văn hoá khác nhau với tuổi
tác và trình độ học vấn khác nhau để cuối cùng đi đến sự củng cố cho chính
ông về sự tồn tại một lớp vô thức chung, mang tính tập thể trong tâm lí con
người. Jung đề xuất khái niệm vô thức tập thể trong bài viết ngắn “Cấu trúc
của vô thức” năm 1916.
Jung viết: “Trước tiên những huyễn tưởng (bao gồm cả các giấc mơ)
mang bản chất cá nhân, mà chắc chắn thuộc về những kinh nghiệm cá nhân,

những gì bị lãng quên hay bị dồn nén, và hoàn toàn có thể giải thích được
bằng tiền sử cá nhân. Thứ đến, những huyễn tưởng (bao gồm cả các giấc mơ)
mang đặc trưng phi cá nhân, không thể quy giản về quá khứ cá nhân, và do
đó, không thể giải thích như những gì mà cá nhân đạt được. Những hình ảnh
huyễn tưởng này không nghi ngờ gì là có những liên hệ khăng khít với các
môtíp huyền thoại. Do đó chúng ta phải cho rằng chúng tương ứng với những
yếu tố cấu trúc tập thể (và phi cá nhân) của tâm thần con người nói chung, và
giống như thể xác, được thừa hưởng. Mặc dù truyền thống và sự truyền phát
bằng di cư chắc chắn chiếm một vai trò, nhưng như chúng tôi đã nói, có rất
nhiều trường hợp không thể giải thích bằng cách này và thúc đẩy chúng ta về
một giả thuyết ‘sự phục hồi nguyên thuỷ’. Những trường hợp này nhiều đến
18


mức mà chúng ta buộc phải giả định sự tồn tại của một cơ tầng tâm thần tập
thể. Tôi gọi cơ tầng này là vô thức tập thể”5.
 Về nội hàm khái niệm của vô thức tập thể:
Trong tiểu luận “Khái niệm vô thức tập thể” năm 1936, Jung cho rằng:
“vô thức tập thể là một phần của tâm thần đươc phân biệt khỏi vô thức cá
nhân bởi việc chúng không giống vô thức cá nhân, không tồn tại nhờ kinh
nghiệm các nhân và kết quả là không phải một chiếm hữu cá nhân” 6. Tức là
vô thức tập thể với tư cách là nơi lưu trữ những kinh nghiệm con người và
đồng thời là tiền đề của những kinh nghiệm đó, là một hình ảnh về thế giới
được tạo dựng qua nhiều thời đại.
Theo Jung: “Vô thức tập thể là kết quả sinh hoạt của loài người, nó vốn
có ở mọi người, được kế thừa và trở thành cơ sở cho tâm lý cá nhân phát triển
trên đó.” Nó được hiểu là kí ức của con người, tồn tại trong mọi người; là kết
quả của đời sống thị tộc; là cơ sở của tâm trạng cá nhân. Theo Jung vô thức
tập thể là phần sâu nhất của tâm thần quyết định số phận cá nhân cũng như xã
hội. Nó là nơi lưu trữ kinh nghiệm của chúng ta với tư cách là một loài, đó là

những tri thức mà khi sinh ra chúng ta đã có sẵn, mang tính tiên nghiệm và
không phụ thuộc vào môi trường hay hoàn cảnh. Như vậy có thể thấy khác
với Freud, và cả các nhà tâm lí học hay triết học khác, học thuyết của Jung
nói chung và khái niệm cơ bản nhất của ông là vô thức tập thể nói riêng mang
tính quyết định luận nhiều hơn so với các học thuyết tâm lí khác. Có thể thấy
điều này khi ông chống lại quan điểm khẳng định sự phát triển tâm lí cá nhân
chỉ bắt đầu từ khi cá nhân ra đời. Vô thức tập thể theo Jung có gốc gác từ
kinh nghiệm lịch sử của nhân loại. Nó chính là nhân tố mơ hồ nhưng rất sâu
sắc, quyết định hành động của con người.
 Nội dung học thuyết của Jung về vô thức tập thể:
5 C.G. Jung, Colleted Works 9i, Princeton University Press, 1997, tr.155.

6

C.G. Jung, Colleted Works 9i, Princeton University Press, 1997, tr.42

19


Nếu với Freud vô thức mang tính cá nhân, thì Jung lại đưa đến một góc
nhìn khác đó là "vô thức tập thể" - những kinh nghiệm được tích lũy, đúc kết
dưới dạng nguyên mẫu hay mẫu lý tưởng (archetype) từ lịch sử nhân loại,
được cá nhân thừa hưởng như một bản năng, được truyền lại từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Đó là những hình ảnh bắt nguồn từ miền sâu của vô thức
tập thể không phụ thuộc vào ý chí và nguyện vọng của con người. Chúng có
sức hấp dẫn và một năng lượng tâm lý lớn. Nói cách khác, các nguyên mẫu là
những khái niệm quan trọng, là biểu tượng, và hình ảnh trong văn hóa của
con người.
Theo Jung, vô thức tập thể được thành lập trên ba tầng: trước hết là vô
thức tập thể gia đình, rồi đến vô thức tập thể của nhóm chủng tộc và văn hoá,

mà chủ thể thuộc vào, và sau cùng là vô thức tập thể nguyên thuỷ
(inconscient collectif primordial), trong đó hội tụ tất cả những gì nhân loại có
chung với nhau, như sự sợ bóng tối hay bản năng sinh tồn, vv...
- Nguyên mẫu hay mẫu lý tưởng(archetypes)
Nguyên mẫu (archetype), theo Jung, là tiến trình tâm thần nền móng của
những nền văn hoá nhân loại, nó diễn tả những kiểu mẫu sơ đẳng (modèles
élémentaires) của những thái độ và những cách diễn đạt, rút ra từ kinh nghiệm
sống của con người qua tất cả những thời kỳ lịch sử, liên quan tới vô thức tập
thể; là những biểu tượng mà con người có từ thời cổ xưa và xuất hiện lặp đi
lặp lại trong các tác phẩm nghệ thuật, khởi đầu là huyền thoại, khiến con
người hành xử như đã được lập trình và có thể coi như bản năng, hướng chủ
thể về sự tiến hoá nội tâm, hiện tượng này được gọi là cá
tính hoá (individuation). Đối với Jung, nguyên mẫu là sự hợp nhất một biểu
tượng với một cảm xúc. Nguyên mẫu tổng cộng và tổng hợp năng lượng tâm
thần, nhờ bản chất này, nó là tiền thân của cái tôi tự tại (pschysé).

20


Trong nguyên mẫu có tính nam (animus) và tính nữ (anima). Điều này
có nghĩa cả nam và nữ đều mang tính lưỡng tính: người nam có tính nữ và
người nữ có tính nam. Dĩ nhiên tỷ lệ nam tính và nữ tính không làm mất đặc
tính căn bản của người đó. Nguyên mẫu nguyên thủy và quan trọng nhất
trong số các nguyên mẫu mà Jung đề cập là nguyên mẫu mẹ (mother
archetype): chúng ta sẽ không bao giờ tồn tại nếu chúng ta không kết nối với
một người nuôi dưỡng trong thời gian mà chúng ta là những trẻ sơ sinh bất
lực. Vì vậy người mẹ nguyên mẫu là khả năng xây dựng bên trong của chúng
ta để nhận biết một mối quan hệ nhất định, đó là “mothering”. Jung nói rằng
điều này khá là trừu tưởng, và chúng ta có khả năng phóng chiếu nguyên mẫu
ra thế giới bên ngoài và lên một người cụ thể, thường là chính các người mẹ

của chúng ta.
Tuy nhiên không được nhầm lẫn giữa nguyên mẫu và bản năng. Nguyên
mẫu là một hình ảnh nguyên thuỷ sống trong vô thức nhưng nó không sinh ra
từ kinh nghiệm cá nhân. Còn bản năng là tổng số tất cả ý thức, tất cả vô thức
và tất cả tâm hồn của con người. Bản năng, được rút ra từ vô thức tập thể, có
nhiệm vụ thành lập nội dung và chủ đề của nguyên mẫu, bản năng và nguyên
mẫu tạo thành toàn bộ vô thức tập thể. Theo quan điểm của Jung, các bản
năng (những xu hướng bẩm sinh không biết) rất gần với những nguyên mẫu.
Với Jung, tinh thần và cơ thể có quan hệ với nhau đến mức chúng dường như
không thể tách rời. Một mặt, các nguyên mẫu sẽ đưa ra những hình thức và ý
nghĩa cho bản năng thậm chí có lúc các nguyên mẫu có thể hoạt động như các
bản năng, đó là khi các nguyên mẫu can thiệp vào việc định hình, biến đổi và
thúc đẩy những nội dung của ý thức. Mặt khác, bản năng cung cấp năng
lượng sinh học thô cho các cổ mẫu. Sự gắn bó giữa những cổ mẫu với bản
năng chặt chẽ đến mức người ta có xu hướng quy giản cái này thành cái kia
và ngược lại. Mặc dù nguyên mẫu và bản năng gắn bó với nhau một cách
tương ứng nhưng Jung không có ý định quy giản các cổ mẫu thành các bản
21


năng và ngược lại. Theo ông, có một sự dao động giữa bản năng và cổ mẫu.
Ông miêu tả tâm thần giống như quang phổ ánh sáng trong đó mẫu tượng ở
phía tử ngoại và bản năng ở phía hồng ngoại. Có lúc ông tưởng tượng có một
đường thẳng chạy qua tâm thần và một đầu gắn với cổ mẫu, phần còn lại gắn
với bản năng. Trên thực tế, bản năng và cổ mẫu không tách rời cũng không
đồng nhất, chúng luôn luôn được nhận thấy trong một hình thức hỗn hợp và
không bao giờ tồn tại thuần túy. Hai phần cổ mẫu và bản năng kết hợp với
nhau trong phần vô thức, ở đó chúng vừa thống nhất, hòa lẫn, vừa đấu tranh
với nhau.
C. Jung khẳng định vô thức tập thể chính là nội dung kinh nghiệm

nguyên thủy hình thành trong quá trình tiến hoá sơ kỳ của nhân loại. Ông cho
rằng, trong cuộc sống nguyên thủy có năm loại nguyên mẫu hay mẫu lý tưởng
quan trọng nhất và còn lưu truyền rộng rãi đến ngày nay đó là: Persona (mặt
nạ nhân cách), Shadow (bóng âm), Anima(tính nữ), Animus(tính nam), Self
(vô thức tự ngã).
- Persona (mặt nạ nhân cách).
Persona loại nguyên mẫu có tác dụng làm cho con người khi giao tiếp có
thể che dấu "cái tôi thực". Phân tích persona là đi tìm cái đích thực cá nhân
dưới lớp vỏ tập thể. Persona có thể mang lại hai hậu quả cực đoan: làm cho
con người mất đi bản lĩnh, mất đi cá tính hoặc "sắm vai" quá nhiều đến mức
không nhớ mình là ai. Persona là một cái tôi lí tưởng, mục đích của nó đáp
ứng yêu cầu của xã hội và thể hiện mong muốn cá nhân của chính mình. Jung
đưa ra thuật ngữ persona để mô tả thái độ phù hợp với những yêu cầu của
cuộc sống hàng ngày của mỗi cá nhân. Những người có nhiều persona được
gọi là những người đa nhân cách. Nhưng những thái độ tức những mặt nạ
khác nhau cũng chỉ là sự biểu thị cho một khía cạnh nào đó của cái tôi ý thức
trong một trường hợp nhất định và không thể bị lẫn lộn với toàn bộ con
người. Nếu một cá nhân đồng nhất hóa toàn bộ mình với từng mặt nạ của
22


mình thì sẽ dẫn đến sự phủ nhận những phần khác trong nhân cách của mình,
trong đó có cả vô thức. Jung phân biệt sự bắt chước với sự đồng nhất hóa
(hay sự bắt chước vô thức). Với một đứa trẻ khỏe mạnh hoàn toàn tự nhiên,
khi nó phát triển, nó trở nên có ý thức về người khác và học cách ứng xử
trong cộng đồng thông qua sự bắt chước. Ở mỗi đứa trẻ khác nhau thì mức độ
bắt chước và sự bắt đầu sẽ khác nhau. Như vậy, sự bắt chước là cách thức
phát triển hoàn toàn tự nhiên và phù hợp, nhưng với sự đồng nhất hóa thì
khác. Nếu một đứa con trai đồng nhất hóa một cách quá mức với cha của
mình thì nó có thể đánh mất đi một số tính chất cơ bản. Đồng nhất hóa hay sự

bắt chước vô thức không có sự nhận thức của trẻ, nó trở thành một rào cản
khi kìm hãm sự phát triển của cá nhân, gây ra ở đứa trẻ một sự thiếu tin tưởng
vào khả năng của bản thân.
-Shadow
Shadow là một phần che dấu của nhân cách có vai trò ngược lại với
persona. Về bản chất, shadow được cấu thành chủ yếu từ ham muốn bị dồn
nén và những xung lực hoang dã, những động cơ thấp kém về đạo đức, những
huyễn tưởng trẻ con và những sự thù hận… tức là tất cả những gì mà con
người không tự hào. Những đặc trưng cá nhân không được nhận biết này
thường được trải nghiệm qua người khác thông qua sự phóng chiếu. Jung cho
đây là lớp nguyên thủy nhất trong vô thức tập thể, rất gần với "tình dục
nguyên thủy" của S. Freud. Một cá nhân thường không ý thức được phần xấu
xa, khó chịu của nhân cách mình mà còn cảm thấy bị hiểu sai và cố gắng bào
chữa cho mình và đã chối bỏ nó. Điều này thường xảy ra khi cá nhân đồng
nhất với mặt nạ của mình và bỏ qua những mặt tiêu cực khác của nhân cách
mình, mặc dù mặt tiêu cực này không phải bao giờ cũng xấu. Jung cho rằng
sự khống chế của Persona đối với Shadow cần thiết, để cho con người ngày
càng văn minh hơn, nếu dồn nén nó quá mức thì sẽ làm suy yếu sức sống bản
năng. Jung dùng từ Shadow để chỉ bản năng tình dục và bản năng sống xuất
23


phát từ động vật. Nếu Freud nói con người bị chi phối bởi vô thức và dục
tính, Jung cũng phần nào đống ý như thế khi coi libido là năng lực phục vụ
cho các nhu cầu sinh lý căn bản nhưng chỉ là ở giai đoạn đầu đời mà thôi.
-Anima:
Anima được mô tả là những hình ảnh nguyên mẫu của nữ tính vĩnh cửu
trong vô thức của một người đàn ông. Nó tạo thành một mối liên kết giữa ý
thức của bản thân và vô thức tập thể trong giới tính nam. Do đó, anima là
hình ảnh của một người phụ nữ hoặc nhân vật nữ có mặt trong những giấc mơ

hoặc tưởng tượng của một người đàn ông. Anima là nguyên mẫu của cuộc
sống và thường được đại diện bởi các yếu tố như một phụ nữ trẻ, tự phát,
quyến rũ và trực giác.
Jung cho rằng, trong vô thức của mỗi một người đàn ông đều có một
yếu tố nữ tính, được nhân cách hóa trong những giấc mơ bằng một hình tượng
hoặc một hình ảnh phụ nữ được gọi là Anima. Đó vừa là một tổ hợp cá nhân
vừa là một cổ mẫu trong tâm thần đàn ông. “Ở mỗi một người đàn ông có một
hình ảnh không chỉ của người mẹ, mà còn cả con gái, chị gái, người yêu, nữ
thần. Mọi người mẹ và người yêu buộc phải là người chuyên chở và hoá thân
của hình ảnh siêu quyền lực và phi thời đại này, tương ứng với thực tế sâu
nhất ở một người đàn ông”7.
Anima được hình thành trên cơ sở của ba yếu tố: hình ảnh người mẹ,
kinh nghiệm cá nhân của người đàn ông về phụ nữ, và một hình ảnh nguyên
mẫu được thừa hưởng. Những hình ảnh của anima biến đổi một cách vô thức,
nó là nguồn cảm hứng tạo nên cảm xúc cho đàn ông. Nó có thể được phóng
chiếu lên một hoặc một vài phụ nữ, có thể lần lượt hoặc thậm chí đồng thời.
Khi còn là một đứa trẻ và ở tuổi thiếu niên, mẹ là người bạn tự nhiên, do vậy,
sự phóng chiếu yếu tố nữ tính trong nó là lên người mẹ. Đó là trường hợp quá
trình phát triển diễn ra bình thường. Một người đàn ông có hình ảnh phụ nữ
7 C.G. Jung, Colleted Works 9i, Princeton University Press, 1997, tr.32

24


trong đầu óc mình là vấn đề bình thường và sự vắng mặt của nó mới là bất
bình thường. Phụ nữ làm hoàn thiện và làm đầy đủ đàn ông cả về mặt thể chất
và tâm thần cho dù người đàn ông có hay không nhận thức được điều đó. Như
vậy, anima (yếu tố nữ tính trong người đàn ông) là một hình ảnh thuộc về vô
thức của người đàn ông, có thể thuộc về vô thức cá nhân (khi yếu tố nữ tính
đó thuộc về kinh nghiệm cá nhân), hoặc thuộc về vô thức tập thể (khi yếu tố

nữ tính đó được người đàn ông thừa hưởng từ lịch sử).
-Animus
Animus là khía cạnh nam tính vĩnh cửu ở người phụ nữ. Theo nghĩa này,
nó được sử dụng để mô tả khía cạnh vô thức, nam tính của tính cách phụ nữ.
Giống như anima, animus vừa là một tổ hợp cá nhân, vừa là một hình ảnh cổ
mẫu. Trong khi anima ở người đàn ông hoạt động như một linh hồn, thì
animus của một người phụ nữ lại hoạt động như một tâm thần vô thức. Nó thể
hiện sự tiêu cực ở những ý kiến cứng nhắc, những lập luận tập thể, và những
giả định tiên nghiệm và vô thức khi tuyên bố chân lí tuyệt đối.
Animus cũng hình thành trên cơ sở của ba yếu tố: kinh nghiệm cá nhân
của người phụ nữ về hình ảnh đàn ông, hình ảnh người cha và hình ảnh nam
tính được thừa hưởng. Tính chất nam tính có trong một bé gái trước hết nằm
ở những kinh nghiệm của cô gái về cha của mình. Từ nền tảng đó, cô gái sẽ
xây dựng nên những tư tưởng của mình về đàn ông. Người cha là người đàn
ông đầu tiên mà cô gặp, do vậy ông trở thành hình mẫu chuẩn mực mà cô
dùng để đánh giá những người đàn ông. Ngoài ra còn có những hình ảnh
được thừa hưởng về người đàn ông trong vô thức của người phụ nữ. Ở người
phụ nữ những yếu tố nam tính vô thức trong nhân cách của bản thân được pha
trộn hài hòa với những thuộc tính khác, cô gái không có sự lựa chọn nào về
việc có hay không animus trong mình. Tuy nhiên, animus không phải bao giờ
cũng được hòa trộn một cách thành công trong người phụ nữ. Nếu như cô
đóng vai trò của mình tốt và hài hòa với những người khác đặc biệt là với
25


×