Thực trạng đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị ở Việt Nam
2.1. Tổng quan về vốn đầu tư và các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
cấp nước đô thị
Trong những năm qua, tình hình cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở nước ta
đã được cải thiện đáng kể. Hầu hết các thành phố, thị xã trong toàn quốc đều đã
có được các dự án đầu tư cải tạo mở rộng và xây dựng mới các hệ thồng cấp
nước. Kể từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã đầu tư xây dựng khoảng 1 tỷ USD
để phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị với mức độ đầu tư khác nhau, tính
tổng cộng trên toàn quốc có khoảng 240 nhà máy nước. Hầu hết các thành phố,
thị xã trong toàn quốc đều đã có được các dự án đầu tư cải tạo mở rộng và xây
dựng mới các hệ thống cấp nước. Các dự án cấp nước được đầu tư chủ yếu từ
nguồn vốn Ngân sách nhà nước, vốn ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước, vốn từ các doanh nghiệp. Chất lượng và số lượng cấp nước được
thực hiện bởi các dự án này đã đáp ứng phần nào nhu cầu nước sạch cho sản
xuất và sinh hoạt của người.
2.1.1.Thực trạng vốn đầu tư trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
*Quy mô và tốc độ tăng của nguồn vốn đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị:
Để không ngừng nâng cao chất lượng và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
về nước sạch ở đô thị, ngành kinh doanh nước sạch đô thị đã chú trọng quan
tâm đặc biệt đến việc huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư. Kết quả thu hút đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được phản ánh ở bảng sau:
Bảng 2.1 : Vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
giai đoạn 2002-2007
Đơn vị : Tỷ đồng,%
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Vốn ĐTPT
CSHTĐT
Quy mô 24498 33887 44474 55606 69500 79600
Tốc độ tăng liên
hoàn
16,78 16,33 18,73 21,82 17,46 14,53
Vốn ĐTPT
CSHTCNĐT
Quy mô 2198 2631 3200 4500 3900 4600
Tốc độ tăng liên
hoàn
17,91 19,69 21,62 40,62 -13,33 17,94
Tỷ trọng vốn ĐTPT CSHTCNĐT/
vốn ĐTPT CSHTĐT
8,97 7,76 7,19 8,09 5,61 5,80
Nguồn : Vụ tài chính - tiền tệ, Bộ kế hoạch và đầu tư
Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển của đất nước, cơ sở hạ tầng
đô thị có những bước phát triển đáng kể đóng góp vào sự phát triển chung của
toàn xã hội. Trong giai đoạn 2002 – 2007, nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng
đô thị có tốc độ tăng dần qua các năm, tốc độ tăng bình quân vốn đầu tư vào
phát triển cơ sở hạ tầng đô thị đạt 17,5%, năm 2002 vốn đầu tư vào đây là
24498 tỷ đồng nhưng đến năm 2007 đã lên đến 79600 tỷ đồng, tức là tăng
55102 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng thêm là 224,92%, sở dĩ nguồn vốn
đầu tư vào cơ sở hạ tầng đô thị tăng nhanh chóng như vậy là do tốc độ đô thị
hóa đang diễn ra ngày càng mạnh, do đó nhu cầu về cơ sở hạ tầng cấp cũng
ngày càng tăng, chính vì vậy mà lượng vốn cần cho đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng đô thị cũng ngày càng tăng.
Từ số liệu thống kê ở bảng 1 cũng cho thấy, nhìn chung vốn đầu tư cho
cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có xu hướng tăng dần qua các năm, tốc độ tăng
bình quân giai đoạn 2002-2007 về nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
là 7,23%. Năm 2004, vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 3200 tỷ
đồng, so với năm 2002 tăng 1002 tỷ đồng, tương ứng với tăng 45,58%. Năm
2005 tăng 2302 tỷ đồng so với năm 2002, tức là tăng 104,73% so với năm 2002.
Năm 2007 số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 4600 tỷ đồng, so
với năm 2002 tăng 2402 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 10,92%.
Tốc độ tăng số vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tương đối
đều, tuy nhiên so với năm 2005 thì năm 2006 tốc độ này lại có xu hướng giảm,
năm 2006, tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 3900 tỷ đồng,
giảm 700 tỷ đồng so với năm 2005 hay là giảm 13,33% so với năm 2005.
Việc mở rộng quy mô và gia tăng thêm tốc độ của vốn đầu tư cho phát
triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là do kết qủa đa dạng hóa các nguồn vốn.
Điều này được thể hiện ở bảng 2:
Bảng 2.2: Quy mô và tốc độ tăng của nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng
cấp nước đô thị ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2007
Đơn vị : tỷ đồng, %
Nguồn vốn Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng số 1864 2198 2631 3200 4500 3900 4600
Vốn Ngân sách Nhà
nước
Quy mô 423 509 610 658 600 350 690
Tốc
độ
tăng
Định gốc - 20.33 44.21 55.56 41.84 -17.26 63,12
Liên hoàn - 20.33 19.84 7.87 -8.18 -41.67 97,14
Vốn tín dụng ĐTPT
của Nhà nước
Quy mô 23 87 195 417 878 1138 1860
Tốc
độ
tăng
Định gốc - 278.26 747.83 1713.04 3717.39 4847.83 7986,95
Liên hoàn - 278.26 124.14 113.85 110.55 29.61 63,44
Vốn ODA
Quy mô 1332 1338 1434 1611 1722 1698 1360
Tốc
độ
tăng
Định gốc - 0.45 7.66 20.95 29.28 27.48 2,11
Liên hoàn - 0.45 7.17 12.34 6.89 -1.39 -19.9
Các nguồn vốn khác
(DN, tư nhân...)
Quy mô 86 264 392 514 1300 714 690
Tốc
độ
tăng
Định gốc - 206.98 355.81 497.67 1411.63 730.23 702.3
Liên hoàn - 206.98 48.48 31.12 152.92 -45.08 -3,36
Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị
Qua bảng số liệu trên, ta có thể rút ra nhận xét. Trong 4 năm từ năm 2001
đến năm 2004, hầu như có sự gia tăng đồng thời của các nguồn vốn đầu tư vào
cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, nhưng đến giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2007
lại có sự biến động khác nhau giữa các nguồn vốn (có nguồn vốn tiếp tục tăng
song có nguồn vốn lại giảm đi, cụ thể như sau:
Trong 4 năm 2001- 2004, quy mô của 4 nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ
tầng cấp nước đô thị đều tăng, vốn ngân sách nhà nước tăng từ 423 tỷ đồng vào
năm 2001 và tăng lên đến 658 tỷ đông vào năm 2004 tương ứng với tốc độ tăng
là 55,56%, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có quy mô vốn 23 tỷ
đồng ở năm 2001, đến năm 2004 thì quy mô nguồn vốn này là 878 tỷ đồng, tức
là tăng 3717,39% so với năm 2001…
Đến năm 2005, riêng chỉ có quy mô nguồn vốn Ngân sách nhà nước là
giảm so với năm 2004, nguồn vốn này giảm từ 658 tỷ đồng vào năm 2004
xuống chỉ còn 600 tỷ đồng vào năm 2005, tương ứng với giảm 8,18% . Còn các
nguồn vốn khác vẫn tiếp tục tăng, nên tổng nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng
cấp nước đô thị vẫn tiếp tục tăng. Tiếp đến năm 2006, ta thấy quy mô và tốc độ
tăng của nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị lại giảm xuống chỉ
còn 3900 tỷ đồng, tức là giảm 600 tỷ đồng so với năm 2005, tương ứng với tốc
độ giảm là 13,33%. Sở dĩ trong năm 2006 quy mô và tốc độ tăng vốn có xu
hướng chậm lại là do chủ trương đa dạng hóa các nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng
cấp nước đô thị, nên khi mà cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã đạt đến một trình
độ nhất định thì vấn đề đặt ra là cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn, vì hiện nay
cở sở hạ tầng cấp nước nông thôn còn lạc hậu và thiếu thốn nhiều mà đến năm
cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã thu hút được nguồn vốn từ các doanh nghiệp,
tư nhân… vì vậy sau năm 2005, sau khi ra một loạt các nghị định, văn bản mới
thì nguồn vốn Ngân sách nhà nước và vốn ODA có chuyển dịch sang cơ sở hạ
tầng cấp nước nông thôn. Nhưng hai nguồn vốn này lại chiếm tỷ trọng nguồn
vốn rất cao, nó cao hơn nhiều so với nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển và
nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân. Do đó khi hai nguồn vốn này chuyển
sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn thì sự giảm đi về tổng nguồn vốn cho cơ
sở hạ tầng cấp nước đô thị là điều dễ hiều.
` Nhưng đến năm 2007, do chính sách huy động của Nhà nước trong việc
thu hút của Nhà nước đã phát huy hiệu quả, nên nguồn vốn tín dụng đầu tư phát
triển tăng với quy mô và tốc độ rất cao, do đó nó đóng góp lớn vào việc tăng
quy mô tổng nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị.
Trong giai đoạn 2001- 2007 nhìn chung quy mô các nguồn vốn đầu tư
vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đều tăng, nhưng nguồn vốn tín dụng đầu tư
phát triển là có tốc độ tăng cao nhất. So với năm 2001, năm 2002 tốc độ tăng là
278,26%, năm 2007 tốc độ tăng là 7986,95%. Tiếp đến là đến tốc độ tăng của
vốn đầu tư tư nhân. So với năm 2001, thì đến năm 2002 tốc độ tăng là 206,98%,
đến năm 2005 tốc độ tăng còn đạt đến 1411,63%. Sau đó là đến tốc độ tăng của
vốn Ngân sách nhà nước và vốn ODA. Điều này cũng đi đúng chủ trương, chính
sách của Nhà nước trong việc đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ
tầng cấp nước đô thị .
2.1.2. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước
đô thị
Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nói chung cũng như đầu tư vào cơ sở
hạ tầng cấp nước đô thị nói thường được thực hiện qua các dự án. Thời gian vừa
qua, các dự án cấp nước đô thị được phản ánh ở bảng sau:
Bảng 2.3 : Quy mô và cơ cấu dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị giai đoạn 2001- 2007
Tổng Dự án nhóm A Dự án nhóm B Dự án nhóm C
Số
lượng
Tỷ
trọng
(%)
Số
lượng
Tỷ
trọng
(%)
Số
lượng
Tỷ trọng
(%)
Số
lượng
Tỷ
trọng
(%)
Tổng dự án 703 100 85 100 190 100 431 100
Các dự án khởi công
mới
290 41,25 39 45,89 75 39,47 179 41,53
Các dự án hoàn thành 245 34,85 27 31,76 66 34,74 152 35,27
Các dự án chuyển tiếp 168 23,90 19 22,53 49 25,79 100 23,20
Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị
Qua bảng số liệu trên, ta thấy các dự án nhóm C là chiếm số lượng dự án
lớn nhất, với số lượng là 431 dự án và chiếm 61,3% tổng số dự án, dẫn đầu về
cả các dự án khởi công mới, các dự án hoàn thành cũng như các dự án chuyển
tiếp. Dự án nhóm A có số lượng các dự án nhỏ hơn, chỉ có 85 dự án, chiếm tỷ
trọng 12,09% tổng số dự án. Tổng số dự án nhóm B có số lượng 190 dự án,
tương ứng với tỷ trọng 26,61% trong số tổng số dự án. Như vậy so với số dự án
nhóm C và dự án nhóm A thì dự án nhóm C đứng vị trí thứ 2 về số lượng. Điều
này cũng dễ hiểu vì đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo các dự án
nhóm C thì số vốn đầu tư là nhỏ hơn, thường là dưới 20 tỷ đồng, mà thời gian
triển khai là ngắn hơn, đó cũng là lý do tại sao mà con số dự án nhóm C đầu tư
cho cơ sở hạ tầng cấp nước là nhiều hơn cả. Trong khi đó, dự án nhóm A với số
vốn cần đầu tư là lớn hơn 200 tỷ đồng nên việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị theo các dự nhóm nhóm A thường ít hơn. Với dự án nhóm B, thì số
vốn đầu tư vào là từ 20 tỷ đồng đến 200 tỷ đồng, do vậy mà việc đầu tư cho các
dự án này chiếm vị trí thứ 2 trong số 3 loại dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị
Nhìn vào bảng ta cũng nhận thấy, số các dự án khởi công mới ở cả các
dự án nhóm A, B, C đều chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giai đoạn 2001-2007.
Năm 2007, chiếm tỷ trọng là 41,25% , tiếp theo là số các dự án hoàn thành
chiếm tỷ trọng 34,85%, đứng ở vị trí thứ hai. Số dự án chuyển tiếp sang kỳ sau
chiếm tỷ trọng nhỏ nhất khoảng 23,90% tổng số dự án. Số các dự án chuyển
tiếp này là các dự án mới triển khai trong giai đoạn nhưng chưa kịp hoàn thành
trong cùng kỳ nên phải chuyển sang giai đoạn sau
Qua phân tích ở trên đã phần nào sơ lược thực trạng vốn đầu tư và các dự
án đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị hiện nay, qua đó cũng cho thấy
phần nào sự đóng góp của vốn đầu tư tư nhân vào tổng số vốn đầu tư chung,
vậy cụ thể thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như thế
nào?
2.2. Thực trạng đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị.
2.2.1. Thực trạng quy mô và tốc độ tăng của vốn đầu tư tư nhân trong đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
Dựa vào bảng 2 ta thấy nguồn vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị nhìn chung là tăng dần lên qua các năm, năm 2001 nguồn vốn đầu
tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn rất thấp, mới chỉ đầu tư 86 tỷ
đồng, năm 2002 tăng lên 264 tỷ đồng tức là tăng 178 tỷ đồng, tương ứng với tốc
độ tăng 206,98% so với năm 2001, và số vốn này liên tục tăng vào các năm
2003, năm 2004. Đến năm 2005, số vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị đạt mức 1300 tỷ đồng, tức là gấp gần 15 lần so với năm 2001, và
tăng 786 tỷ đồng so với năm 2004, tương ứng với mức tăng 152,925%, sở dĩ có
sự tăng nhanh vậy là do trong năm này chính sách xã hội hóa đầu tư được triển
khai khá tốt, mở rộng về quy mô các kênh như phát hành trái phiếu, việc phát
triển nhanh chóng của thị trường chứng khóan vì vậy đã thu hút được một
nguồn lực đáng kể cho đầu tư, đã có một số dự án lớn đã được triển khai như dự
án cấp nước của nhà máy nước Bình An, nhà máy nước Thủ Đức…
Tuy nhiên, đến năm 2006, nguồn vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng
cấp nước đô thị lại giảm, so với năm 2005 số vốn đầu tư tư nhân giảm xuống
chỉ còn 714 tỷ đồng, tức là giảm 45, 08 % so với năm 2005. Và đến năm 2007
nguồn vốn này lại giảm so với năm 2006 là 3,36%. Nguyên nhân có sự giảm
xuống của nguồn vốn này là do việc đa dạng hóa các nguồn vốn cho đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị mới bắt đầu thực hiện, do đó có một số hạn
chế trong việc thực thi, và đó cũng là nguyên nhân có sự giảm đi của nguồn vốn
này. Tuy trong 2006 và năm 2007, nguồn vốn này có xu hướng giảm đi, nhưng
cũng không thể khẳng định là xu hướng trong thời gian tới nguồn vốn này lại
tiếp tục giảm xuống tiếp vì với những chính sách mà Chính phủ đưa ra như việc
chuyển bớt đầu tư bằng vốn Ngân sách nhà nước cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn, đồng thời sự giảm đi của nguồn vốn
ODA, xu hướng nguồn vốn đầu tư tư nhân có thể sẽ tăng lên, có thể nó còn vượt
xa con số 1300 tỷ đồng của năm 2005.
Tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị như thế nào ta xem xét bảng sau:
2.2.2.Tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng cấp nước đô thị.
Như trên đã nói, nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị gồm có 4 loại vốn: vốn ngân sách Nhà nước, vốn ODA, vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước, và các nguồn vốn khác (doanh nghiệp, cổ phần…). Để
xét xem tỷ trọng các nguồn vốn đó như thế nào cũng như xem xét sự biến động
của các nguồn vốn đó ra sao, chúng ta xem xét qua bảng sau:
Bảng 2.4: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị giai đoạn 2001 – 2007
Đơn vị : %
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng số 100 100 100 100 100 100 100
Vốn Ngân sách Nhà nước 22,69 23,61 23,19 20,56 13,33 8,97 15
Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước 1,24 3,96 7,41 13,04 19,51 29,18 40,43
Vốn ODA 71,46 60,87 54,50 50,34 38,27 43,54 29.57
Các nguồn vốn khác ( DN, cổ phần) 4,61 12,01 14,90 16,06 28,89 18,31 15
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua các năm, chúng ta xem xét xu hướng biến động của các nguồn vốn
này dựa vào hình:
Hình 2.1 : Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị qua các năm từ 2001 – 2007:
Nguồn : Vụ kết cấu hạ tâng và đô thị. Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua bảng số liệu về cơ cấu nguồn vốn đầu tư qua các năm từ năm 2001
đến năm 2007, vốn đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 22893
tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ODA chiếm tỷ trọng cao nhất là 45,85 %, vốn
Ngân sách Nhà nước là 20.08%, vốn tín dụng đầu tư phát triển là 17,29%, vốn
đầu tư tư nhân là 16,68%. Cụ thể tỷ trọng số vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị là :
Trong 4 năm đầu từ năm 2001 đến năm 2004 hai nguồn vốn Ngân sách
Nhà nước và vốn ODA là hai nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn, còn hai nguồn vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh
nghiệp, tư nhân …chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nhưng đến mấy năm gần đây từ năm
2005 đến năm 2007, hai nguồn vốn này giảm dần, ngược lại hai nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư
nhân… có xu hướng tăng dần. Như vậy có thể thấy được sự chuyển biến về cơ
cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Cụ thể sự chuyển
biến thế nào, ta xem xét qua phân tích cụ thể sau:
Qua bảng và qua biểu đồ trên ta quan sát thấy tỷ trọng của vốn ODA ngày
càng giảm dần, năm 2001 nguồn vốn này chiếm 71,46% về tỷ trọng nhưng đến
năm 2007 nó giảm rất nhanh xuống còn 29,57%. Nguồn vốn ngân sách cũng
giảm nhanh, từ 22,69% vào năm 2001, giảm xuống còn 15% vào năm 2007.
Nhưng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước và các nguồn vốn của
các doanh nghiệp tư nhân thì lại khác. Năm 2001, tổng hai nguồn vốn nguồn
vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư
nhân là 109 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 5,68%, tỷ trọng này rất nhỏ. Nhưng đến năm