Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

nghiên cứu giá trị của CEA, CYFRA21-1 trong chẩn đoán ung thư phổi tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.15 KB, 4 trang )

nghiên cứu khoa học

NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CỦA CEA, CYFRA21-1
TRONG CHẨN ĐOÁN UNG THƯ PHỔI TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Phạm Kim Liên*, Nguyễn Thu Hiền**
*

Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên; **Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên

TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định giá trị chẩn đoán ung thư phổi của dấu ấn ung thư CEA và
CYFRA 21-1.
Đối tượng nghiên cứu: 80 bệnh nhân chia làm 2 nhóm, nhóm bệnh có 50 bệnh nhân được
chẩn đoán xác định ung thư phổi dựa vào xét nghiệm giải phẫu bệnh, nhóm chứng 30 bệnh nhân
mắc bệnh phổi lành tính. Thời gian nghiên cứu từ 10/2014 đến 6/2015 tại Bệnh viện đa khoa Trung
ương Thái Nguyên. Cả 2 nhóm được định lượng CEA, CYFRA21-1 huyết thanh bằng phương pháp
miễn dịch hóa phát quang tại khoa Sinh hóa - Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
Kết quả và kết luận: Tuổi trung bình của bệnh nhân nhóm bệnh là 63,4 ± 11,7. Tỷ lệ nam/nữ:
4,5/1. Giải phẫu bệnh: ung thư biểu mô tuyến chiếm tỷ lệ cao nhất (48%). Nồng độ dấu ấn ung thư
tăng rất cao ở nhóm ung thư so với nhóm chứng (p<0,05). Điểm cắt của dấu ấn ung thư CEA là
6,6ng/ml với độ nhạy là 72% và độ đặc hiệu là 94,7%; điểm cắt của CYFRA 21-1 là 6,4ng/ml với độ
nhạy 74%, độ đặc hiệu 97,4%. Khi kết hợp 2 dấu ấn này sẽ có hiệu quả cao trong chẩn đoán ung thư
phổi chủ yếu là ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Từ khóa: Ung thư phổi, CEA, CYFRA21-1, dấu ấn ung thư.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi (UTP) là bệnh ác tính thường
gặp, tỷ lệ tử vong cao. Đa số bệnh nhân UTP 5070% được phát hiện bệnh ở giai đoạn bệnh đã
tiến triển, không còn khả năng phẫu thuật và có
tiên lượng nặng [3]. Chẩn đoán sớm UTP rất quan


trọng trong điều trị, tiên lượng bệnh.
UTP chia làm 2 nhóm chính dựa theo kiểu tế
bào là: ung thư phổi tế bào nhỏ (UTPTBN, small cell
lung cancer SCLC) và ung thư phổi không tế bào
nhỏ (UTPKTBN, non-SCLC: NSCLC). UTPTBN
chiếm khoảng 10- 15% ung thư phổi và sự khác biệt
về sinh học với UTPKTBN bởi sự hiện diện của nội
tiết tố thần kinh và tốc độ phát triển nhanh của khối u.
Ngày nay cùng với sự phát triển của sinh
học phân tử, các phương pháp phát hiện ra các
chất được phóng thích bởi tế bào ung thư vào hệ

tuần hoàn gọi là dấu ấn ung thư được phát triển
liên tục. Việc xét nghiệm dấu ấn ung thư đơn giản
không ảnh hưởng tới sức khoẻ bệnh nhân. Có
nhiều dấu ấn ung thư có giá trị trong UTP như:
CEA, CYFRA21-1, NSE, CA125... trong đó CEA,
CYFRA21-1 là những dấu ấn ung thư tăng cao
trong UTP, có giá trị và hiệu quả cao trong chẩn
đoán, theo dõi điều trị và tiên lượng bệnh. Vì vậy
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định
giá trị của CEA, CYFRA21-1 trong chẩn đoán UTP.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
80 bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện đa khoa
Trung ương Thái Nguyên từ 10/2014 đến 6/2015.
Chia thành 2 nhóm:
- Nhóm bệnh: gồm 50 bệnh nhân được
Tạp chí


Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX Nội khoa Việt Nam

115


nghiên cứu khoa học

chẩn đoán xác định là UTP dựa vào xét nghiệm
tế bào học hoặc mô bệnh học bằng các phương
pháp lấy bệnh phẩm: sinh thiết xuyên thành
ngực dưới hướng dẫn của C.T scanner, sinh
thiết khối u sau phẫu thuật, chải rửa phế quản
qua nội soi phế quản.

III. KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm tuổi, giới của nhóm bệnh
Đặc điểm
< 50
50 - 59
Tuổi
60 - 69
> 70
Trung bình
Nam
Giới
Nữ

Nhóm chứng: 30 bệnh nhân được chẩn
đoán mắc các bệnh phổi lành tính (hen phế quản,
C.O.P.D, giãn phế quản, viêm phổi).

Tất cả các bệnh nhân được lấy máu làm
xét nghiệm CEA, CYFRA21-1 để so sánh giữa 2
nhóm, tính độ nhạy, độ đặc hiệu của các dấu ấn
ung thư trong chẩn đoán UTP.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Xét nghiệm định lượng CEA, CYFRA21-1
theo nguyên lý miễn dịch hoá phát quang kiểu
bánh kẹp “Sandwich” trên hệ thống máy miễn
dịch tự động ARCHITECT i System( Abbott-Hoa
Kỳ) tại khoa Sinh hoá - Bệnh viện đa khoa TƯ
Thái Nguyên.
Các biến số khảo sát chính bao gồm đặc
điểm nhân trắc bệnh nhân (tuổi, giới), kết quả giải
phẫu bệnh khối u, kết quả sinh hoá của các dấu
ấn ung thư CEA, CYFRA21-1. Phân tích diện dưới
đường cong ROC giúp xác định điểm cắt hợp lý
với độ nhạy, độ đặc hiệu tương ứng, giá trị tiên
đoán dương, giá trị tiên đoán âm.
Xử lý số liệu: theo phương pháp thống kê y
học, sử dụng phần mềm SPSS 21.0.

n
%
3
6,0
13
26,0
20
40,0

14
28,0
63,4 ± 11,7
41
82,0
9
18,0

Nhận xét: Tổng số bệnh nhân nghiên cứu
trong nhóm bệnh là 50 trong đó đa số là bệnh
nhân nam giới. Tỷ lệ nam/nữ là 4.5/1. Tuổi trung
bình là 63,4 ± 11,7 tuổi, hầu hết các bệnh nhân có
độ tuổi từ 50 trở lên chiếm 94%. Nhóm tuổi có tỷ lệ
mắc bệnh cao nhất là 60-69 tuổi (40%)
Bảng 2. Đặc điểm mô bệnh học của bệnh
nhân nghiên cứu
Typ mô bệnh học UTP
Ung thư biểu mô tuyến
Ung thư biểu mô vẩy
Ung thư biểu mô tế bào lớn
Ung thư biểu mô hỗn hợp
Ung thư tế bào nhỏ
Tổng

n
24
20
1
5
0

50

%
48,0
40,0
2,0
10,0
0,0
100,0

Nhận xét: Ung thư biểu mô dạng tuyến cao nhất
(48%), ung thư biểu mô dạng vẩy 40%, ít gặp hơn là
ung thư biểu mô tế bào lớn và ung thư biểu mô hỗn
hợp. Không có trường hợp nào là ung thư tế bào nhỏ.

Bảng 3. So sánh nồng độ CEA, CYFRA 21-1 nhóm bệnh và nhóm chứng
Nhóm

Dấu ấn

UTPQ (n=50)

Nhóm chứng (n=30)

± SD

p

± SD


CEA

83,1 ± 23,4

5,2 ± 2,0

< 0,05

CYFRA 21 - 1

25,1 ± 3,9

3,0 ± 0,4

< 0,05

Nhận xét: Giá trị nồng độ CEA, CYFRA21-1 có sự khác biệt rõ rệt giữa 2 nhóm, nồng độ dấu ấn ung
thư ở nhóm bệnh tăng rất cao so với nhóm chứng.
Bảng 4: Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm của CEA, CYFRA21-1 trong UTP
Dấu ấn
ung thư

Điểm cắt
(ng/ml)

Diện tích dưới
ROC(95% CI)

p


Se (%)

Sp (%)

GTTĐ
(+)

GTTĐ (-)

CEA

6,6

0,82 (0,72 – 0,92)

< 0,05

72,0

93,3

94,7

66,7

CYFRA 21 - 1

6,4

0,9 (0,83 – 0,97)


< 0,05

74,0

96,7

97,4

69,0

116

Tạp chí

Nội khoa Việt Nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX


nghiên cứu khoa học

IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy UTP gặp phần
lớn ở nam giới (chiếm 82%), độ tuổi mắc bệnh
gặp nhiều nhất từ 60-69 tuổi, tuổi trung bình là
63 ± 11,7. Theo nghiên cứu của Cedres S(2011)
cũng có tỷ lệ nam giới là 84,4% và độ tuổi trung
bình là 63 [5]. Nguyễn Hải Anh (2007) [1] tỷ lệ nam
giới chiếm 84%, tuổi trung bình mắc bệnh 57,24
± 10,97. Dịch tễ học UTP cũng đã chứng minh
bệnh gặp nhiều ở nam giới tuổi trên 40 và có phơi

nhiễm kéo dài với khói thuốc lá [4].
Ung thư biểu mô tuyến chiếm tỷ lệ cao nhất
(48%) tiếp đến là ung thư biểu mô vẩy (40%), các
týp mô bệnh khác ít gặp hơn. Kết quả của chúng
tôi phù hợp với các nghiên cứu trên thế giới và
trong nước như Cedres S(2011) [5] ung thư biểu
mô tuyến chiếm 38,6%, ung thư biểu mô vẩy
chiếm 22,4%. Chu Thị Hạnh (2014) [2] nghiên cứu
thấy UTBM tuyến cũng chiếm tỷ lệ cao nhất (81%),
thứ hai là UTBM vẩy (15%), còn lại là các type
khác. Trong nghiên cứu này chúng tôi không gặp
trường nào là ung thư tế bào nhỏ vì tỷ lệ này chỉ
chiếm 10-15% trong UTP nói chung.
Giá trị trung bình nồng độ 2 dấu ấn ung thư
ở nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng rõ rệt cũng
giống như các nghiên cứu của các tác giả khác.
Nguyễn Hải Anh (2007) [1] CEA là 30,43 ± 36,6 và
CYFRA 21-1 là 20,58 ± 36,40 so với 1,37 ± 1,23 và
3,32 ± 1,73. Okamura K (2013) [7] là 104 ± 883,9
và 7,9 ± 34,6 so với 3,0 ± 3,4 và 2,1 ± 1,9.

Hình 1: Biểu đồ đường cong ROC và diện
tích dưới đường cong (AUC) của các marker
CYFRA21-1, CEA
Nhận xét: Điểm cắt của CEA là 6,6ng/ml của
CYFRA21-1 là 6,4ng/ml. Sử dụng cách tính diện tích
dưới đường cong để xác định độ chính xác chẩn
đoán của các marker đã cho thấy diện tích dưới
đường cong ROC (AUC) là 0,90 (0,83–0,97) đối với
CYFRA21-1, với CEA là 0,82 (0,72–0,92). Trong 2

dấu ấn ung thư CYFRA21-1 có độ nhạy (74,0%) và
độ đặc hiệu (96,7%) cao hơn CEA (72,0% và 93,3%).

Điểm cắt hay giá trị ngưỡng của các nghiên
cứu trong và ngoài nước đều thấp hơn nghiên cứu
của chúng tôi, Nguyễn Hải Anh (2007) [1] CEA là
5ng/ml, CYFRA là 3,5ng/ml. Okamura K(2013) [7]
là 3,5 và 3,2. Molina R(2005) [6] là 5 và 3,3. Độ đặc
hiệu của CYFRA21-1 trong nghiên cứu của chúng
tôi lên tới 96,7% cao hơn so với Nguyễn Hải Anh
67%, Okamura K 89%. Sở dĩ có sự khác biệt như
vậy vì cỡ mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi còn
nhỏ so với các nghiên cứu trên và để có độ đặc
hiệu cao thì giá trị ngưỡng phải lớn. Trong 2 dấu
ấn ung thư này thì CYFRA21-1 độ đặc hiệu cao
hơn CEA, tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
rằng khi kết hợp 2 marker này đồng thời sẽ có giá
trị hơn trong chẩn đoán UTP [1] ,[6], [7].
Diện tích dưới đường cong ROC càng lớn thể
Tạp chí

Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX Nội khoa Việt Nam

117


nghiên cứu khoa học

hiện độ tách biệt càng cao. Nghiên cứu của chúng
tôi diện tích dưới đường cong ROC của CEA là

0,82(0,72-0,92) thấp hơn Lê Ngọc Hùng (2013)
[3] là 0,88 và Nguyễn Hải Anh (2007) [1] là 0,86.
Đối với CYFRA21-1 là 0,9 (0,83-0,97) cao hơn
nghiên cứu của Lê Ngọc Hùng (2013) [3] là 0,81
và Nguyễn Hải Anh(2007) [1] là 0,79.

cao rõ rệt trong nhóm bệnh so với nhóm chứng.

V. KẾT LUẬN

trong theo dõi đáp ứng điều trị và tiên lượng ở

Dấu ấn ung thư CEA, CYFRA21-1 tăng

CYFRA21-1 là một chỉ thị khối u có độ nhạy và độ
đặc hiệu cao nếu kết hợp với CEA sẽ có giá trị hơn
trong chẩn đoán UTP chủ yếu là UTP không tế
bào nhỏ (NSCLC). Cần tiến hành nghiên cứu với
số lượng bệnh nhân lớn hơn, thời gian theo dõi
dài hơn để xác định giá trị của CEA, CYFRA21-1
bệnh nhân UTP.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hải Anh (2007), Nghiên cứu giá
trị của CYFRA21-1 và CEA trong chẩn đoán và
theo dõi ung thư phế quản nguyên phát, Luận án
tiến sỹ y học. Trường Đại học Y Hà Nội.
2. Chu Thị Hạnh, Nguyễn Khánh Chi (2013),
“Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và
phân loại giai đoạn TNM của ung thư phổi không

tế bào nhỏ tại trung tâm hô hấp - Bệnh viện Bạch
Mai”, Tạp chí Y học lâm sàng, (77), tr. 58-64.
3. Lê Ngọc Hùng, Trần Minh Thông (2013)
“Carcinoembryonic antigen (cea), cyfra 21-1, và
neuron-specific enolase (nse) trong ung thu phổi
không tế bào nhỏ”, Tạp chí y học thành phố Hồ
Chí Minh, (17), tr. 116 - 121.
4. Nguyễn Thị Kim Oanh, Nguyễn Hồng Sơn
(2014), “Nghiên cứu giá trị chẩn đoán của một số dấu

ấn khối u ở bệnh nhân ung thu phổi không tế bào
nhỏ”, Tạp chí y dược học quân sự, (9), tr. 133-138.
5. Cedres S, Nunez I, Longo M, et al (2011),
“Serum tumor markers CEA, CYFRA21-1, and
CA-125 are associated with worse prognosis in
advanced non-small-cell lung cancer (NSCLC)”,
Clin Lung Cancer, vol 12 (3), pp. 172-179.
6. Molina R, Auge J M, Filella X (2005) “Progastrin-releasing peptide (proGRP) in patients with
benign and malignant diseases: comparison with CEA,
SCC, CYFRA 21-1 and NSE in patients with lung
cancer”. Anticancer Res, vol 25 (3A), pp. 1773-1778.
7. Okamura K, Takayama K, Izumi M, et al
(2013) “Diagnostic value of CEA and CYFRA
21-1 tumor markers in primary lung cancer”, Lung
Cancer, vol 80 (1), pp. 45-9.

ABSTRACT
STUDY THE VALUE OF TUMOR MARKERS CEA, CYFRA21-1 IN THE LUNG CANCER
DIAGNOSTIC AT THAI NGUYEN GENERAL CENTRAL HOSPITAL
Objectives: determine the value of lung cancer diagnostic by tumor markers CEA and CYFRA 21-1.

Studied subjects: 80 patients divided into 2 groups, case groups including 50 patients diagnosed
lung cancer based on pathology tests and control group including 30 patients with benign pulmonary
diseases. The research was carried out at Thai Nguyen central general hospital from October 2014 to June
2015. Both the 2 groups were quantified CEA and CYFRA21-1 serum level by CHIA (Chemiluminescence
Immuno Assay) at the Biochemistry department in Thai Nguyen central general hospital.
Method: cross-sectional descriptive. Results and conclusions: The mean age of patients was
63,4 ± 11,7. Sex ratio (Males / females): 4.5 / 1. Pathology: adenocarcinoma accounted for the
highest proportion (48%). Tumor markers’ concentration increased very high in cancer group (case
group) compared with the control group (p <0.05). The cut-off points of the CEA was 6,6ng/ml, the
sensitivity 72% and the specificity was 94,7%; the cut-off points of the CYFRA21-1 was 6,4ng/ml, the
sensitivity 74% and the specificity was 97,4%.When two markers combined will be highly effective in
the diagnosis of lung cancer, mostly for Non Small Cell Lung Cancer (NSCLC).
Keywords: Lung cancer, CEA, CYFRA21-1, tumor marker.

118

Tạp chí

Nội khoa Việt Nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX



×