Tải bản đầy đủ (.docx) (128 trang)

GIÁO dục QUYỀN CON NGƯỜI CHO SINH VIÊN các TRƯỜNG đại học TRÊN địa bàn TỈNH QUẢNG NGÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.99 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ XUÂN THÁI

GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI CHO
SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ XUÂN THÁI



GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI CHO
SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
MÃ SỐ: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính Quốc gia.

Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính
Quốc gia xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thừa Thiên Huế, ngày

tháng năm 2018


Học viên

Lê Xuân Thái


MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục Lục
Danh mục viết tắt
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIÁO DỤC QUYỀN
CON NGƯỜI CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC................................................................ 9
1.1. Nhận thức về giáo dục quyền con người cho sinh viên................9
1.2. Các yếu tố cấu thành giáo dục quyền con người cho sinh viên các trường

đại học....................................................................................................................................... 22
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục quyền con người cho sinh viên các

trường đại học..................................................................................................................... 29
1.4. Các yếu tố bảo đảm giáo dục quyền con người cho sinh viên các trường

đại học....................................................................................................................................... 39
Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI CHO
SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
NGÃI............................................................................................................................................ 49
2.1. Khái quát chung về các trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và


đặc thù sinh viên các trường đại học của tỉnh............................................. 49
2.2. Giáo dục quyền con người cho sinh viên các trường đại học trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua................................................................... 56
2.3. Đánh giá chung về giáo dục quyền con người trong các trường đại học

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi..................................................................................... 70
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIÁO DỤC
QUYỀN CON NGƯỜI CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI...................................................................... 77
3.1. Phương hướng bảo đảm giáo dục quyền con người cho sinh viên các

trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi............................................... 77
3.2. Giải pháp bảo đảm giáo dục quyền con người cho sinh viên các trường

đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.................................................................. 86
KẾT LUẬN............................................................................................................................. 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Nghĩa đầy đủ

Chữ viết tắt

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ECOSOC


Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hiệp quốc

GDNQ

Giáo dục nhân quyền

GDQCN

Giáo dục quyền con người

GDQD

Giáo dục quốc dân

ICCPR

Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị

ICESCR

Công ước Quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa

ILO

Tổ chức Lao động quốc tế

KT-XH

Kinh tế - xã hội


LHQ

Liên Hiệp quốc

NCKH

Nghiên cứu khoa học

NNPQ XHCN

Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa

PBGDPL

Phổ biến giáo dục pháp luật

QCN

Quyền con người

TCN

Trước Công nguyên

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

TKGDQCN


Thập kỷ giáo dục quyền con người

UBND

Ủy ban nhân dân

UDHR

Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Số lượng sinh viên đại học chính quy của các trường đại học ở tỉnh

Quảng Ngãi ..................................................................................................
Bảng 2.2. Tỷ lệ nam/nữ sinh viên đại học chính quy của các trường đại học ở

tỉnh Quảng Ngãi ...........................................................................................
Bảng 2.3. Thành phần và tỷ lệ phạm tội ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2014 2017 ............................................................................................................. 54 Bảng
2.4. Số lượng các vụ vi phạm pháp luật của sinh viên các trường đại học


ở tỉnh Quảng Ngãi ........................................................................................
Bảng 2.5. Số lượng đội ngũ giảng viên luật và lý luận chính trị của các trường

đại học ở tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2015 đến năm 2017 ................................
Bảng 2.6. Thống kê trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên luật và lý

luận chính trị các trường đại học ở tỉnh Quảng Ngãi năm 2017 ....................
Bảng 2.7. Tương quan giữa số lượng đội ngũ giảng viên luật - lý luận chính

trị với số lượng sinh viên đại học hệ chính quy ............................................
Bảng 2.8. Thống kê các học phần có nội dung giảng dạy về quyền con người

đối với sinh viên ngành luật kinh tế ..............................................................
Bảng 2.9. Thống kê các học phần liên quan đến quyền con người trong
chương trình đào tạo chính khóa của các trường đại học ở Quảng Ngãi không

chuyên luật ...................................................................................................


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là một giá trị cơ bản và quan trọng của nhân loại.
Đó là thành quả của sự phát triển lịch sử và là đặc trưng của xã hội văn
minh. Quyền con người cũng là một quy phạm pháp luật, vì thế đòi hỏi của
tuân thủ pháp luật, đó là mọi thành viên của xã hội, không loại trừ bất cứ
ai, đều có nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền và tự do của mọi người và
được bảo đảm, bảo vệ khi thực hiện các quyền con người.

Quyền con người được chính thức pháp điển hóa trong luật

quốc tế, từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã trở thành một hệ
thống, các tiêu chuẩn pháp luật chung của các quốc gia trong việc
thực hiện các quyền con người trên thực tế.


Việt Nam, kể từ khi giành độc lập năm 1945, thông qua bản Tuyên

ngôn độc lập của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, ngày 02/09/1945 là
một văn kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người.
Trên cơ sở đó, quyền con người đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp
năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992
được sửa đổi, bổ sung và Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ
6, Quốc hội khóa XIII. Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã đưa chương quyền
con người lên một vị trí quan trọng (chương 2, từ điều 14 đến điều 49) với
36/120 điều có nhấn mạnh và khẳng định quyền con người.
Để thực hiện đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục
quốc dân. Nhà nước đã có nhiều chương trình, kế hoạch, đề án...nhất là trong
việc nâng cao nhận thức quyền của người dân. Ngày 05/09/2017 Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt đề án đưa nội dung quyền con người vào chương
trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân (Quyết định số 1309/QĐ-TTg)
như: “Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người nhằm tạo sự chuyển
biến trong nhận thức của người học, của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục về tầm quan trọng, ý thức tự bảo vệ các quyền của bản thân, tôn
trọng nhân phẩm, các quyền và tự do của người khác, ý thức về trách

1


nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước và xã hội, góp
phần phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu

hội nhập và phát triển bền vững của đất nước”[34].
Quyền con người là những quyền mặc định, đã là con người thì ai cũng
như ai, nhưng hiểu biết về quyền con người thì không phải ai cũng giống nhau. Vì
thế giáo dục quyền con người nói chung, cho một đối tượng cụ thể là sinh viên,
những chủ nhân tương lai của đất nước lại càng đặc biệt quan trọng.

Trên thực tế hiện nay, quyền con người đã được giảng dạy thông
qua trong nhiều môn học (học phần) ở nhiều cấp học tại Việt Nam. Tuy vậy,
việc GDQCN cho sinh viên các trường đại học, các cơ sở đào tạo…ở nước
ta nói chung, các trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng,
vẫn còn nhiều hạn chế, thậm chí mang tính hình thức, việc truyền tải nội
dung về quyền con người của nhiều cơ sở giáo dục đại học, thực sự cũng
chưa cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết, để người học có thể tự
đề kháng với những thông tin chưa chuẩn xác, ngày càng phổ biến trên
các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt khác, việc GDQCN cho sinh viên
ở Quảng Ngãi cũng là yêu cầu cấp thiết trong việc nâng cao chất lượng
dạy và học, chú trọng rèn luyện đạo đức, giáo dục pháp luật để góp phần
tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển KT-XH,
đóng góp vào sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH của đất nước.

Với lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Giáo dục quyền
con người cho sinh viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Luật Hiến pháp - Luật Hành chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận văn
Liên quan tới đề tài nghiên cứu của luận văn đã có nhiều công
trình khoa học được công bố cả trên phương diện quốc tế và trong
nước, có thể kể tới những công trình khoa học đặc sắc sau:
Hội đồng Anh (2000), “Giảng dạy nhân quyền”, công trình này đề cập
đến một số nội dung lồng ghép GDNQ với giáo dục pháp luật cho các đối


2


tượng khác nhau trong xã hội.
Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc (2003), “Sử dụng ABC: giảng dạy về
quyền con người, các hoạt động thực tiễn cho các trường phổ thông (cấp I và
cấp II)”, tài liệu này đã đề cập đến các nội dung giáo dục những kiến thức cơ
bản, sơ khai về nhân quyền cho học sinh cấp tiểu học và những hiểu biết ở
mức bảo vệ nhân quyền cho học sinh cấp trung học cơ sở.

TS. Nguyễn Thị Phượng (2009), “Bảo đảm thực hiện quyền công
dân của chính quyền địa phương”, Nxb Chính trị - Hành chính, 2009.
Đây là sách chuyên khảo với những nội dung liên quan đến giải quyết
các thủ tục hành chính liên quan đến quyền công dân ở Việt Nam trong
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
TS. Nguyễn Quốc Sửu (2011),“Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán
bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác
giả đã phân tích tương đối toàn diện, có hệ thống về giáo dục pháp luật
cho cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng NNPQ
XHCN Việt Nam trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
GS.TS Võ Khánh Vinh (2011), “Giáo dục quyền con người - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền kinh tế, văn hóa và xã hội”,
Nxb Khoa học Xã hội và Giáo trình “Quyền con người”, Nxb Khoa học Xã
hội, 2015. Đây là những công trình có giá trị cả về lý luận và thực tiễn đề
cập đến những vấn đề chung nhất của GDQCN ở Việt Nam hiện nay.

Trần Ngọc Đường (2011), “Quyền con người, quyền công dân
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội. Công trình khoa học này đã trình bày hệ thống quan
niệm về quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam thông qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992.
GS.TS Nguyễn Đăng Dung, PGS.TS Vũ Công Giao, ThS Lã Khánh
Tùng (đồng chủ biên - 2015), “Lý luận và pháp luật về quyền con người”,
Nxb Chính trị quốc gia. Đây là giáo trình chuyên khảo giảng dạy cho sinh

3


viên trong các trường đại học ở Việt Nam, giáo trình đã trình bày có
hệ thống các nội dung về lý luận và pháp luật về quyền con người.
TS. Nguyễn Văn Hiển (2014), “Quyền con người trong Hiến pháp
2013, quan điểm mới cách tiếp cận mới và các quy định mới”, Nxb Chính
trị Quốc gia; TS. Nguyễn Minh Tuấn (2015), “Giới hạn chính đáng đối với
các quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam” Nxb Hồng Đức; PGS.TS Trịnh Quốc Toản, PGS.TS Vũ Công Giao
(đồng chủ biên- 2017), “Thực hiện các quyền hiến định trong Hiến pháp
2013”, Nxb Lý luận chính trị; PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu (2013), “Bảo đảm
quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam”, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội; “Nghiên cứu giảng dạy về quyền con người” (số 3, 2009),
chuyên đề thông tin quyền con người; Ths. Nguyễn Văn Tuấn (2010), “Giáo
dục quyền con người - Lý luận, thực tiễn quốc tế và Việt Nam” (đề tài khoa
học cấp Đại học Quốc Gia Hà Nội)...Đây là những giáo trình chuyên khảo
và các đề tài khoa học đề cập đến quyền con người, GDQCN và các khía
cạnh khác của GDQCN cho các đối tượng trong xã hội.
Về các luận án, luận văn đã bảo vệ liên quan đến quyền con người và

GDQCN ở Việt Nam hiện nay gồm có:
Luận án tiến sĩ triết học “Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên các

trường đại học ở các tỉnh Trung Trung Bộ trong giai đoạn hiện nay” của Đỗ
Thành Đô (2016). Luận án đã đề cập đến những vấn đề lý luận, thực trạng
và giải pháp nâng cao chất lượng công tác giáo dục ý thức pháp luật cho
sinh viên các trường đại học ở các tỉnh Trung Trung Bộ nước ta.
Luận văn thạc sĩ luật học “Giáo dục quyền con người, quyền công dân
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay” của
Nguyễn Ngọc Hưng (2014); Luận văn thạc sĩ luật học “Giáo dục về quyền con
người ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” của Hoàng Ngọc Long (2016); Luận văn thạc sĩ
luật học “Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại học ở Việt Nam
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Thị Thu Thủy (2013); Luận
văn thạc sĩ luật học “Giáo dục về quyền con người, quyền công

4


dân ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp” của tác giả
Nguyễn Hữu Trí (2001); Luận văn thạc sĩ luật học “Quyền con người
và Giáo dục về quyền con người ở Việt Nam hiện nay” của Thế Ngọc
Mai (2014)...Đây là những công trình đã được bảo vệ đề cập đến
những nội dung cơ bản về quyền con người, quyền công dân và
GDQCN cho các đối tượng khác nhau trong xã hội nói chung,
GDQCN cho sinh viên trong các trường đại học ở Việt Nam nói riêng.
Tóm lại, những công trình trên đã đề cập tương đối đầy đủ về các đặc
điểm và những yếu tố tác động đến GDQCN cho sinh viên các trường đại học

ở tỉnh Quảng Ngãi; thực trạng và những nhóm giải pháp nhằm nâng cao
hoạt động GDQCN cho các đối tượng xã hội trên phạm vi cả nước nói
chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng đã ít nhiều được các tác giả đề cập
đến. Tất cả các công trình trên đây là nguồn tài liệu quan trọng giúp cho
chúng tôi tham khảo trong quá trình triển khai làm rõ những nhiệm vụ

chính của luận văn là: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung nhất về
GDQCN cho sinh viên trong các trường đại học ở Việt Nam nói chung, các
trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng; Phân tích, đánh giá
thực trạng các hoạt động GDQCN cho sinh viên trong các trường đại học
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thời gian qua; Đề xuất phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả, hoạt động GDQCN cho sinh viên các
trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu luận văn là đưa ra được một cái
nhìn có tính hệ thống, khoa học, sâu sắc, toàn diện về GDQCN và
định hướng cụ thể chương trình GDQCN, cho nhóm đối tượng là thế
hệ sinh viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Trên
cơ sở đó tìm ra và đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm
triển khai thực hiện hiệu quả hoạt động GDQCN cho sinh viên các
trường đại học - từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
5


3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

-

Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung nhất về GDQCN

cho sinh viên trong các trường đại học ở Việt Nam nói chung, các
trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng;
-


Phân tích, đánh giá thực trạng các hoạt động GDQCN cho sinh viên

trong các trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thời gian qua;

-

Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả, hoạt động GDQCN cho sinh viên các trường đại học trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được xác định là GDQCN nói chung
và GDQCN cho sinh viên đại học hệ chính quy trong các trường
đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu về
GDQCN cho sinh viên hệ đại học hệ chính quy của các trường đại
học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, bao gồm: Trường Đại học Tài
chính - Kế toán, Trường Đại học Phạm Văn Đồng, Phân hiệu Trường
Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh tại Quảng Ngãi.
Về thời gian nghiên cứu: luận văn thực hiện khảo sát thực tế và số liệu liên
quan ở 3 trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014 đến 2017.

Về không gian nghiên cứu: luận văn nghiên cứu việc hoạt
động GDQCN cho sinh viên đại học chính quy trong các trường
đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
5.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.


Phương pháp luận nghiên cứu

Luận văn sử dụng các quan điểm, phương pháp luận biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng

6


sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung và xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay nói riêng, để nghiên cứu vấn đề GDQCN và
GDQCN cho sinh viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Luận văn tiếp tục kế thừa những kết quả, quan điểm của các
công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài luận văn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra. Đề
tài luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến là:
-

Phương pháp lôgíc và lịch sử: phương pháp này được sử

dụng trong luận văn để nhằm phân tích, luận giải làm rõ khái
niệm, nội dung, cấu trúc, chức năng của quyền con người; vị trí,
nhiệm vụ của hoạt động GDQCN ở Việt Nam hiện nay.
-

Phương pháp so sánh, đối chiếu: được sử dụng nhằm chỉ ra những


nét đặc thù về đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức GDQCN cho
sinh viên trong các trường đại học nói chung, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
nói riêng, làm rõ những yếu tố tác động đến đối với hoạt động GDQCN cho
sinh viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
-

Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng nhằm phân tích,

đánh giá giúp cho luận văn làm rõ được các nội dung của đối tượng nghiên
cứu; phương pháp tổng hợp sẽ giúp khái quát lại được các vấn đề đã phân
tích trước đó, từ đó xây dựng các kết luận của quá trình nghiên cứu.

-

Phương pháp nghiên cứu khoa học khác: được sử dụng trong

quá trình điều tra, khảo sát thực trạng về hoạt động GDQCN trong các
trường đại học tại Quảng Ngãi và giúp cho đề tài làm rõ được thực
trạng và nguyên nhân của thực trạng GDQCN cho sinh viên thời gian
qua, đồng thời còn là cơ sở để đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động GDQCN cho sinh viên các trường đại
học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.

7


6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.

Ý nghĩa lý luận


Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm lý luận về nhà nước và pháp
luật của chủ nghĩa Mác - Lênin; chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam và chính sách pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, về
GDQCN nói chung và GDQCN cho sinh viên bậc đại học nói riêng, trước
yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.

6.2.

Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn khi được công bố sẽ là
nguồn tài liệu cho các cơ quan quản lý giáo dục, các trường đại
học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và đội ngũ giảng viên trong
nghiên cứu phục vụ công tác giảng dạy, quản lý và là tài liệu tham
khảo khi học tập về quyền con người và GDQCN trên địa bàn tỉnh.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục quyền con người cho
sinh viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: Thực trạng hoạt động giáo dục quyền con người cho
sinh viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thời gian qua

Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy nâng
cao hiệu quả các hoạt động giáo dục quyền con người cho sinh
viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

8



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI
CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC
1.1. Nhận thức về giáo dục quyền con người cho sinh viên
1.1.1. Quyền con người
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Thuật ngữ “quyền con người” được đề cập rất thông dụng trong thực
tiễn, nhưng nội hàm khái niệm “quyền con người” vẫn chưa có sự thống nhất.
Cho đến nay, qua các tài liệu đã công bố trong nước và ngoài nước, có thể
khẳng định rằng, chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh nào về quyền con người.
Theo định nghĩa trong “Đại từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học, quyền
con người chính là “nhân quyền”[47]. Ngay cả những nhà tư tưởng lớn như
John Locke (1632 - 1704), JeanJacques Rousseau (1712 - 1778)…và sau này
Karl Marx (1818 - 1883), Friedrich Engels (1820 - 1895) và V.I. Lênin (1870 1924), cũng không đưa ra một định nghĩa nào về khái niệm này, giống như
cách làm thông thường đối với các khái niệm triết học khác. Nhìn lại quá khứ
và hiện tại, quyền con người thường được nhìn nhận theo các khuynh hướng
khác nhau, trong đó chủ yếu theo bốn khuynh hướng là: tự nhiên, thực định,
kinh tế và quan niệm.

Vậy, định nghĩa về quyền con người thường được nhìn nhận
theo các khuynh hướng nào? Theo các tài liệu của Liên Hợp quốc
“từ trước đến nay có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã
được công bố, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất
định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa
nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người”[49].
Định nghĩa thứ nhất, coi quyền con người là quyền “tự nhiên”, “trời
phú” đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại. Ở Trung Quốc, Mặc Tử (479 - 381


9


tr.CN) đã cho rằng quyền bình đẳng tự nhiên của con người đó là “ý trời”.
Theo đó, mỗi người đều có quyền tham gia công việc nhà nước tuỳ theo đạo
đức và tài năng của họ, chứ không phải do dòng dõi quyết định. Cũng như
vậy, mỗi người đều có các quyền giống nhau và đều bị trừng phạt nếu phạm
tội. Ở Hy Lạp cổ đại, các nhà triết học cũng có những tư tưởng tương tự.

Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản
kháng. Nó là tư tưởng của các lực lượng tiến bộ chống lại trật tự
xã hội bất công, bất bình đẳng. Vì thế, không chỉ trong quá khứ
mà cả ngày nay thuyết này vẫn có ý nghĩa nhất định.
Thuyết quyền tự nhiên có điểm tích cực là đề cao con người
với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển tự
nhiên. Nhưng nhược điểm của nó là ở chỗ, nó che lấp nguồn gốc xã
hội của quyền con người và do đó, không thấy tính lịch sử, tính giai
cấp, sự phát triển trong những đòi hỏi về quyền con người.
Định nghĩa thứ hai, theo khuynh hướng “thực định” trái với khuynh
hướng quyền tự nhiên, khuynh hướng không để ý đến mặt pháp luật và
Nhà nước của quyền con người, khuynh hướng thực định lại coi quyền
con người là tất cả những gì mà Nhà nước thông qua pháp luật để quy
định cho cá nhân. Chỉ những gì pháp luật cho phép tự do làm hay không
làm thì mới là quyền con người, và chỉ được coi là quyền con người khi
một hành vi hay một yêu cầu của cá nhân là hợp pháp.
Khuynh hướng thực định có điểm hợp lý là đã gắn quyền con người
với pháp luật, với ý chí Nhà nước mà điều này thì không thể bỏ qua được,
vì quyền con người tất nhiên phải tồn tại dưới hình thức pháp luật.
Nhưng nó cũng có nhược điểm ở chỗ, chỉ coi ý chí Nhà nước là nguồn
gốc của quyền con người, coi trọng tính hợp pháp của quyền con người, song

lại không để ý đến tính hợp lý của nó, cái mà nhờ đó ngay cả những đòi hỏi,
những nhu cầu hợp lý cho cuộc sống con người trong xã hội, nhưng chưa

10


được pháp luật ghi nhận cũng phải được coi là quyền con người. Do đó,
không thể coi quyền con người chỉ là cái được phép làm, được hưởng theo
pháp luật, mà còn cả cái đáng được làm, đáng được hưởng, có thể không phù
hợp tại thời điểm này nhưng có thể phù hợp thời điểm khác, hay nói cách
khác những cái chưa được pháp luật khẳng định, nhưng sẽ phải khẳng định.

Định nghĩa thứ ba, theo khuynh hướng “kinh tế” coi quyền con
người là những quyền nảy sinh từ nhu cầu của sản xuất, kinh doanh.
Nói cách khác, khuynh hướng này coi nguồn gốc của quyền con người
là kinh tế. Không phải “trời phú” tự nhiên, cũng không phải do Nhà
nước ban phát, mà chính đời sống kinh tế của con người trao cho con
người các quyền. Tác giả Từ Sùng Ôn (Giáo sư Viện Khoa học Xã hội
Trung Quốc) trong bài báo “Về phương pháp luận nghiên cứu vấn đề
nhân quyền” đã viết: “nhân quyền, suy cho cùng bắt nguồn từ điều kiện
kinh tế xã hội, phản ánh lợi ích cơ bản của một giai cấp nhất định”[35].
Khuynh hướng kinh tế có điểm hợp lý ở chỗ, nó cho thấy nguồn gốc của
quyền con người là bản thân đời sống xã hội của con người. Nó tước bỏ cái vỏ
“thần thánh”, “tự nhiên”[28,tr.10], không giải thích được quyền con người, trả
quyền con người về với đời sống thực tại của con người. Theo khuynh hướng
này, có thể đi đến quan điểm duy vật lịch sử về vấn đề quyền con người. Nó cũng
cho thấy tính giai cấp trong những đòi hỏi về quyền con người.

Song, sẽ là không đầy đủ nếu coi quyền con người chỉ có
nguồn gốc kinh tế. Bởi lẽ, quyền con người còn bao hàm những

yêu cầu về danh dự, nhân phẩm, đời sống tinh thần, tình cảm của
con người...mà những điểm này nằm ngoài phạm trù kinh tế.
Định nghĩa thứ tư, theo khuynh hướng “quan niệm” cho rằng quyền
con người là tất cả những gì mà cá nhân con người cho là cần thiết và có
giá trị đối với cuộc sống con người, tức là quyền lợi, nhu cầu, lợi ích và
những giá trị tinh thần đều có thể trở thành quyền con người.

11


Quyền con người là vấn đề phức tạp, chưa có sự thống nhất chung,
chứa đựng những mặt đối lập, mâu thuẫn, nhưng không loại trừ nhau. Đó
là các mặt khách quan và chủ quan, tự nhiên và xã hội, kinh tế và tinh thần,
văn hoá và chính trị, đạo đức và tôn giáo, đạo lý và luật pháp. Nó cũng là
sự kết hợp giữa các yếu tố quốc tế và dân tộc, giai cấp và nhân loại...


Việt Nam hiện nay cũng đã có nhiều định nghĩa về quyền con người,

do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu nêu ra. Những định nghĩa này
cũng không hoàn toàn giống nhau. Có một số định nghĩa đang được sử dụng
phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu về quyền con người như Trung tâm
Nghiên cứu quyền con người, tổ chức đầu tiên chuyên nghiên cứu về quyền
con người thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm về
quyền con người như: “Quyền con người là khả năng thực hiện các đặc
quyền tự nhiên và khách quan của con người, với tư cách là con người và với
tư cách là thành viên của xã hội, được bảo đảm bằng hệ thống chính sách,
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế về các giá trị con người
trong các quan hệ vật chất, văn hóa, tinh thần, các nhu cầu tự do và phát
triển”[37]. Nói cách khác, quyền con người đóng vai trò “là cơ sở để xác định

tính điều chỉnh tự định đoạt của con người, khả năng độc lập của con người
trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân”[22,tr.21].
Tóm lại, quyền con người qua phân tích các quan điểm trên đây là một
vấn đề rộng lớn, phức tạp, nên luôn có nhiều cách hiểu khác nhau từ khái
niệm, tính chất, bản chất, các thuộc tính, nội dung đến cách thức thực hiện
quyền con người. Kế thừa những điểm hợp lý của các học giả trong nước và
quốc tế như đã phân tích ở trên, theo chúng tôi có thể hiểu về khái niệm
quyền con người như sau: “Quyền con người là tổng hợp các giá trị chung
của nhân loại, bao gồm các quyền dân sự - chính trị, quyền kinh tế - xã hội văn hóa, quyền tập thể - phát triển, quyền pháp lý, được pháp luật quốc gia
bảo vệ và phù hợp với các công ước, pháp luật quốc tế về quyền con người”.

12


1.1.1.2. Phân loại quyền con người
Hiện nay, có rất nhiều cách phân loại quyền con người nhưng chủ
yếu là theo lĩnh vực, trong các lĩnh vực của đời sống, quyền con người
được phân thành ba nhóm chính. “Việc phân loại này chỉ nhằm mục
đích nghiên cứu và thực thi, chứ không nhằm xếp loại theo thứ tự ưu
tiên hay tầm quan trọng của các quyền con người”[13, tr.61]. Việc phân
loại như vậy, cho phép nhìn nhận rõ hơn đặc điểm, tính chất và những
yêu cầu đặc thù trong việc bảo đảm mỗi loại quyền con người.

Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, quyền
con người được phân thành các nhóm:
Thứ nhất, các nhóm quyền con người trong lĩnh vực dân sự - chính trị
Bao gồm các quyền cá nhân trong lĩnh vực dân sự, chính trị, các quyền

bình đẳng và tự do cá nhân. Chúng giải quyết những vấn đề liên
quan đến tự do và sự tham gia vào đời sống chính trị của cá nhân.

Nhóm quyền này mang đậm chủ nghĩa cá nhân và được xây dựng
để bảo vệ cá nhân khỏi sự xâm hại của nhà nước.
-

Quyền dân sự: là đảm bảo tối thiểu toàn vẹn về thể chất và

tinh thần của cá nhân, như quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, danh dự, nhân phẩm, các quyền về tài sản, quyền tự do đi
lại, các quyền tự do cơ bản; quyền được bảo đảm an ninh cá nhân;
quyền bình đẳng...ngoài ra, cho phép họ có nhận thức và niềm tin
của riêng mình. Ví dụ: quyền bình đẳng và tự do, quyền thực hành
tôn giáo hoặc bày tỏ ý kiến và quyền không bị tra tấn hoặc sát hại...
-

Quyền chính trị: là cần thiết để tham gia vào đời sống cộng đồng và

xã hội gồm quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tham gia quản lý xã hội, tự do
lập hội và tham gia hội họp, bày tỏ quan điểm và quyền tiếp cận thông tin...
Thứ hai, nhóm quyền con người trong lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hóa.
Nhóm quyền này, được thiết kế nhằm đảm bảo sự bình đẳng về điều

13


kiện và đối xử đối với con người. Cá nhân không trực tiếp sở hữu
quyền mà nội dung của quyền là những bổn phận tích cực nhà nước
phải tôn trọng và thực hiện. Ví dụ: người dân có quyền được tiếp cận
giáo dục, quyền này được thực hiện thông qua việc nhà nước xây dựng
các cơ sở giáo dục và tạo điều kiện để người dân tiếp cận chúng...
-


Quyền kinh tế: được coi là bao gồm nhóm quyền đối với lao động

việc làm, quyền được hưởng mức sống thỏa đáng, quyền tự do kinh
doanh, quyền có nhà ở và quyền được trợ cấp lúc về già hoặc khuyết
tật...Nhóm quyền kinh tế phản ánh sự thật rằng cần thiết phải có một số
mức đảm bảo vật chất tối thiểu cho nhân phẩm con người, cũng như việc
thiếu một việc làm ý nghĩa hay nhà ở có thể là sự hạ thấp tâm lý của họ...
-

Quyền xã hội: là những quyền cần thiết để cá nhân tham gia đầy đủ

vào đời sống xã hội, được bao gồm như quyền được giáo dục và quyền gây
dựng - duy trì một gia đình, quyền vui chơi giải trí, quyền được chăm sóc sức
khỏe, quyền riêng tư, quyền tự do không bị phân biệt đối xử, quyền được
hưởng an sinh xã hội (quyền được hỗ trợ và bảo vệ của người cao tuổi là vô
cùng cần thiết trong bất kỳ hệ thống an sinh xã hội nào)...
-

Quyền văn hóa: liên quan tới lối sống văn hóa của một cộng đồng và

thường ít được chú ý hơn nhiều loại quyền khác, bao gồm quyền tự do tham
gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng và hưởng thụ đời sống văn hóa;
quyền được giáo dục...Tuy nhiên, nhiều quyền khác tuy không chính thức
được xếp vào quyền văn hóa, song vẫn rất cần thiết cho các cộng đồng thiểu
số trong một xã hội để bảo tồn sự khác biệt văn hóa của họ. Ví dụ như quyền
không bị phân biệt đối xử và quyền được pháp luật bảo hộ bình đẳng...

Thứ ba, nhóm quyền tập thể - phát triển
Nhóm quyền tập thể - phát triển gồm quyền dân tộc cơ bản, tự quyết,

bình đẳng giữa các dân tộc và quốc gia, quyền phát triển, quyền thông tin,
quyền được sống trong hòa bình, quyền sống trong môi trường lành mạnh…

14


Cơ sở hình thành quyền con người trong nhóm quyền này là sự liên
đới, và những quyền này bao quát quyền tập thể của một xã hội hoặc
một dân tộc, như quyền phát triển bền vững, quyền sống trong hòa
bình hoặc quyền sống trong một môi trường lành mạnh, trong sạch...
Nhiều quyền tập thể đã được ghi nhận, đặc biệt là trong Hiến
chương châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc. Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền cũng bao gồm quyền tự quyết và quyền phát
triển, được hệ thống hóa trong Tuyên bố chung năm 1968 của LHQ. “Nhóm
nhân quyền tập thể, phát triển được thể hiện rộng rãi trong nhiều văn bản
“luật mềm” cấp tiến, như Tuyên bố Rio năm 1992 về Môi trường và Phát
triển; và Dự thảo Tuyên bố năm 1994 về Dân tộc Bản địa”[46].

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của sinh viên các trường đại học

1.1.2.1. Khái niệm sinh viên
Thuật ngữ “sinh viên” được bắt nguồn từ một từ gốc Latinh là
“Students” với nghĩa là người làm việc, học tập, tìm hiểu, khai thác tri thức
(Từ điển Bách khoa thư - tiếng Nga). Vì vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất thì
“sinh viên là những người đang theo học trong các trường đại học và các
cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục của một quốc gia nhất định”.

Khái niệm “sinh viên đại học” hiện nay có nhiều cách tiếp
cận và hiểu khác nhau, cụ thể là:
-


Quan niệm thứ nhất: “Sinh viên đại học là người đang học ở trường

đại học”. Trên thực tế, không ít người hiện nay tiếp cận khái niệm sinh viên
theo nghĩa này. Tuy nhiên, hạn chế của quan điểm này là trường đại học chỉ là
một trong những cơ sở giáo dục đại học. Ngoài học ở trường đại học, sinh
viên còn có thể học ở các cơ sở giáo dục khác như đại học quốc gia, đại học
trực thuộc các bộ, ngành, đại học trực thuộc tỉnh, trường cao đẳng, trung tâm,
học viện, phân viện, cơ sở đào tạo liên thông, liên kết...Ngoài ra, học sinh các
lớp chuyên, học sinh dự bị đại học, học viên cao học, nghiên cứu sinh...cũng

15


có thể học ở trường đại học nhưng không phải là sinh viên.
-

Quan niệm thứ hai: “Sinh viên đại học là người học chương trình đại

học”, thực tế, quan niệm này cũng chỉ đúng một phần, vì những người học ở
các trường cao đẳng, học chương trình, nội dung đào tạo thấp hơn so với
chương trình, nội dung đào tạo đại học thì vẫn được gọi là sinh viên.

-

Quan niệm thứ ba: “Sinh viên đại học là người học ở bậc đại học”.

Thực tế cho thấy, cao đẳng và đại học cùng bậc nhưng khác trình độ. Ví
dụ: về trình độ cao đẳng thấp hơn đại học; tương tự như cấp 1, cấp 2, cấp
3 cùng bậc phổ thông nhưng về trình độ thì cấp 1 phải thấp hơn cấp 2…

Theo đó, tất cả những ai đang học ở bậc đại học, bất kể chính quy hay
không chính quy, tuổi nhỏ hay lớn, đang học ở các cơ sở giáo dục đại học
thì đều được coi là sinh viên (định nghĩa sinh viên trong Từ điển tiếng Việt
2010, Hoàng Phê chủ biên). Vì vậy quan điểm này mặc dù chưa được chọn
vẹn, nhưng cũng tương đối đầy đủ và có thể chấp nhận được.
-

Quan niệm thứ tư: “Sinh viên đại học là người được đào tạo theo

chương trình cao đẳng hoặc đại học”, quan điểm này giúp ta nhận diện được
sinh viên học chương trình đào tạo bậc đại học và bậc cao đẳng, giúp phân
biệt sinh viên với học viên bậc cao học (thạc sĩ) và nghiên cứu sinh (tiến sĩ).

Tóm lại, mỗi quan điểm vừa có hạn chế và những yếu tố hợp lý,
kế thừa các quan điểm trên đây, chúng tôi khái quát về khái niệm sinh
viên đại học ở Việt Nam như sau: “Sinh viên đại học là một nhóm đối
tượng đang theo học ở các trường đại học, các cơ sở đào tạo ở Việt
Nam. Họ là một nhóm xã hội đặc thù, đang trong giai đoạn phát triển và
hoàn thiện nhân cách, tích cực học tập, rèn luyện, chuẩn bị gia nhập đội
ngũ trí thức, lao động kỹ thuật cao của đất nước”.

1.1.2.2. Đặc điểm của sinh viên
Thứ nhất, sinh viên đại học trước hết là những người có tuổi đời còn
trẻ, thường từ 18 đến 25; dễ thay đổi; ưa các hoạt động giao tiếp; là những

16


người dễ tiếp thu tri thức mới, thích cái mới, thích sự tìm tòi và sáng tạo…
Thứ hai, về môi trường sống, sinh viên đại học thường theo học tập


trung tại các đô thị lớn, tập trung đông người, sinh viên thường sinh
hoạt tập trung trong một cộng đồng (trường, lớp) gồm những thành
viên tương đối đồng nhất về tri thức, độ tuổi, tâm lý và tính cách.
Thứ ba, sinh viên đại học là những người mang nặng tính thực
tế: Thể hiện ở việc chọn ngành chọn nghề, ở việc hướng đến lựa
chọn những kiến thức để học sao cho đáp ứng nhu cầu thực tế,
chuẩn bị kinh nghiệm làm việc cho tương lai, định hướng công việc
sau khi ra trường, thích những công việc đem lại thu nhập cao...Nói
chung là tính mục đích trong hành động và suy nghĩ rất rõ.
Thứ tư, sinh viên đại học mang tính năng động: Nhiều sinh viên vừa đi
học vừa đi làm (làm thêm bán thời gian, hoặc có khi là thành viên chính thức
của một cơ quan, doanh nghiệp...), hình thành tư duy kinh tế trong thế hệ mới
(thích kinh doanh, muốn tự mình lập công ty, doanh nghiệp...ngay khi đang
còn là sinh viên), thể hiện sự tích cực chủ động (tham gia phong trào tình
nguyện trong nhà trường và ngoài nhà trường...). Nhiều sinh viên cùng một
lúc học hai trường đại học hoặc học hai chuyên ngành khác nhau....
Thứ năm, sinh viên còn thể hiện rõ bản tính của họ là lý tưởng, đó là sự lựa
chọn tương lai cho mình khi họ lựa chọn ngành nghề học tập và chí hướng theo
đuổi các công việc khác trong nhà trường như tham gia phong trào thanh niên,
phong trào xã hội khác do họ tổ chức hoặc do nhà trường phát động. Vì vậy, một
câu hỏi vẫn thường được đặt ra là: sinh viên hôm nay sống có lý tưởng không, lý
tưởng ấy là gì, có sự phù hợp giữa lý tưởng của cá nhân và lý tưởng của dân tộc,
của nhân loại không?. Có thể khẳng định là có, nhưng đang xuất hiện những đặc
điểm lý tưởng có tính ý thức hệ gắn liền với bối cảnh đất nước và quốc tế rất cụ
thể. Lý tưởng hôm nay không phải là sự lựa chọn những mục đích xa xôi, mà
hướng đến những mục tiêu cụ thể, gắn liền

17



với quyền và lợi ích cá nhân.
-

Thứ sáu, tính liên kết (tính nhóm) của sinh viên: Những người

trẻ luôn có xu hướng mở rộng các mối quan hệ, đặc biệt là những quan
hệ đồng đẳng, cùng nhóm. Các nghiên cứu của hai nhà xã hội học
người Pháp về bản sắc xã hội dưới góc độ nhóm là Taspen và Turnez,
đã đưa đến kết luận: Tính nhóm phụ thuộc vào môi trường xã hội xung
quanh chúng ta đang sống. Sự thay đổi của đời sống tinh thần trong
sinh viên trước xu hướng toàn cầu hóa (cả mặt thuận lợi và hạn chế
của xu hướng này), đang hướng mạnh đến tính cộng đồng.
-

Thứ bảy, tính cá nhân chủ nghĩa của sinh viên: Trào lưu dân chủ hóa,

làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân
ngày càng rõ, đặc biệt rõ trong những người trẻ có học vấn là sinh viên. Họ tự

ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Dường như
có sự đề cao lợi ích hơn nghĩa vụ cá nhân. Sự hy sinh và quan tâm đến
người khác thấp đi dưới góc độ kinh tế và đã xuất hiện thái độ bàng quan
với xung quanh ở một bộ phận sinh viên, đang có xu hướng gia tăng.

1.1.3. Khái niệm, đặc điểm giáo dục quyền con người cho
sinh viên các trường đại học
1.1.3.1. Khái niệm giáo dục và giáo dục quyền con người cho
sinh viên đại học
Về khái niệm giáo dục

Để làm rõ khái niệm GDQCN trước hết cần phải xuất phát từ
việc làm rõ khái niệm giáo dục. Vậy giáo dục là gì?
Theo nghĩa rộng, giáo dục là sự ảnh hưởng tác động của những điều kiện
khách quan đã và đang tồn tại xung quanh đối tượng giáo dục như môi trường
sống, chế độ xã hội, truyền thống văn hóa, xã hội, tập quán, phong tục, trình độ
phát triển kinh tế, nền văn minh của nhân loại...và sự tác động có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch của bản thân con người đối với đối tượng giáo dục.

18


Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch cụ thể của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm đạt
được những kết quả nhất định trong việc truyền bá những kinh nghiệm, kiến
thức trong quá trình đấu tranh và sản xuất, truyền bá những tri thức về tự
nhiên, xã hội và tư duy mà thế hệ trước đã tích lũy được cho thế hệ sau.

Từ quan niệm trên đây về giáo dục chính là cơ sở lý luận giúp cho
chúng ta đi sâu làm rõ khái niệm GDQCN và GDQCN cho sinh viên đại học.
Về khái niệm giáo dục quyền con người cho sinh viên các trường đại

học
Thuật ngữ “Giáo dục quyền con người” có nhiều cách tiếp cận
khác nhau và chưa có sự thống nhất trong điều kiện của Việt Nam.

Trong các công trình khoa học, tài liệu nghiên cứu, khái
niệm GDQCN được hiểu ở các khía cạnh sau:
Theo nghĩa rộng, GDQCN cho sinh viên đại học là tổng thể tất cả các
khâu của quá trình GDQCN; sự ảnh hưởng tác động của các điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan để hình thành nên tri thức về quyền con người, tình

cảm pháp luật và các hành vi tôn trọng đảm bảo thực hiện quyền con người
cho đối tượng là sinh viên đang học tập trong các trường đại học.

Theo nghĩa hẹp, GDQCN cho sinh viên đại học là hoạt động
tương tác giữa chủ thể GDQCN với đối tượng GDQCN dưới các hình
thức chủ yếu là giảng dạy những nội dung của quyền con người
trong chương trình chính khóa, chương trình ngoại khóa và lồng
ghép vào các hoạt động phong trào, đoàn thể trong các trường đại
học để chuyển tải các nội dung của GDQCN cho sinh viên.
Như vậy, GDQCN cho sinh viên đại học hiện nay ngoài việc cung cấp
những kiến thức hiểu biết về quyền con người, cần thiết các chủ thể GDQCN còn
phải chú trọng trang bị cho họ những kiến thức hiểu biết pháp luật chuyên sâu về
quyền con người gắn với ngành nghề đào tạo và chuyên môn. Đây là

19


×