Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

Pháp luật về di sản văn hóa việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.42 KB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-------/-------

BỘ NỘI VỤ
----/---HỌ
C
VIỆ
N
HÀN
H
CHÍ
NH
QU
ỐC
GIA

TRẦN
NGUYÊN
HẢI

PHÁP LUẬT VỀ DI
SẢN VĂN HÓA

VIỆ
T
NA
M
HIỆ
N
NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP
VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-------/-------

BỘ NỘI VỤ
----/---HỌ
C
VI
ỆN

NH
CH
ÍN
H
QU
ỐC
GI
A

TRẦN
NGUYÊN
HẢI

PHÁP LUẬT VỀ DI

SẢN VĂN HÓA


Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG
DẪN KHOA
HỌC:
PGS.TS.
LƯƠNG
THANH
CƯỜNG

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn Pháp luật về Di sản văn hoá ở Việt Nam
hiện nay là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS Lương Thanh Cường. Trong quá trình thực hiện luận văn tôi đã kế
thừa nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu đi trước, các số liệu, kết quả, trích
dẫn có xuất xứ rõ ràng, trung thực.
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2018

Tác giả

Trần Nguyên Hải


LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng
dẫn khoa học: PGS.TS. Lương Thanh Cường đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ
và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác giả hoàn thành tốt luận văn này.
Tác giả trân trọng cảm ơn đến các thầy, cô Khoa Sau đại học, Ban Giám
đốc của Học viện Hành chính Quốc gia; Cục Di sản văn hóa, Văn phòng Bộ,
Vụ Pháp chế Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và khảo sát nghiên cứu tổng hợp dữ liệu để tôi hoàn
luận văn này.
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2018
Tác giả

Trần Nguyên Hải


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AEC

Cộng đồng kinh tế Asian

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

ICOM


Hội đồng Bảo tàng quốc tế

ICOMOS

Hội đồng quốc tế các di tích và di chỉ

ICCROM

Trung tâm quốc tế về nghiên cứu bảo tồn và bảo quản
các tài sản văn hóa

INTERPOL

Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế

CIC

Ủy ban điều phối quốc tế

MOW

Chương trình Ký ức thế giới

MOWCAP

Chương trình Ký ức thế giới khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương

Nxb


Nhà xuất bản

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

Tr

Trang

UBND

Ủy ban nhân dân

UNIDROIT

Viện quốc tế về nhất thể hóa pháp luật tư

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc

TTP

Hiệp định thương mại đối tác xuyên Thái bình dương

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới


WCO

Tổ chức Hải quan thế giới

VHTTDL

Văn hóa, Thể thao và Du lịch

TS.

Tiến sĩ

GS.TS.

Giáo sư, tiến sĩ

PGS.TS.

Phó Giáo sư. Tiến sĩ

GS.TSKH.

Giáo sư, tiến sĩ khoa học


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT DI SẢN VĂN
HÓA................................................................................................................................................ 8

1.1. Tổng quan về di sản văn hóa......................................................................................... 8
1.1.1. Quan niệm chung về di sản văn hóa....................................................................... 8
1.1.2. Phân loại di sản văn hóa............................................................................................ 10
1.2. Pháp luật về di sản văn hóa.......................................................................................... 11
1.2.1. Quan niệm pháp luật về di sản văn hóa............................................................... 11
1.2.2. Nội dung chủ yếu của pháp luật về di sản văn hóa......................................... 14
1.2.3. Ý nghĩa của pháp luật về di sản văn hóa............................................................. 17
1.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về di sản văn hóa........................................ 22
1.3.1. Nhu cầu bảo tồn, khai thác các giá trị di sản văn hóa.................................... 22
1.3.2. Năng lực quản lý nhà nước về di sản văn hóa.................................................. 25
1.3.3. Hội nhập quốc tế.......................................................................................................... 29
Tiểu kết Chương 1................................................................................................................... 35
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DI SẢN VĂN HÓA Ở VIỆT
NAM............................................................................................................................................. 36
2.1. Khái quát về di sản văn hóa Việt Nam.................................................................... 36
2.1.1. Tổng quan về di sản văn hóa Việt Nam............................................................... 36
2.1.2. Vị trí, vai trò của di sản văn hóa Việt Nam........................................................ 40
2.2. Tình hình pháp luật về di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay..........................44
2.2.1 Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa.............................. 44
2.2.2 Tình hình thực thi pháp luật về di sản văn hóa.................................................. 48
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về di sản văn hóa................................................. 53
2.3.1. Kết quả đạt được.......................................................................................................... 53


2.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân.......................................................................... 54
Tiểu kết Chương 2................................................................................................................... 58
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DI SẢN VĂN HÓA VIỆT NAM....................... 59
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa Việt Nam................59
3.1.1. Tạo lập môi trường pháp lý đầy đủ trong bảo tồn, tôn tạo di sản văn

hóa.................................................................................................................................................. 59
3.1.2. Bảo đảm ứng xử với di sản văn hóa nghiêm túc, thận trọng.......................65
3.2 Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về di sản văn hóa................................ 67
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật di sản văn hóa................................................. 67
3.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về di sản văn hóa...........................74
Tiểu kết Chương 3................................................................................................................... 82
KẾT LUẬN................................................................................................................................ 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................... 87
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 9 tháng 6 năm 2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành TW Đảng
đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu bền vững phát triển đất nước. Nghị quyết đã
đưa ra nhiều quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về xây dựng và phát
triển văn hóa, trong đó có nội dung hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa
tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các mục tiêu đề ra.
Ngày 04 tháng 4 năm 2016, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 01KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5
năm 2005 của Bộ Chính trị khóa XI về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Theo đó, Bộ Chính
trị xác định nội dung định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật về văn hóa, thể
thao, dân tộc, dân số, gia đình, trẻ em, bình đẳng giới và chính sách xã hội; luật
hóa chính sách tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm cho các tôn giáo, tín ngưỡng
phát triển lành mạnh, đồng thời ngăn chặn việc lợi dụng để kích động chia rẽ
khối đoàn kết dân tộc; hoàn thiện pháp luật về bảo vệ, phát huy giá trị di sản
văn hóa... là một trong sáu nội dung định hướng của việc tiếp tục tổ chức thực
hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn

2016 - 2020. Để thực hiện định hướng này, Kết luận số 01KL/TW chỉ đạo các
cấp ủy, tổ chức đảng các bộ, ngành ở Trung ương tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo
công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật trong lĩnh vực bộ,
ngành quản lý phù hợp với định hướng và của Nghị quyết 48-NQ/TW và Kết
luận 01KL/TW.
Trong thời gian qua, nhất là sau khi Hiến pháp 2013 đã được triển khai
trong thực tiễn, Quốc hội đã ban hành nhiều luật về các lĩnh vực khác nhau,
1


đặc biệt là các luật cơ bản như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Doanh
nghiệp, Luật Đầu tư... Có thể nói công tác xây dựng Luật, Pháp lệnh đã đạt
được những kết quả khá tốt, tạo hành lang pháp lý điều chỉnh các hoạt động
thực tiễn. Tuy nhiên điều này cũng đòi hỏi pháp luật ở từng lĩnh vực khác cần
được rà soát, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật nói chung, để
sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới cho phù hợp với tinh thần của Hiến pháp
và các đạo luật chung.
Trong những năm qua, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng
trong sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa Việt Nam một kho tàng di sản/tài sản văn hóa vô cùng đồ sộ, phong phú và đa dạng.
Từ khi Luật di sản văn hoá có hiệu lực và đi vào thực hiện năm 2001,
trong quá trình đưa Luật Di sản văn hoá, công tác quản lý nhà nước đối với di
sản văn hoá đã nảy sinh một số vấn đề bất cập như:
Nhận thức về giá trị di sản văn hóa của xã hội chưa thật sâu sắc và toàn
diện, ý thức pháp luật chưa cao, vì thế còn xảy ra hiện tượng vi phạm.
Thực tiễn, kinh nghiệm công tác quản lý di sản văn ở Việt Nam cũng
chưa hoàn chỉnh, đồng bộ. Hoàn cảnh khó khăn của đất nước đã ảnh hưởng
đến công việc của các nhà nghiên cứu. Trong hoạt động bảo vệ di sản văn hóa,
chúng ta gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở khoa học và nhất là thiếu một đội
ngũ cán bộ chuyên môn chuyên nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
Cùng với sự nhận thức muộn màng, sự vận dụng một cách máy móc và

cứng nhắc những khái niệm và biện pháp bảo vệ đối với di sản văn hóa, làm
cho quá trình bảo vệ di sản văn hóa ở Việt Nam một thời gian dài bị hạn chế,
lúng túng và thiếu hiệu quả, mất rất nhiều thời gian, công sức, dẫn đến những
ý kiến trái chiều và lúng túng khi xác định biện pháp cụ thể để bảo vệ di sản.

Chúng ta chưa chủ động nghiên cứu đề xuất những giải pháp hữu hiệu để xử

2


lý tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, gây ra những bức xúc trong dư
luận xã hội…
Một vấn đề vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn, cũng rất cần được
quan tâm, đó là: hiện nay Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế
(WTO), tham gia ký kết TPP, AEC và các điều ước quốc tế khác về nhiều lĩnh
vực khác nhau, do đó hệ thống pháp luật về di sản văn hóa cần có sự đánh giá
tổng thể để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn thiện nhằm bảo đảm
phù hợp, tương thích và chủ động thích ứng với môi trường hội nhập quốc tế.
Với những nhận thức trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài Pháp luật về Di
sản văn hoá ở Việt Nam hiện nay cho luận văn tốt nghiệp cao học Luật Hiến
pháp và Luật Hành chính để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo Nghị quyết số 48-NQ/TW
của Bộ Chính trị thì việc nghiên cứu toàn diện về lý luận và thực tiễn nhằm
hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa là một trong
những vấn đề mang tính cấp thiết. Mặt khác, bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa là một công tác có tổ chức có định hướng, chủ yếu do các cơ quan
quản lý nhà nước về văn hóa ở trung ương và địa phương, những cán bộ công
tác về văn hóa nghệ thuật… tiến hành với mục đích nhằm bảo tồn và phát huy

giá trị các di sản văn hóa góp phần xây dựng và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà quản
lý văn hóa, nhất là từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi

3


mới và gia nhập các công ước quốc tế. Các công trình đã được nghiên cứu đề
cập đến những khía cạnh khác nhau về di sản văn hóa, như :
Luận án tiến sĩ “Quản lý di sản thế giới ở Việt Nam (qua trường hợp Di
tích Cố đô Huế và Đô thị cổ Hội An) ” của TS. Trịnh Ngọc Chung, 2017.
Luận án tiến sĩ “Di sản tư liệu ở Việt Nam - vấn đề bảo vệ và phát huy
giá trị (trường hợp các di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức Thế giới được
UNESCO ghi danh)” của TS. Phạm Thị Khánh Ngân, 2017.
Sách : “Một con đường tiếp cận Di sản văn hóa” (2010-2017) tập hợp
các bài viết được công bố trên tạp chí Di sản văn hóa của các nhà khoa học,
nhà quản lý, các cộng tác viên của Cục Di sản văn hóa, Bộ VHTTDL.
Đề tài khoa học cấp Bộ VHTTDL “Bảo vệ và phát huy các giá trị văn
hóa trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế”, Chủ nhiệm
đề tài TS. Nguyễn Thế Hùng, 2013.
Đề tài khoa học cấp Bộ VHTTDL“Xây dưng cơ chế chính sách và giải
pháp bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam là di
sản thế giới”, Chủ nhiệm đề tài PGS.TS. Trương Quốc Bình, 2014.
Tập tài liệu hội thảo khoa học : “Di sản văn hoá với chiến lược phát
triển bền vững” của Cục Di sản văn hóa, Bộ VHTTDL, 2017.
Luận văn thạc sĩ “Quản lý Nhà nước đối với di sản văn hóa trong thời
kỳ hội nhập”, Thạc sĩ Trịnh Ngọc Chung, 2008.
Luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa phi vật thể ở

Việt Nam”, Thạc sĩ Đoàn Quỳnh Dung, 2012.
Trong các công trình trên, các tác giả nhấn mạnh đến các khía cạnh khác
nhau của việc quản lý di sản, từ những bất cập, khó khăn, đến những thuận lợi
trong quá trình quản lý; nêu ra nhiều vấn đề cơ bản cả về lý luận và thực tiễn
trong hoạt động quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa ở nhiều góc độ khác
nhau: các vấn đề lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu và bảo tồn di sản văn

4


hóa, quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa một cách khái lược hoặc đề cập
tới việc quản lý cụ thể đối với di tích lịch sử văn hóa, vấn đề quản lý về lễ hội,
hay một truyền thống văn hóa dân gian một địa phương cụ thể…
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, cho đến nay vẫn còn thiếu đề tài nghiên cứu
một cách đầy đủ, có hệ thống về pháp luật liên quan đến hoạt động bảo tồn di
sản văn hóa để kiến nghị việc hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này. Do vậy,
luận văn này nhằm mục tiêu bước đầu nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ
thống về “Pháp luật về di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay”. Các công trình
nghiên cứu trên là nguồn tài liệu quí giá được tham khảo trong quá trình thực
hiện nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp
luật về di sản văn hoá Việt Nam đáp ứng yêu cầu về quản lý, bảo tồn, phát huy
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc,
cũng như yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây :
- Phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về

di sản văn hóa.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng của pháp luật về di sản văn hóa ở Việt


Nam.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện, bảo đảm thực hiện pháp luật

di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về
di sản văn hoá ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:

5


- Về không gian, thời gian: Luận văn nghiên cứu, đánh giá những quy

phạm pháp luật về di sản văn hóa trong khoảng thời gian từ năm 2001 - năm ra
đời Luật di sản văn hoá cho đến tháng 12 năm 2017.
- Về nội dung: Luận văn khái quát những vấn đề lý luận về pháp luật di

sản văn hóa; Đánh giá thực trạng pháp luật về di sản văn hóa ở Việt Nam, từ đó
đề ra giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về di sản văn hóa ở
Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật về văn hóa; quan
điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong quản lý, phát
triển văn hóa.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được xây dựng dực trên việc sử dụng tổng hợp các phương
pháp sau:
- Phương pháp thu thập tài liệu: Thu thập, lựa chọn những tài liệu, số

liệu, những thông tin liên quan đến nội dung và đối tượng nghiên cứu trong
luận văn từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, kế thừa số liệu của các đơn vị
chuyên ngành hang năm. Số liệu thu thập được là nền tảng, tiền đề giúp cho
việc phân tích, đánh giá tổng hợp các nội dung và đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh: Được sử dụng trong suốt

quá trình, phân tích đánh giá các nội dung của luận văn như các điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội; các yếu tố tác động chủ quan và khách quan; thực trạng
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật lĩnh vực di sản văn hóa và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết.

6


- Phương pháp dự báo, phỏng vấn chuyên gia: Được áp dụng để nghiên

cứu dự báo các yếu tố khách quan và chủ quan, những tác động của kinh tế, xã
hội đến việc xây dựng, ban hành và thực thi văn bản quy phạm pháp luật về di
sản văn hóa; phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia, nhà khoa học có kinh nghiệm
về chuyên môn và pháp lý. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
hiện nay và đặc thù của lĩnh vực di sản văn hóa thì phương pháp này là cần
thiết và hiệu quả.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần bổ sung lý luận về pháp luật di sản văn hoá Việt
Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kết luận của luận văn có giá trị tham khảo trong việc nâng cao hiệu
quả công tác quản lý, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về di sản văn
hóa, có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, bạn đọc có nhu
cầu tìm hiểu về pháp luật di sản văn hóa Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật di sản văn hóa
Chương 2: Thực trạng pháp luật về di sản văn hóa ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện
pháp luật về di sản văn hóa ở Việt Nam

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT DI SẢN VĂN HÓA

1.1. Tổng quan về di sản văn hóa
1.1.1. Quan niệm chung về di sản văn hóa
Di sản văn hóa luôn là một vấn đề được thế giới và Việt Nam quan tâm,
chú trọng trong tiến trình phát triển văn hóa, kinh tế và xã hội nói chung. Di
sản văn hóa hình thành từ sự sáng tạo của con người, có giá trị trên nhiều lĩnh
vực, lưu truyền qua nhiều thế hệ, được thế giới ghi nhận; là tài sản vô giá của
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và của cả nhân loại.
Di sản văn hóa theo văn kiện được Đại hội đồng quốc tế các di chỉ và di
tích (ICOMOS) lần thứ 11 ở Bungari tháng 10 năm 1996 phê chuẩn: “Di sản

văn hóa là để chỉ những di tích và những di chỉ có giá trị di sản, tạo thành môi
trường lịch sử hoặc môi trường xây dựng”
Xuất phát từ hai định nghĩa cốt lõi: Một là của UNESCO – Tổ chức có
uy tín trên thế giới về Văn hóa, Giáo dục và khoa học; hai là, định nghĩa từ
Luật di sản văn hóa Việt Nam, để trao đổi quan điểm, nhận thức về di sản văn
hóa theo hướng tiếp cận hiện đại.
Theo UNESCO, “Văn hóa là tổng thể sống động sáng tạo của con người
diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện đại. Qua hàng thế kỷ,
hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành một hệ thống các giá trị truyền thống, thị
hiếu thẩm mỹ và lối sống mà dựa vào đó từng dân tộc khẳng định bản sắc
riêng của mình”
Theo Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của
UNESCO năm 1972 (Công ước 1972) là Công ước đầu tiên đưa ra định nghĩa,
tiêu chí bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa và di sản thiên nhiên. Đến
năm 1992, Ủy ban di sản thế giới mới bổ sung và đưa ra khái niệm di sản
8


hỗn hợp hay còn gọi là cảnh quan văn hóa để miêu tả các mối quan hệ tương
hỗ nổi bật giữa văn hóa và thiên nhiên của một số khu di sản. Theo báo cáo của
UNESCO năm 2015, đã có 1.031 di sản, thuộc 163 quốc gia tham gia Công
ước Di sản Thế giới 1972 được ghi danh là Di sản Thế giới (802 di sản văn
hóa, 197 di sản thiên nhiên, 32 di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên).
Tại điều 1 của Công ước về bảo vệ di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới
năm 1972 của UNESCO, di sản văn hoá được hiểu là: các di tích, các công
trình kiến trúc, các công trình điêu khắc và hội hoạ, các yếu tố hoặc các cấu
trúc có tính chất khảo cổ học, các dấu khắc, các nơi cư trú hang động và tổ hợp
các đặc điểm có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật
hay khoa học.
Trong quá trình triển khai hoàn thiện Công ước 1972, một số quốc gia đã

manh nha xuất hiện một khái niệm di sản văn hóa mới: luật pháp Nhật Bản và
Hàn Quốc đã quy định các tập quán “truyền thống” là “sản phẩm văn hóa”
(Bourdier 1993, Ogino 1995, Jongsung 2003). Tại châu Âu, từ những năm
1980, các hình thức thể hiện của di sản đã chịu ảnh hưởng của các phạm trù
như “di sản dân tộc học” ở Pháp (Chiva 1990, Fabre 1997) hay “tài sản văn
hóa dân gian - dân tộc học - nhân học” ở Ý (beni demoetnoantropologici)
(Tucci 2005, Bravo; Tucci 2006). Nhằm phát huy Công ước 1972 và dung hòa
với loại hình di sản văn hóa đang hình thành, Chương trình Kiệt tác của nhân
loại được khởi xướng, và 30 năm sau, Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi
vật thể của UNESCO năm 2003 (Công ước 2003) chính thức ra đời, là một
bước tiến mới về tư duy của nhân loại trong nhận thức, phương pháp tiếp cận
và nhận diện cũng như hướng đến mục tiêu chung là bảo vệ và phát huy giá trị
văn hóa phi vật thể - bộ phận quan trọng cấu thành kho tàng di sản văn hóa của
nhân loại.

9


Năm 2001, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành Luật Di sản
văn hóa, đến năm 2009, tiếp tục thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật di sản văn hóa khẳng định “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý
giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa
nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân
dân ta”. Điều 1, Luật Di sản văn hóa quy định: “Di sản văn hóa bao gồm di sản
văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Từ hai định nghĩa then chốt nêu trên, cho ta thấy những nét đặc trưng cơ
bản của di sản văn hóa là phản ánh khả năng sáng tạo của con người trong suốt
quá trình tồn tại và phát triển, được lưu truyền, chọn lọc, tích hợp hàm chứa

những giá trị quý giá về lịch sử, văn hóa và khoa học; Di sản văn hóa đến từ
quá khứ, nhưng mang hơi thở của thời đại, trở thành một phần hữu cơ của đời
sống đương đại.
1.1.2. Phân loại di sản văn hóa
Di sản văn hóa hình thành từ sự sáng tạo của con người, có giá trị trên
nhiều lĩnh vực, lưu truyền qua nhiều thế hệ, được thế giới ghi nhận gồm di sản
văn hóa vật thể, di sản văn phi vật thể.
- Di sản văn hoá vật thể
Luật di sản văn hoá năm 2001, được sửa đổi bổ sung năm 2009 định
nghĩa: “Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá,
khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia”.
- Di sản văn hoá phi vật thể
Theo điều 2 Công ước về Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể năm 2003 của
UNESCO: “Di sản văn hoá phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình

10


thức thể hiện, biểu đạt tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ
vật, đồ tạo tác và các không gian văn hoá có liên quan mà các cộng đồng, các
nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần
di sản văn hoá của họ”.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá năm 2009 định
nghĩa: “Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hoá liên quan, có giá trị lịch sử, văn
hoá, khoa học thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền
nghề, trình diễn và các hình thức khác”.
Tuy vậy, xét đến cùng, rất khó phân tách thật rạch ròi giữa di sản văn hóa

vật thể và di sản văn hóa phi vật thể, bởi không thể một di sản văn hóa vật thể nào
lại không hàm chứa tri thức, kinh nghiệm, tinh thần và dấu ấn của chủ nhân sáng
tạo, đồng thời cũng không một di sản văn hóa phi vật thể nào lại không chứa đựng
và biểu hiện thông qua một cái vỏ vật chất cụ thể - mà cái vỏ vật chất cao cấp
nhất, đặc biệt nhất chính là con người. Cho nên, điều lý thú được rút ra là, con
người cũng chính là một di sản văn hóa, với ý nghĩa (con người) vừa là chủ thể
(sáng tạo ra văn hóa), vừa là khách thể (văn hóa nhào nặn ra nhân cách con người)
của văn hóa. Theo đó, “trong đời sống xã hội, mỗi hành xử của con người được
coi như một lựa chọn, trong đó ẩn dấu một động cơ giá trị. Và, mỗi sản phẩm văn
hóa được tạo ra đều chứa đựng một giá trị xã hội nào đó. Vì thế, có thể xem toàn
bộ những tạo phẩm do hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ cũng như
hiện tại làm ra được biểu hiện như là hình thức ngoại hiện của văn hóa, còn tổng
giá trị xã hội chứa đựng trong các tạo phẩm ấy (cả vật thể và phi vật thể) trở thành
nội dung tinh thần của văn hóa.

1.2. Pháp luật về di sản văn hóa
1.2.1. Quan niệm pháp luật về di sản văn hóa

11


Pháp luật Việt Nam là hệ thống pháp luật thành văn, bao gồm tập hợp các
văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban
hành thống nhất. Pháp luật về di sản văn hóa là một "mảng" nội dung của hệ
thống pháp luật có mối liên hệ và thống nhất với các quy định khác trong hệ
thống pháp luật.
Pháp luật về di sản văn hóa đã được chú trọng ngay từ sau khi thành lập
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: Nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới; Tăng cường hiệu lực quản lý
nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa. Ngày 23 tháng 11 năm 1945, Chính phủ đã ban
hành Sắc lệnh 65 về việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Có thể xem đây là văn
bản quy pháp luật đầu tiên với vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
dân tộc.
Kể từ thời điểm đó đến nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hay trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến
công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm “gắn kết cộng đồng
dân tộc’ và làm “cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa”.
Trên cơ sở Hiến pháp Việt Nam năm 1992, Luật Di sản văn hóa 2001
được ban hành, tiếp đó đến 2009 là Luật sửa đổi bổ sung Luật di sản văn hóa
năm 2009 chính là khung pháp lý quan trọng, thể hiện quan điểm pháp luật
chính thức của nhà nước Việt Nam đối với di sản văn hóa.
Khi nghiên cứu pháp luật về di sản văn hóa có thể thấy pháp luật về di
sản văn hóa là tổng thể các quy định do cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm
quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực di sản văn
hóa. Có nhiều cách thức thể hiện khác nhau các quy định pháp luật về di sản

12


văn hóa, nhưng phổ biến nhất hiện nay là các quy định chung, các quy định có
tính nguyên tắc, quy định về chủ trương được định ra trong nội dung của văn
bản quy phạm pháp luật chuyên ngành như Luật di sản văn hóa, Luật giáo dục,
Luật du lịch, Luật xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh thư viện… Các quy
định về hình thức, thủ tục thực hiện, thẩm quyền được quy định cụ thể trong
văn bản riêng, thường là văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn để quy định chi
tiết, hướng dẫn thi hành luật, như: quy định chi tết thi hành một số điều của
Luật dỉ sản văn hoá và luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn

hóa (Nghị định số 98/2010/NĐ-CP), quy định về xét tặng danh hiệu Nghệ nhân
nhân dân, Nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hoá phi vật thể (Nghị định
số 62/2014/NĐ-CP); Có quy định một hoặc một nhóm vấn đề về di sản văn
hóa được quy định trong văn bản riêng như : quy định về nội dung khoa học để
xếp hạng di tích lịch sử-văn hoá và danh lam thắng cảnh (Thông tư số
09/2011/TT-BVHTTDL); kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa
học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể
quốc gia (Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL). Luật di sản văn hóa được coi
là nguồn “gốc” về khái niệm di sản văn hóa. Tuy nhiên, do tính đa dạng của di
sản văn hóa, các văn bản pháp luật khác lại thể hiện các quan điểm, biện pháp
thực hiện bảo tồn và phát huy mỗi loại hình theo mỗi lĩnh vực khác nhau, nó có
mối quan hệ ràng buộc, liên kết chặt chẽ với nhau.
Trước hết, pháp luật về di sản văn hóa có mối liên hệ mật thiết với các
quy định pháp luật về tổ chức, hoạt động quản lý hành chính. Xét về tính chất
các vấn đề về di sản văn hóa là những hoạt động quản lý hành chính nhà nước
nên quy định về từng loại hình, biện pháp cụ thể phải đảm bảo phù hợp với
hoạt động quản lý có liên quan đến vấn đề đó. Hơn nữa, Nhà nước cũng phải
thực hiện quản lý đối với bản thân các loại hình di sản văn hóa - Quy định
thẩm quyền, nội dung quản lý nhà nước với di sản văn hóa. Vậy các quy định

13


pháp luật về dịch vụ không tách rời các quy định về quản lý hành chính nhà
nước. Pháp luật về quản lý xác định ranh giới giữa quản lý hành chính nhà
nước về di sản văn hóa, nó giới hạn quyền quản lý của các cơ quan nhà nước
cũng như bảo đảm cho các loại hình di sản văn hóa được thực hành đúng với
bản chất của nó. Ngược lại, pháp luật về di sản văn hóa có mối quan hệ mật
thiết với những quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước.

Pháp luật về di sản văn hóa còn có mối liên hệ với các quy định pháp luật
về dân sự, giáo dục, bản quyền tác giả, du lịch, xây dựng, thi đua khen thưởng,
công tác dân tộc… vì đó là những vấn đề liên quan trực tiếp đến việc tạo môi
trường sống cho di sản, tạo động lực phát triển cho từng lĩnh vực, ngành nghề.
Ví dụ, phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” là sự
công nhận chính thức, sự tôn vinh của Nhà nước và nhân dân về tài năng, đóng
góp của cá nhân đối với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa quốc gia…
Mối liên hệ pháp luật về di sản văn hóa với các ngành luật, các chế định pháp
luật khác vừa thể hiện sự tác động qua lại, hai chiều, biện chứng, bổ khuyết
cho nhau để đảm bảo cho tất cả các quan hệ xã hội quan trọng đều được điều
chỉnh và bảo vệ bằng pháp luật; vừa là biểu hiệu vừa là cơ sở cho tính thống
nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.
1.2.2. Nội dung chủ yếu của pháp luật về di sản văn hóa
Điều chỉnh pháp lý đối với di sản văn hóa là tất yếu bởi lẽ so với quy
định pháp luật, sự hạn chế về phạm vi tác động, sự thiếu chặt chẽ và thống nhất
của các phong tục, tập quán, của các quy phạm đạo đức, các tín điều tôn giáo…
đã làm cho các loại quy tắc hành vi này không là chuẩn mực, không đủ sức
mạnh để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này.
* Pháp luật về di sản văn hóa được thể hiện dưới hình thức là các Luật

do Quốc hội ban hành; các Nghị định của Chính phủ; Thông tư, Chỉ thị,

14


Quyết định của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ; Quyết định, Chỉ
thị của Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương,
Luật Di sản văn hóa 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
di sản văn hóa 2009 quy định về các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa; xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn

hóa ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Di sản văn hóa quy định tại
Luật này bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản
phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
(Điều 1 Luật Di sản văn hóa 2001); Luật quy định về các hoạt động bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa; xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân đối với di sản văn hóa ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam; trong trường hợp
điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham
gia có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
*Nội dung pháp luật di sản văn hóa là những quy tắc hành vi cho các
chủ thể tham gia vào việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; ngoài ra còn
bao gồm các nguyên tắc, các chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển từng
loại hình, nhóm loại hình di sản văn hóa ở Việt Nam.
Pháp luật về di sản văn có thể chia thành hai nhóm nội dung chính là:
- Quy định về quy trình thủ tục thực hiện các hoạt động liên quan đến

bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa (di sản văn hóa vật thể: di tích lịch sử
văn háo, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, Bảo tàng; di sản
văn hóa phi vật thể). Các nội dung cụ thể của pháp luật gồm: nguyên tắc bảo
tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; hình thức thực hiện; các yêu cầu, điều

15


kiện, tiêu chí xác định di sản văn hóa; quyền và nghĩa vụ các bên, thủ tục thực
hiện.
- Quy định về quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa (tổ chức bộ máy,


nhân sự; về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong các hoạt động về di sản
văn hóa). Các nội dung của pháp luật di sản văn hóa là nhằm bảo tồn di sản
văn hóa, đảm bảo cho các di sản được trân trọng, phát huy, nâng cao nhận thức
về tầm quan trọng của di sản và tạo ra sự hợp tác và hỗ trợ trong nước cũng
như quốc tế trong các lĩnh vực này. Pháp luật hiện nay tập trung vào vai trò của
các cộng đồng và tập thể trong việc bảo tồn di sản văn hóa; quan tâm tới các di
sản mà cộng đồng coi là quan trọng và đóng góp vào việc thúc đẩy sự sáng tạo
cũng như sự đa dạng, góp phần đảm bảo sự bình an cho cộng đồng, tập thể và
xã hội nói chung, qua đó tạo tiền đề cho phát triển bền vững và chung sống hòa
bình.
Triển khai Luật di sản văn hóa, một hệ thống văn bản dưới Luật đã được
ban hành, gồm : 02 Nghị định, 02 Chỉ thị, 01 Thông tư, 09 Quyết định
(xem chi tiết Phụ lục 2); Luật sửa đổi, bổ sung tại một số điều của Luật di sản
văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XII
kỳ họp thứ 5 thông qua. Theo quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật,
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di
sản văn hóa đã kịp thời được nghiên cứu, xây dựng, nhằm đưa ra những quy
định chi tiết, cụ thể việc thi hành Luật trong thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tổ chức các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, cụ thể
đã có 5 Nghị định của Chính phủ và 10 Thông tư của Bộ trưởng Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch được ban hành (xem chi tiết Phụ lục 3).
*Về phạm vi tác động, đối tượng điều chỉnh: pháp luật về di sản văn tác
động đến các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cộng đồng và cá nhân tham gia.

16


×