Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động xét xử từ thực tiễn tỉnh đắk nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.06 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ THU HÀ

KIỂM SOÁT CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ - TỪ THỰC TIỄN
TỈNH ĐĂK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TÔ VĂN HÒA

HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


Lờ cam đoan
Tô cam đoan những nộ dung được trình bày trong luận văn này
là công trình ngh ên cứu của tô . Số l ệu được sử dụng để phân tích,
làm rõ các vấn đề có nguồn gốc rõ ràng, trung thực và chính xác.

Người cam đoan


Lê Thị Thu Hà


Lờ cảm ơn
Luận văn này là một phần quan trọng trong quá trình học tập
của tôi tại Học viện Hành chính quốc gia phân viện Tây Nguyên, là
kết quả của việc tiếp thu kiến thức mà các Thầy Cô đã truyền đạt,
cùng sự hướng dẫn tận tâm, trách nhiệm của người hướng dẫn
khoa học cũng như kinh nghiệm trong công tác của bản thân tôi.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Tô Văn Hòa, người
trực tiếp hướng dẫn khoa học, người đã đưa ra cho tôi những chỉ dẫn,
phương pháp, cách thức để đề tài được thực hiện một cách tốt nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo đã giảng dạy Lớp LH4TN2 tại Học viện Hành chính quốc gia phân viện Tây Nguyên, những người
đã truyền đạt kiến thức thật sự hữu ích cho bản thân tôi và các bạn cùng
khóa để hoàn thành tốt hơn nữa công việc đang và sẽ phụ trách.

Tôi xin chân thành cảm ơn Cô giáo chủ nhiệm lớp LH4-TN2, bạn
bè cùng lớp và đồng nghiệp tại Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông đã hết
sức nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và viết Luận văn này.

Đăk Nông, ngày 05 tháng 12 năm
2019.

Tác giả Luận văn
Lê Thị Thu Hà


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Các cụm từ v ết tắt
BLDS

BLHS
BLTTDS
BLTTHS
GCNQSDĐ
HĐXX
LTTHC
UBND


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
2.1

2.2

2.3

2.4

2.5


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT CÁC CƠ QUAN

HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ..................... 9
1.1 Những khái niệm có liên quan................................................................................. 9
1.2. Vai trò và phương thức kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước thông
qua hoạt động xét xử........................................................................................................... 15

Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HAI
CẤP TỈNH ĐĂK NÔNG............................................................................................................... 25
2.1. Tình hình quản lý hành chính nhà nước tỉnh Đăk Nông và thực trạng các vi
phạm phổ biến trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.........25
2.2. Thực trạng hoạt động xét xử án hành chính đối với các vi phạm của cơ quan
hành chính nhà nước và người có thẩm quyền............................................... 36
2.3. Thực trạng hoạt động xét xử án dân sự đối với các vi phạm của cơ quan hành

chính nhà nước và người có thẩm quyền............................................................ 46
2.4. Thực trạng hoạt động xét xử án hình sự đối với người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước..................................................................................... 57
2.5. Đánh giá chung về một số quy định của pháp luật tố tụng...........64

Chương 3:GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG, HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN.......................76
3.1. Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước, hoạt
động xét xử................................................................................................................................. 76
3.2. Thực hiện tốt các yêu cầu về cải cách tư pháp...................................... 78
3.3. Nâng cao tính độc lập trong hoạt động xét xử........................................ 81
3.4. Nâng cao năng lực, trách nhiệm của người thi hành công vụ....84
3.5. Yêu cầu về cơ sở vật chất, khoa học công nghệ................................... 84
3.6. Quy chế lương, phụ cấp.......................................................................................... 86
3.7. Quy định bảo vệ Thẩm phán................................................................................. 87

3.8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng................................................................. 88
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................. 94


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo hoạt động của bộ
máy nhà nước đạt h ệu quả cao, hạn chế tố đa sự lạm dụng quyền lực,
mang lạ lợ ích chung cho quốc gia và xã hội chính là hiến định và cụ thể
hóa quy định về kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là một trong những thành
tựu của Hiến pháp năm 2013, được quy định tại khoản 3 Điều 2.

Hiến pháp quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; cơ quan hành
chính nhà nước, đứng đầu là Chính phủ thực hiện quyền hành
pháp; Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp.
Quyền hành pháp được giao cho các cơ quan hành chính nhà
nước thực hiện rất đa dạng, trên nhiều lĩnh vực, đòi hỏi cần phải kiểm
soát chặt chẽ để đảm bảo việc tuân thủ các quy định pháp luật trong
quá trình thực thi nhiệm vụ công vụ. Trong đó, kiểm soát thông qua
hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân là một trong những cách thức
mang tính chất công khai, minh bạch và đạt được hiệu quả tốt.
Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân có vai trò như thế nào trong
việc kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước, kiểm soát ra sao, ở mức
độ nào, lĩnh vực gì, trên cơ sở lý luận, khoa học pháp lý nào, ảnh hưởng hay
lợi ích của hoạt động này mang lại và làm sao để nâng cao chất lượng, hiệu

quả giải quyết các vụ án để việc kiểm soát các cơ quan hành chính nhà
nước cũng như người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
được thực hiện tốt hơn là nội dung mà Luận văn hướng đến.


2

Trên địa bàn tỉnh Đăk Nông những năm gần đây tỷ lệ thụ lý các vụ án
hành chính tăng rất nhanh, đây là loại án mà Thẩm phán, Hội đồng xét xử có
nhiệm vụ xem xét tính đúng đắn, hợp pháp của các quyết định hành chính,
hành vi hành chính do cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành, thực hiện. Thể hiện rõ hoạt
động kiểm soát quyền hành pháp thông qua hoạt động xét xử. Câu hỏi cần
trả lời là tại sao lại có sự đột biến về số lượng án thụ lý, nguyên nhân bắt
nguồn từ đâu; làm sao để giải quyết các vụ án hành chính này một cách tốt
nhất, đảm bảo dung hòa được lợi ích giữa người khởi kiện và người bị kiện,
nhất là một bên trong quan hệ tranh chấp là cá nhân, tổ chức, còn một bên
lại là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền. Bên cạnh
đó, số lượng các quyết định hành chính cá b ệt có yêu cầu g ả quyết trong
vụ án dân sự tăng nhanh, đặc biệt là yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất trong các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất đòi hỏi có sự phân
tích nguyên nhân cũng như đưa ra giải pháp để đảm bảo việc xét xử loại án
này đạt hiệu quả hơn cũng là vấn đề Luận văn muốn đặt ra giải quyết.

Bên cạnh đó, tác giả cũng muốn đề cập đến tình hình vi phạm
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước ở mức độ phải xử lý trách nhiệm hình sự
tại tỉnh Đăk Nông. Loại án này tuy không nhiều nhưng việc giải quyết
nghiêm minh, thấu tình đạt lý cũng là một trong những giải pháp để
việc thực thi quyền hành pháp đảm bảo đúng pháp luật.


Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Kiểm
soát các cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động xét
xử - từ thực tiễn tỉnh Đăk Nông” để viết luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.


3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Lần đầu tiên vấn đề kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được quy định tại
khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Vì vậy, mặc dù đã có một số công
trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước,
trong đó có một phần nội dung về kiểm soát quyền hành pháp. Tuy nhiên
công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến kiểm soát các cơ quan hành
chính thông qua hoạt động xét xử còn rất ít. Chủ yếu các công trình
nghiên cứu, bài viết phân tích đã xuất bản, đăng tải mới nói chung về
việc kiểm soát quyền lực nhà nước, mà chưa có công trình nghiên cứu,
bài viết phân tích chuyên sâu về việc các cơ quan thực hiện quyền tư
pháp kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp như:
Trần Ngọc Đường (2012), Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền
lực với việc sửa đổi hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trịnh Thị Xuyến (2006), Kiểm soát quyền lực nhà nước: Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Thái Vĩnh Thắng (2011), Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà
nước, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Nguyễn Minh Đoan (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PGS. TSKH Phan Xuân Sơn, tác giả bài viết Kiểm soát quyền lực
trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”,
mục nghiên cứu – trao đổi Tạp chí Cộng sản số ngày 19-01-2018.


4

PGS.TS Tào Thị Quyên, tác giả bài viết hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mục nghiên cứu – trao đổi
Tạp chí Tổ chức nhà nước ngày 17-01-2017.
TS. Hoàng Minh Hội, tác giả bài viết cơ chế pháp lý kiểm soát việc
thực hiện quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương: Thực
trạng và giải pháp, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 11 (387), tháng 6-2019.
Phí Thành Chung, tác giả bài viết quyền tư pháp và một số nguyên tắc
cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mục nghiên
cứu – xây dựng pháp luật Tạp chí Tòa án nhân dân ngày 26-4-2018.

Những công trình nghiên cứu được xuất bản và bài viết đăng tải
trên các tạp chí có uy tín nêu ở trên đã phân tích quá trình thực hiện các
quyền cũng như lý do vì sao phải kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; lý giải vì sao các
bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
không đặt ra vấn đề kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực; các
tác giả đã phân tích các ưu điểm, hạn chế của việc kiểm soát quyền lực
nhà nước cũng như đưa ra các giải pháp để việc kiểm soát quyền lực
nhà nước được hiệu quả. Tuy nhiên số đề tài và bài viết chuyên sâu liên
quan đến hoạt động xét xử kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước lại có rất ít tác

giả đề cập. Chính vì vậy đề tài mà tác giả chọn để viết luận văn vừa đảm
bảo tính kế thừa, đồng thời đảm bảo tính mới, cấp thiết và hữu ích.

3.

Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.

Mục đích nghiên cứu


5

Mục đích nghiên cứu của Luận văn là tìm hiểu, xác định cơ sở lý
luận, quy định của hệ thống pháp luật về kiểm soát các cơ quan hành
chính nhà nước thông qua hoạt động xét xử. Nghiên cứu thực trạng kiểm
soát các cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động xét xử tại
tỉnh Đăk Nông để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện việc kiểm soát
các cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động xét xử.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
của luận văn bao gồm:
Thứ nhất: Nghiên cứu, hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về
quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước; các phương thức
kiểm soát cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động xét xử.

Thứ hai: Nghiên cứu thực trạng hoạt động xét xử của Tòa án

nhân dân tỉnh Đăk Nông kiểm soát các cơ quan hành chính nhà
nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
như thế nào; đánh giá lợi ích, vài trò của hoạt động này mang lại.
Thứ ba: Đề ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện về cơ sở lý luận,
quy định của pháp luật cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả k ểm soát
các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền thông qua hoạt
động xét xử nó chung và tại Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông nó r êng.

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1.

Đối tượng nghiên cứu


6

Luận văn nghiên cứu vấn đề kiểm soát các cơ quan hành chính
nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân từ phương thức giải
quyết, xét xử các vụ án hành chính, dân sự, lao động, hình sự.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Đăk Nông.
Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2019.
5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu


5.1.

Phương pháp luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của triết học Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về kiểm soát
cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động xét xử.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như:
Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, diễn giải, quy nạp... Trong
đó tác giả nêu vấn đề, đặt vấn đề sau đó đối chiếu, so sánh các quy định, các
quan điểm, quan niệm, phân tích các điểm hợp lý, bất hợp lý nhằm đưa ra kết
luận. Ở Chương II của Luận văn, tác giả sử dụng phương pháp thống kê số liệu
thụ lý, giải quyết các loại án; đưa ra các ví dụ là những vụ án cụ thể và phân
tích những sai phạm chủ yếu để thấy được việc kiểm soát các cơ quan hành
chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
thông qua hoạt động xét xử được thực hiện như thế nào. Bên cạnh đó tác giả
cũng sử dụng phương pháp diễn giải, so sánh các quy định của


7

pháp luật, nhất là pháp luật tố tụng; phân tích ưu điểm, hạn chế từ đó có các
giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp thực hiện tốt hơn việc kiểm soát
các cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động xét xử ở Chương III.

6.


Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn

6.1.

Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần hoàn thiện khoa học pháp lý về vấn đề
kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm
quyền thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Tác giả mong muốn đề tài có thể được sử dụng để phục vụ cho
mục đích tìm hiểu nguyên nhân vì sao cần phải kiểm soát các cơ quan
hành chính nhà nước, người có thẩm quyền thông qua hoạt động xét xử
tại Tòa án nhân dân. Hiệu quả hoạt động kiểm soát mang lại cũng như
phục vụ cho những người có nhu cầu tìm ra các giải pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động xét xử, từ đó góp phần nâng cao h ệu quả hoạt động
k ểm soát các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền.

7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về kiểm soát các cơ
quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động xét xử.
Chương 2: Thực trạng k ểm soát các cơ quan hành chính nhà nước
thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đăk Nông.


8


Chương 3: G ả pháp hoàn th ện pháp luật và nâng cao chất
lượng, h ệu quả k ểm soát các cơ quan hành chính nhà nước
thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân.


9

Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT CÁC CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ

1.1 Những khá n ệm có l ên quan
1.1.1. Quyền lực và phân loại quyền lực
Quyền lực có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau. Tuy
nhiên, tựu chung lại, quyền lực chính là việc sử dụng sức mạnh ý
chí của người này tác động, kiểm soát ý chí, hành động của người
khác, làm cho họ phục tùng mình, thực hiện hành vi theo những gì
mình mong muốn để đạt được một hoặc một số mục tiêu nhất định.
Dựa trên hình thái quyền lực phân thành quyền lực cứng và quyền lực
mềm; theo các lĩnh vực của đời sống xã hội chúng ta có quyền lực kinh tế,
quyền lực chính trị, quyền lực văn hóa, quyền lực tôn giáo, quyền lực gia
đình; theo phương thức tổ chức và thực thi quyền lực có quyền lực chính
trị, quyền lực nhà nước, quyền lực nhân dân. Tầm ảnh hưởng của mỗi loại
quyền lực lên đối tượng chi phối cũng theo đó mà khác nhau. Tuy nhiên về
phạm vi, cách thức thực hiện thì bản thân tác giả cho rằng quyền lực nhà
nước có tầm ảnh hưởng rộng nhất và được tổ chức chặt chẽ nhất.

1.1.2. Quyền lực nhà nước
Các Mác và Ăng Ghen cho rằng “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy

trấn áp của giai cấp này đối với một giai cấp khác” [1, tr.584]. Có quan điểm khác
lại khẳng định “suy cho cùng thì quyền lực nhà nước là sự quản lý của nhà
nước đối với xã hội trên cơ sở pháp luật và sự tuân thủ, chấp hành pháp luật
của mọi cá nhân, tổ chức” [3, tr.58]. Riêng bản thân tác giả cho rằng quyền lực
nhà nước là cách thức mà nhà nước, thông qua các cơ quan trong


10

hệ thống bộ máy của mình, bằng hệ thống pháp luật tác động lên xã hội
để đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra. Tác giả cũng đồng ý với
quan điểm của V.I.Lênin cho rằng “Vấn đề chính quyền nhà nước nhất
định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng. Giai cấp nào giữ
chính quyền? Điều đó quyết định tất cả” [4, tr286]. Cụ thể ở nước ta, nói
quyền lực nhà nước chính là nói tới quyền lực của Nhân dân, mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, cũng đồng nghĩa với việc Nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực nhà nước, là chủ thể trao quyền cho nhà nước. Điều này đã
được Hiến pháp năm 2013 khẳng định tại khoản 2 Điều 2 và văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngoài khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Hiến
pháp năm 2013 cũng hiến định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3 Điều 2).

1.1.3. Cơ quan hành chính nhà nước
Theo quy định tại Điều 94 Hiến pháp năm 2013: “Chính phủ là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Chính phủ
gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng

cơ quan ngang bộ. Người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng, chịu trách nhiệm
trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao.
Người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ là Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân
công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến


11

ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc và báo cáo công tác
trước Chính phủ, Thủ tướng chính phủ.
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu. Ủy ban nhân dân gồm Chủ tịch, Phó
Chủ tịch và các Ủy viên. Cơ quan tham mưu, giúp việc của Ủy ban nhân
dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa
phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy
quyền của cơ quan nhà nước cấp trên là các cơ quan chuyên môn.
Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gồm có sở và
cơ quan ngang sở (gọi chung là sở). Thông thường, cơ cấu tổ chức của sở
gồm có Văn phòng, phòng chuyên môn nghiệp vụ, thanh tra, chi cục và đơn
vị sự nghiệp. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm
có phòng và các cơ quan tương đương phòng (gọi chung là phòng). Ngoài
cơ cấu cứng gồm: Phòng Nội vụ, Phòng Tư pháp, Phòng Tài chính – Kế
hoạch, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng Lao động – Thương binh và
Xã hội, Phòng Văn hóa và Thông tin, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Y tế,
Thanh tra huyện và Văn phòng thì ở một số huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh có thể thành lập các cơ quan chuyên môn phù hợp với tình hình của
từng địa phương cụ thể với mục đích đảm bảo tính linh hoạt, hiệu quả, tinh
gọn. Ví dụ như: ở các quận, thị xã có thể có Phòng Kinh tế, Phòng Quản lý
đô thị; ở các huyện có thể có Phòng Dân tộc, Phòng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, Phòng Kinh tế và Hạ tầng.

1.1.4. Kiểm soát, kiểm soát quyền lực nhà nước và kiểm
soát các cơ quan hành chính nhà nước
Kiểm soát là việc quan sát, xem xét, theo dõi, đánh giá một hoặc một số
hoạt động nào đó nằm trong phạm vi quyền hạn của chủ thể có quyền, đảm


12

bảo các hoạt động được thực hiện theo các mục tiêu, chuẩn mực đã đặt
ra. Ngăn chặn những hành vi sai trái. Phát hiện những hạn chế và đề ra
phương hướng để đối tượng bị kiểm soát thực hiện hoạt động tốt hơn.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng thể các biện pháp để đảm bảo
quyền lực nhà nước được thực hiện đúng theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật. Quyền lực nhà nước được kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; được kiểm soát bằng nội bộ các cơ
quan hoặc ngoài nhà nước như thông qua phản biện của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị, xã hội, cử tri, báo chí, khiếu nại, tố cáo của công dân.

Kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước, tương tự như kiểm soát
quyền lực nhà nước, cũng là tổng thể các biện pháp để đảm bảo cho hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước theo đúng Hiến pháp và pháp luật,
đạt được mục tiêu nhất định. Hạn chế đến mức thấp nhất việc áp dụng sai
quy định của pháp luật, hành vi lợi dụng quyền hạn gây ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Kiểm soát các cơ
quan hành chính nhà nước được thực hiện thông qua quyền kiểm soát tối
cao của Quốc hội, giám sát của Hội đồng nhân dân; kiểm soát của Kiểm toán
Nhà nước, Thanh tra nhân dân; Kiểm soát mang tính nội bộ như Thanh tra
Nhà nước; kiểm soát thông qua các cơ quan tố tụng, hoạt động xét xử của

Tòa án nhân dân và các hình thức kiểm soát ngoài nhà nước.

1.1.5. Hành vi vi phạm của cơ quan hành chính nhà nước,
người có thẩm quyền bị kiểm soát
Hành vi vi phạm của các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước (sau gọi chung là người có thẩm
quyền) khi thực hiện hoạt động chấp hành, điều hành có thể phân thành hai
dạng là hành động và không hành động. Ở dạng vi phạm hành động gồm có:


13

Ban hành văn bản (văn bản quy phạm pháp luật, quyết định hành chính cá
biệt) không đúng quy định của pháp luật (về thẩm quyền, trình tự, thủ tục,
nội dung, hình thức); thực hiện hành vi vi phạm đủ yếu tố cấu thành tội
phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự. Ở dạng không hành động vi phạm,
thuộc trường hợp pháp luật quy định cơ quan hành chính nhà nước, người
có thẩm quyền phải ban hành văn bản hoặc thực hiện một, một số công việc
nhất định nhưng không thực hiện. Ví dụ 1: Ông A khiếu nại Quyết định
cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện B. Ông A đã khiếu nại đúng trình tự theo Luật Khiếu nại, tuy nhiên hết
thời thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện B không giải quyết khiếu nại (không xác minh nội dung,
không tổ chức đối thoại, không ra quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu).
Ví dụ 2: Bà B đến Phòng Đăng ký kinh doanh của Sở Kế hoạch và Đầu tư
tỉnh Đ để đăng ký thành lập Công ty TNHH Một thành viên do cá nhân làm
chủ sở hữu. Thành phần, số lượng hồ sơ bà B nộp đầy đủ, hợp lệ, vào ngày
làm việc theo quy định nhưng anh N, người được giao nhiệm vụ tiếp nhận
không đồng ý tiếp nhận hồ sơ.
Nhận diện hành vi vi phạm: Chúng ta có thể nhận diện qua các dấu hiệu

cơ bản gồm: Chủ thể (cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền);
khách thể: Xâm phạm hoạt động thi hành, thực hiện pháp luật, hoạt động hoạch
định và điều hành chính sách. Xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức; mặt khách quan: Hành vi hành động hoặc không hành động
trái pháp luật là nguyên nhân gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức; mặt
chủ quan: Yếu tố lỗi, động cơ, mục đích; các quy định của pháp luật về từng
vấn đề cụ thể trong hoạt động chấp hành, điều hành.

1.1.6. Hoạt động xét xử


14

Hoạt động xét xử là hoạt động trọng tâm trong thực hiện quyền tư
pháp, được hiểu là quá trình thụ lý, giải quyết các loại án bao gồm án dân
sự, hình sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động,
hành chính và thụ lý, giải quyết các yêu cầu (gọi chung là việc dân sự)
bao gồm yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động. Kết quả của hoạt động xét xử là các bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật trên cơ sở quy định của pháp luật, xem xét tính hợp
pháp, hợp lý của hành vi, đem lại sự công bằng, công lý cho tổ chức, cá
nhân. Ngoài ra trong quá trình giải quyết, xét xử nếu xét thấy có văn bản
trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ quốc hội, Tòa án cũng có quyền kiến nghị xử lý.
Ngày 02 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, xác định Tòa án có
vị trí trung tâm và xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp. Thể chế hóa
chủ trương lớn, quan trọng của Đảng, đồng thời cũng là khẳng định mục
tiêu xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa
án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Ngày 24 tháng 11 năm 2014, Quốc hội thông
qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định cụ thể, chi tiết chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, nhân sự của Tòa án nhân dân. Tất cả các quy
định này nhằm đạt được một mục đích rất quan trọng chính là đảm bảo hoạt
động xét xử được thực hiện khoa học, đúng pháp luật. Để nhiệm vụ bảo vệ
công lý; quyền con người; quyền công dân; pháp chế xã hội chủ nghĩa; lợi
ích của Nhà nước và quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân của Tòa
án nhân dân được thực hiện một cách tốt nhất.


15

1.2. Vai trò và phương thức kiểm soát các cơ quan hành
chính nhà nước thông qua hoạt động xét xử
1.2.1. Va trò của hoạt động xét xử trong k ểm soát các cơ
quan hành chính nhà nước
Cơ quan hành chính nhà nước là một hệ thống các cơ quan có số lượng
nhiều nhất, được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Nhiệm vụ,
quyền hạn được giao cũng là nhiều nhất. Ở trung ương, theo quy định tại Điều
96 Hiến pháp năm 2013, Chính phủ có 08 nhiệm vụ, quyền hạn chính, được cụ
thể hóa bằng 20 nhiệm vụ, quyền hạn trong các lĩnh vực theo Luật Tổ chức
Chính phủ năm 2015. Chính quyền địa phương, theo Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015, được chia thành chính quyền địa phương ở nông thôn,
chính quyền địa phương ở đô thị, chính quyền địa phương ở hải đảo và chính
quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Tùy thuộc từng cách
phân chia mà các cơ quan hành chính nhà nước ở từng cấp cũng có các nhiệm
vụ, quyền hạn cơ bản và riêng biệt để công tác quản lý hành chính được thực
hiện khoa học, thuận lợi cũng như đảm bảo sự phát triển phù hợp với điều kiện
kinh tế, địa lý, dân cư. Ví dụ: đối với chính quyền địa phương ở nông thôn, cơ
quan hành chính nhà nước cấp tỉnh (Ủy ban nhân dân tỉnh) có 08 nhiệm vụ,

quyền hạn (Điều 21), người đứng đầu là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh có 11
nhiệm vụ, quyền hạn (Điều 22), nhưng Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc
Trung ương ngoài 08 nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 21 còn có 04 nhiệm
vụ, quyền hạn quy định tại Điều 42. Hay Cơ quan hành chính nhà nước cấp
huyện (Ủy ban nhân dân huyện) đối với chính quyền địa phương ở nông thôn
có 06 nhiệm vụ, quyền hạn (Điều 28), người đứng đầu là Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện có 10 nhiệm vụ, quyền hạn (Điều 29) nhưng chính quyền địa phương
ở đô thị, ngoài 06 nhiệm vụ, quyền hạn tại Điều 28


16

thì Ủy ban nhân dân quận còn có 05 nhiệm vụ, quyền hạn được
quy định tại Điều 49.
Các nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước từ
trung ương đến địa phương theo quy định của pháp luật là rất rộng, trên gần
như toàn bộ các lĩnh vực, hoạt động chi phối đời sống vật chất, tinh thần
của toàn bộ người dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam cũng như tổ chức,
cá nhân nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư, tham quan, hợp
tác với tổ chức cá nhân ở Việt Nam và ngược lại. Quyết định các vấn đề cơ
bản nhất như ngân sách, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp,
lâm nghiệp, xây dựng, các loại tài nguyên, đất đai vùng biển, vùng trời, thủy
sản, du lịch, dịch vụ. Thực hiện công tác giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, bổ
trợ tư pháp. Thực hiện các công việc để đảm bảo sự ổn định xã hội, hài hòa
sự phát triển giữa các dân tộc, vùng miền, đảm bảo trật tự, an ninh cũng
như đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật.
Với các nhiệm vụ, quyền hạn như trên, thì các cơ quan hành chính nhà
nước cũng như người công tác trong các cơ quan hành chính nhà nước rất dễ
để xảy ra tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật trong thực thi công việc
được giao, vi phạm ở đây có thể là làm trái quy định do vô ý hoặc cố ý. Hành vi

cố ý vi phạm thông thường là do lạm quyền để có thể đem lại các lợi ích cho
mình hoặc cho người khác, lợi ích có thể là về vật chất hoặc tinh thần. Hành vi
vô ý vi phạm có thể do năng lực chuyên môn còn hạn chế, chưa nắm bắt được
hết quy định hoặc do quá tự tin mà thiếu kiểm tra, rà soát lại. Vì vậy, để hạn chế
vấn đề vi phạm của các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước trong hoạt động chấp hành, điều hành
cũng như xử lý các hành vi vi phạm, đem lại sự công bằng cho các tổ chức, cá
nhân mà theo lẽ thông thường mọi người đều nghĩ rằng sẽ nghiêng


17

về một phía, đồng thời phòng ngừa chung, tránh lặp lại sai phạm tương tự
hoặc sai phạm khác, tác động vào ý thức tuân thủ quy định pháp luật của cơ
quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước, đảm bảo các chủ thể này hoạt động đúng thẩm quyền, đảm
bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa thì cần thiết phải có sự kiểm soát quyền lực
từ nhiều phía, không chỉ nội bộ các cơ quan hành chính mà nước mà cần có
sự kiểm soát từ các nhánh quyền lực khác và hoạt động giải quyết, xét xử
các loại án của Tòa án nhân dân là một trong những cách thức để kiểm soát
quyền lực của cơ quan hành chính nhà nước.

Hoạt động xét xử có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, đánh giá
tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính cũng
như hành vi của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước. Phân tích, tác động vào nhận thức của người có thẩm quyền để
đưa ra các quyết định như chấm dứt hành vi vi phạm; hủy bỏ, sửa chữa
quyết định hành chính có sai phạm. Buộc cơ quan, tổ chức bồi thường
thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân bị xâm phạm. Kiến nghị với người có thẩm quyền, người đứng đầu

cơ quan nhà nước xem xét, xử lý trách nhiệm của cơ quan hành chính
nhà nươc, người có thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước.

1.2.2. Phương thức k ểm soát các cơ quan hành chính nhà
nước thông qua hoạt động xét xử
1.2.2.1. Kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước thông
qua hoạt động xét xử án hành chính
Quá trình thực hiện các hoạt động chấp hành, điều hành, các quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, người có
thẩm quyền từ cấp Bộ và Bộ trưởng đến cấp xã; quyết định buộc thôi việc đối


18

với công chức giữ chức vụ Tổng Cục trưởng và tương đương
trở xuống của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có
thể bị khởi kiện theo trình tự, thủ tục được quy định bởi Luật Tố
tụng Hành chính và do Tòa án giải quyết theo thẩm quyền.
Các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính chất nội bộ,
tức là những quyết định, hành vi với mục đích quản lý, chỉ đạo, điều hành để
cơ quan hành chính triển khai hoạt động, thực hiện nhiệm vụ công tác, quản
lý kinh phí, tài sản, tổ chức cán bộ và các quyết định hành chính, hành vi
hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng,
an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật thì Tòa án không có thẩm
quyền giải quyết và nằm ngoài phạm vi kiểm soát của hệ thống tư pháp đối
với cơ quan hành pháp. Như vậy, đối với các lĩnh vực này, việc kiểm soát sẽ
do nội bộ cơ quan hành pháp thực hiện hoặc chịu sự kiểm soát từ các cơ
quan giám sát của Hội đồng nhân dân và Quốc hội.
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối với
các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà

nước hoặc của người có thẩm quyền, quyết định kỷ luật buộc thôi việc của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống (cùng
phạm vi địa giới hành chính với Tòa án), trừ quyết định hành chính, hành vi
hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện. Đây là quy định mới của Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 tại khoản 1
Điều 31. Theo Luật Tố tụng Hành chính năm 2010 thì các quyết định hành chính,
hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
cấp huyện. Tuy nhiên, vì để khắc phục một số hạn chế trong quá trình giải
quyết, xét xử như ngại va chạm, nể nang của Thẩm phán;


19

tính phức tạp cao cần được giải quyết bởi các Thẩm phán có kinh nghiệm
công tác lâu năm cũng như để nâng cao hiệu quả, đảm bảo quyền con
người, quyền công dân nên Quốc hội đã thống nhất sửa đổi về thẩm quyền.

Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi người khởi kiện có nơi cư trú, làm
việc hoặc trụ sở có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối với các quyết
định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ; quyết định hành chính, hành vi hành chính của người
có thẩm quyền trong các cơ quan này và quyết định kỷ luật buộc thôi
việc của người đứng đầu cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương. Trường hợp
người khởi kiện không có nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở tại Việt Nam thì
thẩm quyền thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cơ quan, người có thẩm
quyền ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính bị khiếu kiện.
Các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính
nhà nước cấp tỉnh và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước cấp tỉnh; của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Chủ tịch Ủy ban

nhân dân cấp huyện bị khiếu kiện do Tòa án nhân dân tỉnh cùng phạm vi
địa giới hành chính giải quyết. Thẩm quyền giải quyết án hành chính của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh được quy định tại Điều 32 của LTTHC.

1.2.2.2. Kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước thông
qua hoạt động xét xử án dân sự
Quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền xem xét hủy quyết
định cá biệt trái pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm
quyền. Đây là các quyết định được ban hành để áp dụng một lần về một vấn đề
cụ thể đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự mà khi giải quyết vụ việc dân sự Tòa án cần phải xem xét
trong cùng vụ việc. Cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có


×