Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

Bảo đảm quyền đề nghị, kháng nghị giám đốc thẩm dân sự từ thực tiễn tòa án nhân dân cấp cao tại TP hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.68 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ THÙY

BẢO ĐẢM QUYỀN ĐỀ NGHỊ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC
THẨM DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP
CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ THÙY

BẢO ĐẢM QUYỀN ĐỀ NGHỊ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC
THẨM DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP
CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH


Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ KIM TIÊN

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và quá trình hoàn thành luận văn tốt
nghiệp tác giả nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ Ban Giám đốc Học viện,
Thầy Cô, Tòa án nhân nhân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Với lòng
biết ơn đó, tác giả:
Xin chân thành cảm ơn đến Ban giám đốc Học viện Hành chính Quốc
gia đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác giả hoàn thành khóa học.
Xin chân thành cảm ơn đến Cô TS. Đỗ Thị Kim Tiên, công tác tại Học
viện Hành chính Quốc gia – Người hướng đẫn khoa học đã trực tiếp hướng
dẫn tác giả hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn đến Thầy Cô trong Học viện và ngoài Học viện
đã truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như hỗ trợ về mặt thủ tục cần
thiết trong suốt thời gian học và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn đến Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh đã cung cấp số liệu cần thiết để tác giả hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 5 năm
2020
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Thùy



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của tôi.
Các số liệu trong luận văn do tôi thu thập là xác thực rõ ràng và luận văn này
chưa công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trước Học viện và
pháp luật.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 6 năm
2020
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Thùy


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt
BLTTDS 2004
BLTTDS 2015
TAND
TANDTC
TANDCC
TTDS
VKSND
VKSNDTC
VKSNDCC


Mở đầu.................................................................................................1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐỀ NGHỊ

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM DÂN SỰ............................................ 9
1.1. Khái quát về bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm dân sự..................................................................................................... 9
1.1.1. Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự......................................... 9
1.1.2. Quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự................12
1.1.3. ..Bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự15
1.2. Tính chất, đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm quyền đề nghị
kháng nghị giám đốc thẩm dân sự...............................................................16
1.2.1 Tính chất của bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm dân sự.....................................................................................................16
1.2.2. Đặc điểm của bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm dân sự.....................................................................................................16
1.2.3. Ý nghĩa của bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm dân sự.....................................................................................................21
1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền đề nghị
giám đốc thẩm dân sự...................................................................................23
1.3.1. Quy định pháp luật về đối tượng đề nghị kháng nghị giám
đốc thẩm dân sự.............................................................................................. 24
1.3.2. Quy định của pháp luật về thời hạn, hình thức, thủ tục thực
hiện quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự...................................27
1.3.3. Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết đề
nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự.......................................................... 33
Tiểu kết chƣơng 1.............................................................................38


Chƣơng 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN ĐỀ NGHỊ
KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN
NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...................40
2.1. Quy định pháp luật về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh trong việc bảo đảm quyền đề nghị kháng

nghị giám đốc thẩm dân sự.......................................................................... 40
2.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh trong việc giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm dân sự.....................................................................................................40
2.1.2. Phạm vi giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân
sự của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh........................42
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
dân sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
43
2.2.1. Thực tiễn công tác bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh......................43
2.2.2. Kết quả đạt được trong công tác bảo đảm quyền đề nghị kháng
nghị giám đốc thẩm dân sự tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh................................................................................................................43
2.3. Một số khó khăn, vƣớng mắc và nguyên nhân của khó khăn,
vƣớng mắc trong việc bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
dân sự tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh...........48
2.3.1. Một số khó khăn, vướng mắc................................................... 48
2.3.2. Nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc...................................50
Tiểu kết chƣơng 2.............................................................................63


Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM QUYỀN ĐỀ NGHỊ KHÁNG
NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TOÀ ÁN NHÂN
DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH................................64
3.1. Định hƣớng bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
dân sự............................................................................................................. 64
3.1.1. Quan điểm của Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền đề nghị
kháng nghị giám đốc thẩm dân sự...................................................................64
3.1.2. Quan điểm của Tòa án nhân dân tối cao về bảo đảm quyền đề

nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự.......................................................... 70
3.1.3. Quan điểm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh về bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự..............71
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
dân sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
73
3.2.1. Nhóm giải pháp chung..............................................................73
3.2.2. Nhóm giải pháp cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh.........................................................................................................81
Tiểu kết chƣơng 3.............................................................................89
KẾT LUẬN........................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………….92


Mở đầu
1.

Tính cấp thiết

Về nguyên tắc, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
phải được mọi người tôn trọng và thi hành. Tuy nhiên, trong quá trình giải
quyết vụ án, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà một số bản án, quyết định
đã vi phạm pháp luật, không phản ánh đúng bản chất, mục tiêu của việc xét
xử, không đảm bảo được công lý, mà còn ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự. Do đó, cần có cơ chế để xem xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật bằng việc xem xét lại bản án, quyết định đó theo thủ tục
giám đốc thẩm, để khắc phục, sửa chữa những sai sót của việc vi phạm pháp
luật. Quyết định kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
chủ thể có thẩm quyền là căn cứ để mở ra phiên tòa giám đốc thẩm.
Trong những năm gần đây, việc xây dựng và hoàn thiện chế định giám

đốc thẩm dân sự nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải
cách tư pháp. Chế định giám đốc thẩm dân sự đã được quy định khá chi tiết và
đầy đủ trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong đó, chế định giám đốc
thẩm là cơ sở để Tòa án bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; vô
hiệu hóa bản án, quyết định có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng; bảo
đảm việc xét xử đúng đắn, hợp pháp, các bản án, quyết định được thi hành
trên thực tế và tính ổn định và thống nhất của pháp luật.
Việc bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm cũng là nền tảng
để xây dựng các quy định về giám đốc thẩm dân sự. Trong công tác giải quyết
án dân sự, có những bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật được TAND cấp trên kiểm tra, giám đốc phát hiện ra những
sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc thông qua việc xem xét đơn đề nghị giám đốc
thẩm đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp

1


luật. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền đề
nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự trong chế định giám đốc thẩm có
những điểm chưa phù hợp với thực tiễn. Một số quy định còn chung chung,
chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng. Một số trường hợp chưa thống nhất, chưa được
nghiên cứu bổ sung. Sự bất cập của các quy định đó đã gây ra không ít khó
khăn cho đương sự, các cơ quan, tổ chức khác khi thực hiện quyền của mình,
do đó cần phải được rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật
để hoàn thiện.
Thực tế ở TANDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, việc nộp đơn
đề nghị giám đốc thẩm dân sự ở TANDCC không chỉ nhiều về số lượng, phức
tạp về nội dung tranh chấp mà còn có tình trạng nộp đơn đề nghị tràn lan,
thiếu căn cứ, không đủ điều kiện thụ lý. Những trường hợp này đã gây lên sức

ép lớn về khối lượng công việc cần giải quyết và làm phát sinh nhiều vướng
mắc phải có giải pháp khắc phục.
Từ nhận thức trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Bảo đảm quyền đề nghị
kháng nghị giám đốc thẩm dân sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh
giá các quy định pháp luật về bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm dân sự; chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, và nguyên nhân của vấn đề
này. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của
pháp luật, làm căn cứ cho các chủ thể có quyền thực hiện đúng đắn và đầy đủ
các quyền của mình, đồng thời, quyền của họ cũng được những chủ thể có
thẩm quyền bảo đảm. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp Toà án có căn cứ thụ lý, giải
quyết thoả đáng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
người dân khi thực hiện quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự ở
TANDCC Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và TAND có thẩm quyền của cả
nước nói chung.

2


2.

Tình hình nghiên cứu

Qua khảo sát, thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học
có liên quan đến đề tài này như sau:
-

Đề tài Khoa học cấp bộ "Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc

thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao, những vướng mắc và kiến nghị"

(2012), do Nguyễn Huy Du (Tòa án nhân dân tối cao) chủ nhiệm. Đề tài có đề
cập khái quát đến vấn đề thực hiện quyền yêu cầu kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự nhưng đề tài được thực hiện vào năm 2012,
giới hạn trong phạm vi ở Tòa án nhân dân tối cao. Trong khi hiện nay Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực pháp luật đã làm thay đổi cơ bản
thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có
những sửa đổi, bổ sung về trình tự, thủ tục thực hiện quyền yêu cầu kháng
nghị.
-

Sách Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự (2012), Nhà xuất bản

Lao động - Xã hội, chủ biên Trần Anh Tuấn bàn về Thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm dân sự và thủ tục xem xét lại các quyết định của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao. Trong sách này, tác giả đã đi sâu phân tích, so sánh
các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2004 với các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2011; đối chiếu với thực tiễn, giải thích một cách khoa học
và đưa ra một số vấn đề bất cập cần tiếp tục hoàn thiện của chế định giám đốc
thẩm, tái thẩm. Trong đó, tác giả đã trình bày một cách khái quát về quyền
yêu cầu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tác giả chưa chỉ rõ
những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành với
thực tiễn thực hiện quyền yêu cầu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm.

3


- Sách Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015 (2015), Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Chủ biên
Nguyễn Thị Hoài Phương. Nhóm tác giả sách này đã phân tích, bình luận các
điều luật cụ thể để làm nổi bật các quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, trong đó có các điều luật về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật.
-

Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội về: Giám đốc

thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam (2014), do Hà Thị Thúy Hà thực hiện.
Luận văn đã đề cập chi tiết đến đặc điểm cơ bản, ý nghĩa của thủ tục giám đốc
thẩm; sự hình thành và phát triển của quy định về giám đốc thẩm dân sự, nêu
ra những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật trên phương diện
lập pháp và thực tiễn, đặc biệt nêu lên thực trạng công tác giám đốc thẩm của
ngành Toà án, đồng thời đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng
dân sự. Tuy nhiên, đề tài này chưa đi sâu phân tích bảo đảm quyền đề nghị
kháng nghị giám đốc thẩm dân sự.
-

Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí

Minh, về Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự (2016) của Lê Sỹ Nguyên là
nghiên cứu đề cập về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dân sự trên cơ
sở phân tích trình tự, thủ tục nộp đơn đề nghị, hình thức, nội dung đơn theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Luận văn chưa đề cập đến việc bảo
đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự.
-

Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí


Minh, về Quyền yêu cầu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân
sự (2017) của Nguyễn Thị Lụa. Trong luận văn đã đề cập khái quát về chủ thể
có quyền yêu cầu, việc thực hiện yêu cầu kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm dân sự, trên cơ sở phân tích các quy định có liên quan tại
BLTTDS năm 2015 và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

4


Tình hình nghiên cứu trên cho thấy các công trình nghiên cứu về chế
định giám đốc thẩm khá nhiều nhưng hầu như chưa có công trình nào nghiên
cứu chuyên sâu về bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm dân sự. Do vậy, tác giả nhận thấy cần nghiên cứu một cách toàn diện từ
lý luận đến thực tiễn để hoàn thiện các quy định về bảo đảm quyền đề nghị
kháng nghị giám đốc thẩm dân sự; đưa ra những định hướng nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật và giải pháp khắc phục những khó khăn trong việc bảo
đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích
Luận văn nhằm làm rõ những bất cập trong quy định pháp luật về bảo
đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự ở Việt Nam và thực tiễn
bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự tại TANDCC Thành
phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, kiến nghị các giải pháp bảo đảm quyền đề
nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự tại TANDCC Thành phố Hồ Chí
Minh.
Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:

-

Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị

giám đốc thẩm dân sự, tính chất, đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm quyền đề
nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự. Liên hệ với quy định của Việt Nam
vấn đề này.
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng các
quy
định pháp luật về bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
tại Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và nguyên
nhân của những khó khăn, vướng mắc đó.


5


-

Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về bảo đảm

quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật của Việt Nam về bảo đảm quyền
đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự và việc áp dụng các quy định này
tại TANDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền đề nghị kháng
nghị giám đốc thẩm dân sự.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự

trong việc bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm thuộc lĩnh vực
dân sự; thực trạng bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
tại một cấp Tòa án là TANDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, các
đơn đề nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
được đưa vào nghiên cứu thuộc 23 tỉnh thành phía Nam thuộc thẩm quyền
theo lãnh thổ của TANDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể:
+

Về nội dung: Bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân

sự (bao gồm cả quy định pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật)
+

Về không gian: Hệ thống pháp luật của cả nước Việt Nam; Hoạt động

thực thi bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự là tại
TACC Thành phố Hồ Chí Minh.
+
5.

Thời gian: Từ ngày 01/6/2015 đến ngày 30/9/2019.
Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Quan điểm, chủ trương của

6



Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám
đốc thẩm dân sự.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cở sở sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, thống kê, hệ
thống hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận
văn Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn giải quyết vấn đề lý luận cơ bản về bảo đảm quyền đề nghị
kháng nghị giám đốc thẩm dân sự, các quy định của Việt Nam và việc áp dụng
pháp luật thông qua thực tiễn TANDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh. Luận
văn cũng đánh giá khách quan, toàn diện các quy định của pháp luật đã tác
động tới những chủ thể thực hiện quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
dân sự. Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, các quy
định của pháp luật còn vướng mắc trong thực tiễn bảo đảm quyền đề kháng
nghị giám đốc thẩm dân sự.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho TAND, VKSND
có thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm; luật sư, đương
sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng
để học tập nghiên cứu.
7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm dân sự


7


Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
dân sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3. Quan điểm bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
dân sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

8


Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐỀ NGHỊ
KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM DÂN SỰ
1.1. Khái quát về bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
dân sự
1.1.1. Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
1.1.1.1. Kháng nghị
Nhân danh Nhà nước để thực hiện chức năng xét xử, Tòa án ban hành
các bản án, quyết định để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các bên
đương sự khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Do đó, phán quyết của
Tòa án phải được cá nhân, cơ quan, tổ chức tôn trọng và được thi hành trên
thực tế. Một vụ án dân sự từ khi đương sự khởi kiện, Tòa án thụ lý, đưa vụ án
ra xét xử và ra bản án, quyết định, sẽ có hiệu lực pháp luật ngay nếu đương sự
không có kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị. Trường hợp nếu bản
án, quyết định đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị, thì vụ án đó tiếp tục được
xem xét ở Tòa án cấp phúc thẩm, lúc đó bản án, quyết định phúc thẩm sẽ có
hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp phát hiện bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng về pháp luật nội
dung, tố tụng thì người có thẩm quyền kháng nghị sẽ kháng nghị để xem xét
lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Trong Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2006), do Nhà xuất bản
Đã Nẵng xuất bản, Kháng nghị là bày tỏ ý kiến phản đối bằng đơn chính thức
[42]. Tác giả Nguyễn Văn Xô trong cuốn sách cũng có tên Từ điển tiếng Việt,
Nxb Thanh Niên thực hiện, quan niệm Kháng nghị là bày tỏ ý kiến phản đối
một việc gì [43]. Còn theo Từ điển mở Wiktionary thì “Kháng nghị là bày tỏ
ý kiến chống lại điều đã quyết nghị” [44].

9


Theo Từ điển Luật học: “Kháng nghị là việc người có thẩm quyền, bằng
đơn của mình gửi đến Tòa án có thẩm quyền làm ngừng hiệu lực phán quyết
của Tòa án trong bản án, quyết định để xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan và
đúng pháp luật” [40]. Theo khái niệm này, chỉ có những người được pháp
luật giao cho thẩm quyền kháng nghị mới được kháng nghị và hình thức
kháng nghị phải bằng văn bản. Tuy nhiên, quan niệm này có thể không đủ để
giải thích cho những vấn đề của thực tiễn phát sinh. Mặc dù kháng nghị là
phân tích chỉ ra những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, nhưng nếu trong phần quyết định của kháng nghị không có nội
dung tạm hoãn thi hành bản án, quyết định cho đến khi xét xử giám đốc thẩm
thì về nguyên tắc bản án, quyết định đó vẫn có thể bị thi hành. Trong thực tế,
đã có trường hợp mặc dù có quyết định kháng nghị nhưng không nêu việc tạm
hoãn thi hành án dẫn đến Cơ quan thi hành án vẫn tiếp tục thi hành bản án,
quyết định đó.
Mặc dù có cách diễn đạt khác nhau, nhưng hầu hết các quan điểm đều
cho rằng kháng nghị là việc phản đối bằng văn bản đối với một vấn đề đã
được được định đoạt, đối chiếu vào pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam thì đó
là sự phản đối lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Mục đích của kháng nghị là để thể hiện sự phản đối của chủ thể có thẩm

quyền kháng nghị đối với phán quyết của Tòa án thông qua việc ra bản án,
quyết định mà chủ thể kháng nghị cho rằng chưa khách quan, toàn diện và
đúng pháp luật để Tòa án có thể xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc
thẩm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của đương sự và đảm bảo pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
1.1.1.2. Giám đốc thẩm dân sự

10


Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự được tiến
hành trên cơ sở kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền khi phát hiện bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật vi phạm nghiêm trọng pháp
luật. Thủ tục này do Tòa án có thẩm quyền thực hiện nhằm kiểm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ của những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
bị kháng nghị. Có nhiều quan niệm khác nhau về giám đốc thẩm. Trong cuốn
Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam có ghi:“Giám đốc thẩm là xử lại một bản án
của Tòa án cấp dưới" [12]. Tuy nhiên, khái niệm này chưa làm rõ được nội
hàm của thủ tục giám đốc thẩm vì nếu việc xét xử lại một bản án của Tòa án
cấp dưới mà bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật thì không được
xem là thủ tục giám đốc thẩm mà là thủ tục xét xử phúc thẩm, đó là những
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhưng có kháng cáo
của các bên đương sự, hoặc kháng nghị của người có thẩm quyền. Còn Giám
đốc thẩm là xét xử lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Trong khoa học pháp lý, có nhiều quan điểm khác nhau về giám đốc
thẩm: Theo tác giả Nguyễn Đức Mai trong Bình luận khoa học tố tụng dân sự
cho rằng: “Giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục
đặc biệt có nhiệm vụ xét lại nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị do phát hiện có
vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm bảo đảm việc

xử lý vụ án được chính xác” [14]. Quan điểm này khẳng định giám đốc thẩm
không phải là một cấp xét xử do đó nó không phải tuân thủ theo các quy định
của pháp luật tố tụng như: thụ lý hồ sơ, thu thập tài liệu, chứng cứ, đưa vụ án
ra xét xử và ra bản án, quyết định như ở cấp xét xử sơ thẩm và xét xử phúc
thẩm… mà chỉ là thủ tục đặc biệt nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ
của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.

11


Cũng có những quan điểm lại cho rằng: “Giám đốc thẩm trong tố tụng
dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt của tố tụng dân sự, theo đó Hội đồng giám
đốc thẩm xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở kháng
nghị của người có thẩm quyền nhằm xác định những sai lầm, vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật"[8].
Trong lĩnh vực dân sự, giáo trình của Trường Đại Học Luật Hà Nội có
ghi: “Giám đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp
luật trong việc giải quyết vụ án” [36].
Qua những phân tích nêu trên, có thể hiểu kháng nghị giám đốc thẩm dân
sự như sau: Kháng nghị giám đốc thẩm dân sự là hoạt động tố tụng do người
có thẩm quyền thực hiện, phản đối bằng văn bản gửi cho Tòa án có thẩm
quyền khi phát hiện bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật
vi phạm pháp luật nghiêm trọng để Tòa án xem xét lại bản án, quyết định dân
sự đã có hiệu lực pháp luật một cách khách quan, chính xác và đúng pháp
luật.
1.1.2. Quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
Quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự xuất phát từ quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân, một trong những quyền cơ bản được Hiến

Pháp ghi nhận, tôn trọng bảo vệ và bảo đảm, cụ thể Điều 30:
“1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần
và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.

12


3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu
nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
Về cơ bản Điều 30 Hiến pháp năm 2013 là sự ghi nhận lại Điều 74 Hiến
pháp 1992 bằng quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất đảm bảo cho
các công dân được thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và buộc các cơ quan Nhà
nước, các nhà chức trách phải xem xét và giải quyết kịp thời. Đồng thời, Hiến
pháp năm 2013 đã có bước phát triển mới khi coi quyền này không những là
quyền của công dân mà là quyền con người khi thay thế thuật ngữ “công dân
có quyền” bằng “mọi người có quyền”. Hiến pháp không những nghiêm cấm
việc trả thù người khiếu nại, tố cáo mà đồng thời còn nghiêm cấm việc lợi
dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo để làm hại người khác. Đây
là sự kế thừa quy định của Hiến Pháp năm 1992. Thực tế cho thấy rằng việc
vu khống, vu cáo người khác là một hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm tổn
thất danh dự, nhân phẩm và cuộc sống bình thường của con người và công
dân.
Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để công dân có thể tiếp cận công lý. Vì
vậy, pháp luật tố tụng dân sự với tư cách là công cụ hữu hiệu bảo vệ các
quyền dân sự của công dân đã có những quy định cụ thể để bảo đảm cho
đương sự có khả năng bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Theo
đó, đương sự có đầy đủ các quyền tố tụng trong đó có quyền đề nghị kháng

nghị giám đốc thẩm dân sự đối với các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật.
Quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự cũng xuất phát từ hoạt
động kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật của Tòa án nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, các nhân. Những bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật cần phải được thi hành để bảo

13


đảm được quyền lợi của đương sự và bảo đảm cho việc thực thi công lý. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp thì bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật nhưng không đúng với bản chất sự việc, có vi phạm pháp luật hoặc
nếu có thi hành thì không chỉ gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ án mà đôi khi còn làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà
nước, cơ quan tổ chức hoặc cá nhân khác. Do đó, khi thấy bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu lực pháp luật gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự thì không chỉ đương sự trong vụ án mà các cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác cũng có quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị bản án,
quyết định đó theo thủ tục giám đốc thẩm.
Cho đến thời điểm hiện nay, tác giả chưa tìm thấy một khái niệm nào về
quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự. Nhưng theo từ điển tiếng
Việt thì quyền là cái mà pháp luật, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép
hưởng thụ, vận dụng, thi hành... và khi thiếu thì được yêu cầu để có, nếu bị
tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại; Theo từ điển luật học thì đề nghị của
đương sự là những điều đương sự đưa ra trong quá trình tố tụng, mong muốn
Tòa án xem xét giải quyết. Đề nghị của đương sự thể hiện quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự. Đương sự đưa ra đề nghị bằng việc gửi
đơn đề nghị cho người có thẩm quyền kháng nghị hoặc đến trực tiếp đề nghị.
Người có thẩm quyền kháng nghị có nhiệm vụ xem xét, giải quyết các đề nghị

của đương sự theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích và khái niệm nêu trên, có thể rút ra kết luận như sau:
Quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự là quyền của đương sự, cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác khi phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì có quyền đề nghị bằng văn
bản với người có thẩm quyền kháng nghị để họ xem xét và quyết định việc
kháng nghị bản án, quyết định đó.

14


1.1.3. Bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự
Bảo đảm “là làm cho chắc chắn, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có
đầy đủ những gì cần thiết” [41]. Như vậy, “bảo đảm” nghĩa là làm cho một
vấn đề nào đó được thực thi trên thực tế. Để làm cho vấn đề nào đó có tính
khả thi đòi hỏi có một cơ chế phù hợp với từng vấn đề cần thực hiện. Đặt
trong một ngữ cảnh để hiểu rõ nội hàm khái niệm bảo đảm, Từ điển Luật học
diễn giải: Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho các quyền công dân đã được
ghi trong các đạo luật phải được thực thi, phải tạo điều kiện cho công dân
hưởng các quyền đó. Trường hợp có sự vi phạm đến các quyền của công dân
thì phải áp dụng các biện pháp để loại trừ. Cán bộ, công chức nhà nước phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật trong trường hợp họ không hành động để
bảo vệ quyền lợi ích của công dân. Cũng có ý kiến cho rằng, bảo đảm là
những hoạt động, những công việc tạo ra các điều kiện, tiền đề cần thiết làm
cho quyền của chủ thể được thực hiện đầy đủ… Như vậy, bảo đảm là trách
nhiệm của một chủ thể (cá nhân, tổ chức) phải làm cho quyền và lợi ích của
chủ thể bên kia chắc chắn thực hiện được, nếu xảy ra thiệt hại thì phải bồi
thường.
Bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm được thực hiện thông
qua các cơ quan nhà nước như Quốc hội trong việc thiết lập hành lang pháp

lý, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc thực thi pháp luật, nhằm tạo điều kiện cho
người đề nghị có khả năng thực hiện được quyền đề nghị kháng nghị giám
đốc thẩm của mình trên thực tế và chịu trách nhiệm trong việc giám sát hoặc
giải quyết đề nghị đó.
Mỗi cơ quan Nhà nước nêu trên giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong
việc bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Tuy nhiên, Điều 102
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. 2. Tòa

15


án nhân dân ở nước ta hiện nay gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án
khác do luật định. 3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền là lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”. Việc quy
định Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án trong đó có xét xử
giám đốc thẩm dân sự là nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích của tổ chức, cá nhân.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả rút ra kết luận như sau: Bảo đảm
quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự là trách nhiệm của người có
thẩm quyền kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác trong việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm khi có đề nghị của người có quyền và
chịu trách nhiệm trong việc giải quyết đề nghị đó.
1.2. Tính chất, đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm quyền đề nghị kháng
nghị giám đốc thẩm dân sự
1.2.1. Tính chất của bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm dân sự
Tính chất của bảo đảm quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm dân sự

được thể hiện thông qua việc cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có
nhiệm vụ tiếp nhận, thụ lý, xem xét đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm,
nhằm kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của những bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị đề nghị.
Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt của TTDS, được tiến hành trên
cơ sở kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền khi phát hiện bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật vi phạm nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án. Thủ tục này do Tòa án có thẩm quyền thực hiện. Theo đó, chỉ
những chủ thể được pháp luật giao cho thẩm quyền kháng nghị mới được

16


×