Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Vai trò của hội liên hiệp phụ nữ trong quản lý nhà nước, từ thực tiễn huyện krông pắk, tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.59 KB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
….………./………….

BỘ NỘI VỤ
….………./………….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐẶNG THỊ PHƯƠNG THÙY

VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC – TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG PẮC,
TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG

ĐẮK LẮK - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
….………./………….

BỘ NỘI VỤ
….………./………….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐẶNG THỊ PHƯƠNG THÙY

VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ


TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC – TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG PẮC,
TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành:
Quản lý công Mã số: 8 34 04 03

LỜtiện AM ĐOAN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ HƯỜNG

ĐẮK LẮK - 2020


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Hường.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, chưa được công bố trong công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Đặng Thị Phương Thùy

1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, tác giả luận văn nhận được
rất nhiều sự động viên, giúp đỡ từ các cá nhân, tổ chức. Tác giả xin gửi lời
cảm ơn chân thành nhất đến:
Các quý thầy, cô giáo đã quản lý, giảng dạy trong chương trình đào tạo

cao học chuyên ngành Quản lý công, lớp HC22.TN11 tại Học viện Hành
chính quốc gia.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hường – người hướng dẫn khoa học đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn
này.
Lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Krông Pắc, Hội Liên hiệp phụ
nữ các xã, thị trấn của huyện Krông Pắc đã tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp
số liệu liên quan đến đề tài cho tác giả.
Gia đình, bạn bè luôn bên cạnh, động viên, khích lệ trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do trình độ còn hạn chế, chắc chắn
luận văn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Rất mong quý thầy cô và bạn
đọc góp ý.
Xin trân trọng cảm ơn!
Đắk Lắk, tháng 5 năm 2020

Tác giả luận văn

Đặng Thị Phương Thùy

2


Từ được viết tắt
Hội Liên hiệp Phụ nữ
Mặt trận Tổ quốc
Nghị định
Nghị quyết
Quản lý Nhà nước
Ủy ban nhân dân


3


DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Số hiệu
Bảng 2.1

Bảng 2.2

Bảng 2.3
Sơ đồ 2.1
Sơ đồ 2.2

4


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục viết tắt
Danh mục các bảng, sơ đồ
Mục lục
Mở đầu....................................................................................................................................... 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP
PHỤ NỮ TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC.................................................................... 14
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài.......................................................... 14
1.2. Quan điểm của Đảng về phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong quản lý nhà nước........................................................................................... 20

1.3. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong QLNN..................24
1.3.1. Vai trò của của các tổ chức chính trị - xã hội trong QLNN............19
1.3.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong QLNN..............22
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam trong quản lý nhà nước..................................................................................................... 28
1.5. Sự cần thiết phải nâng cao vai trò tham gia quản lý nhà nước của
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.............................................................................................. 33
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ
NỮ HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK TRONG THAM GIA QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC.............................................................................................................................. 38
2.1. Khái quát về Hội LHPN huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk..................38
2.2. Kết quả phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Krông
Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong quản lý nhà nước......................................................................... 48
2.2.1. Tham gia xây dựng luật pháp, chính sách............................................... 48

5


2.2.2. Tuyên truyền, vận động phụ nữ thực hiện luật pháp, chính sách 48

2.2.3. Tham gia tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách và các hoạt
động quản lý xã hội........................................................................................................................ 57
2.2.4. Kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội đối với việc thực hiện luật
pháp, chính sách............................................................................................................................... 60
2.3. Những bất cập trong phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong quản lý nhà nước........................................... 61
2.4. Đánh giá chung về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Krông
Pắc, tỉnh Đắk Lắk tham gia quản lý nhà nước................................................................. 64
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP
PHỤ NỮ TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC.................................................................... 71

3.1. Xu thế về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Krông Pắc, tỉnh
Đắk Lắk trong bối cảnh hội nhập............................................................................................ 71
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
trong quản lý nhà nước................................................................................................................. 73
3.2.1. Giải pháp về thể chế, chính sách.................................................................. 73
3.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ...........75
3.2.3. Nâng cao nhận thức, quan điểm của đội ngũ lãnh đạo về công tác
phụ nữ và công tác Hội................................................................................................................. 80
3.3. Giải pháp nâng cao vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Krông
Pắc trong quản lý nhà nước........................................................................................................ 80
3.3.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện
Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk............................................................................................................. 80
3.3.2. Nâng cao nhận thức, quan điểm của đội ngũ lãnh đạo cấp huyện
và cơ sở về công tác phụ nữ và công tác Hội................................................................... 84
Kết luận................................................................................................................................... 87
Danh mục tài liệu tham khảo....................................................................................... 90

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân
dân, theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Theo đó Nhân dân làm chủ vừa là một thành tố vừa là mục tiêu cao nhất khi
triển khai cơ chế trong thực tiễn. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của
mình không chỉ bằng hình thức dân chủ trực tiếp mà còn bằng hình thức dân
chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội…
Hiện nay ở Việt Nam, các tổ chức hội rất phong phú và đa dạng về loại

hình tổ chức, mục tiêu, tôn chỉ và phương thức hoạt động, nhưng chỉ có 6 tổ
chức chính trị - xã hội (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam) đặt dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức đoàn thể được hình thành nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng
của các thành viên; thu hút đông đảo Nhân dân tham gia quản lý các công
việc nhà nước, công việc xã hội; nâng cao tính tích cực của mỗi công dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội chính là cầu nối để Nhân dân phát huy
quyền làm chủ của mình trong việc tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ
nhà nước; là cơ sở để nhà nước lắng nghe những kiến nghị của Nhân dân, từ
đó ban hành ra các quyết định quản lý, điều hành. Đồng thời, Nhà nước cũng
phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội trong việc chăm lo lợi ích chính
đáng của Nhân dân, vận động các tầng lớp Nhân dân tích cực thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, thực hiện thắng lợi các chương
trình kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.

7


Hội LHPN Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập
hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ
nữ, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ. Tuy không
phải là một cơ quan quản lý nhà nước nhưng Hội LHPN có vai trò nhất định
trong công tác quản lý nhà nước, thể hiện trên cả mặt lý luận và thực tiễn.

Những năm qua, Hội LHPN huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã có
những đóng góp đáng kể, góp phần giúp nhà nước cũng như tổ chức Hội
thực hiện tốt chức năng quản lý của mình. Tuy nhiên, việc tham gia quản lý
nhà nước của Hội LHPN huyện vẫn tồn tại những hạn chế, khó khăn nhất

định. Để khắc phục những khó khăn, hạn chế đó, đồng thời đáp ứng yêu cầu
phát triển mới của huyện nhà, của Hội, cần thiết phải có các giải pháp thúc
đẩy vai trò tham gia quản lý nhà nước của Hội, làm cho việc tham gia quản
lý nhà nước của Hội có hiệu quả rõ nét hơn.
Chính vì lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ
nữ trong quản lý nhà nước – từ thực tiễn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk” làm
đề tài nghiên cứu khoa học cho luận văn của mình, với mong muốn có cái nhìn
tổng quan về vai trò tham gia quản lý nhà nước của Hội LHPN; đồng thời, qua
đó, giúp tác giả nâng cao kiến thức, phục vụ cho chính công việc của mình tại
cơ quan Hội LHPN huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vai trò của Hội LHPN trong QLNN được Đảng, Nhà nước quan tâm từ
rất lâu. Đã có một số bài viết, luận văn của các nhà nghiên cứu, chuyên gia,
tác giả, các cơ quan, tổ chức đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu sau đây:
-

Nguyễn Thị Kim Oanh (2012), Vai trò tham gia Quản lý Nhà nước

của các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại
học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã bước đầu xây dựng khung lý luận về vai

8


trò tham gia quản lý nhà nước của các cấp Hội LHPN Việt Nam. Song vẫn
chưa đi vào cụ thể, chi tiết đối với vai trò Hội LHPN cấp huyện và cơ sở trong
QLNN.
-


Lê Thị Mai (2016), Quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ

theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Luận văn đã cung cấp những lý luận cơ bản về quyền của phụ nữ trong
tham gia QLNN, đồng thời đánh giá được thực trạng quyền tham gia QLNN
của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến
quyền tham gia QLNN của Hội LHPN Việt Nam – tổ chức chính trị - xã hội
tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, thực hiện chức năng đại diện chăm lo,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, phụ nữ.
-

Vũ Đăng Minh (2009), “Phát huy vai trò của các cấp Hội Liên hiệp

Phụ nữ Việt Nam trong việc tham gia quản lý nhà nước”, Tạp chí Tổ chức
Nhà nước. Bài viết mang tính chất đánh giá ở tầm vĩ mô, để ứng dụng vào
từng địa phương cụ thể thì vẫn còn gặp một số khó khăn nhất định.
-

Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2017), Báo cáo sơ kết 5 năm thực

hiện Nghị định số 56/2012/NĐ-CP ngày 16/7/2012 của Chính phủ quy định
trách nhiệm của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp bảo đảm cho các cấp
Hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý nhà nước. Báo cáo đã đánh giá được
trách nhiệm của UBND các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội tham gia
quản lý nhà nước. Tuy nhiên chưa đề ra được phương hướng cụ thể để khắc
phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian tới.
-

Hội LHPN huyện Krông Pắc (2013), Báo cáo đánh giá kết quả thực


hiện Quy chế phối hợp giữa Hội Liên hiệp Phụ nữ với Ủy ban nhân dân
huyện về thực hiện Nghị định 56/2012/NĐ-CP. Nội dung còn mang tính chất
chung chung, chưa có số liệu cụ thể, những kiến nghị đề xuất chưa đi sâu giải
quyết được vấn đề còn tồn tại, hạn chế.

9


Cùng một số luận văn thạc sĩ Quản lý công khác có liên quan như:
-

H’ Ban Niê Kdăm (2016), Công tác tuyên truyền miệng của cán bộ

Hội LHPN cơ sở ở huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ quản lý
công, Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn đề cập đến một trong những
vai trò quan trọng, không thể thiếu của Hội LHPN trong tham gia quản lý nhà
nước, đó là công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ và nhân dân thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chỉ ra
những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và biện pháp khắc phục đối với công
tác tuyên truyền miệng tại các cơ sở Hội của huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk,
một huyện có nhiều nét tương đồng với huyện Krông Pắc mà tác giả luận văn
nghiên cứu. Từ đó tác giả luận văn có thể rút ra được một số bài học kinh
nghiệm trong công tác tuyên truyền miệng.
-

Lê Thị Ngọc Loan (2017), Quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên

địa bàn tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ quản lý công, Học viện Hành chính
Quốc gia. Tác giả đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước về bình đẳng giới, một

trong những nội dung QLNN mà các cấp Hội LHPN Việt Nam cùng với các
cơ quan quản lý nhà nước đang gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tuy nhiên,
luận văn chỉ đề cập đến vai trò chung của các cơ quan QLNN chứ không tập
trung phân tích riêng về vai trò của Hội LHPN.
-

Trần Văn Hào (2017), Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính

quyền cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ
quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn chỉ ra được thực trạng
về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện
Krông Pắc, chính là địa bàn mà tác giả luận văn nghiên cứu. Nghiên cứu việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã sẽ góp phần
nâng cao chất lượng công tác Hội tại Hội LHPN cơ sở, trong đó có chất lượng
của Hội trong tham gia QLNN.

10


Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về việc tham gia QLNN của Hội
LHPN còn tương đối ít, chưa cụ thể, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào về vai
trò tham gia QLNN của Hội LHPN cấp huyện và cơ sở nói chung, của các cấp
Hội LHPN huyện Krông Pắc nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu về vai trò của
Hội LHPN huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong QLNN giai đoạn hiện nay là
hoàn toàn cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa các vấn đề cơ sở lý luận, thực tiễn liên quan
đến vai trò của Hội LHPN trong QLNN, từ thực trạng trạng tham gia QLNN
của Hội LHPN huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk; luận văn đề xuất những nhóm

giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Hội LHPN huyện Krông Pắc,
tỉnh Đắk Lắk trong QLNN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn sẽ hướng tới giải quyết các
nhiệm vụ sau đây:
-

Hệ thống khung lý luận cơ bản về vai trò tham gia quản lý nhà nước

của Hội LHPN, tổng hợp, hệ thống lại các chủ trương của Đảng, các chế định
của pháp luật về vấn đề này.
Phân tích, đánh giá thực trạng tham gia QLNN của Hội LHPN
huyện
Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk và xác định nguyên nhân, cả ở góc độ chủ quan và
khách quan.
Đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao vai trò tham gia
quản
lý nhà nước của Hội LHPN huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian
tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


11


Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của Hội LHPN trong QLNN từ
thực tiễn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-


Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu trên địa bàn huyện Krông

Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể là Hội LHPN huyện, Hội LHPN 16 xã, thị trấn trên
địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
-

Phạm vi thời gian: từ năm 2011 đến tháng 12/2019.

Nội dung chủ yếu nghiên cứu về vai trò của Hội LHPN trong QLNN.

Trong phạm vi đề tài luận văn, tác giả chọn nghiên cứu vai trò của Hội LHPN
cấp huyện và cấp cơ sở trong QLNN.
5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận
dụng
các nguyên lý chung và phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước về vai trò của các tổ chức chính trị xã hội trong hoạt động QLNN. Tiếp
cận và triển khai đề tài từ góc độ khoa học quản lý công.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn kết hợp sử dụng các
phương
pháp phân tích, tổng hợp tài liệu thứ cấp, phương pháp thống kê, phương
pháp đối chiếu so sánh và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ và hệ thống hóa cơ sở lý luận về vai trò của

Hội LHPN trong QLNN. Xây dựng khung lý thuyết về vai trò của Hội LHPN
Việt Nam trong QLNN ở cấp Huyện và cơ sở.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn


12


Qua phân tích thực trạng tham gia QLNN của Hội LHPN huyện Krông
Pắc, tỉnh Đắk Lắk, luận văn đề ra các giải pháp góp phần nâng cao vai trò của
Hội LHPN huyện Krông Pắc trong QLNN.
Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho các nhà quản lý trong tổ chức chỉ đạo thực hiện nâng cao vai
trò tham gia QLNN của Hội LHPN Việt Nam nói chung và Hội LHPN huyện
Krông Pắc nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong
quản lý nhà nước
Chương 2. Thực trạng về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện
Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong tham gia quản lý nhà nước
Chương 3. Giải pháp nâng cao vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong
quản lý nhà nước

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ

TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm về Hội và tổ chức chính trị xã hội
Hội là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của công dân Việt
Nam, cùng chung mục đích, hoạt động không vì lợi nhuận, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng theo quy định của
pháp luật, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động; được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập, công nhận điều lệ và người đứng đầu
hội. [5].
Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam bao gồm: Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Cựu chiến
binh Việt Nam, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình;
cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp và
thống nhất hành động. [33].
Xét về bản chất, các tổ chức chính trị - xã hội này cũng là các hội quần
chúng tự nguyện, nhưng được tổ chức theo các nguyên tắc chặt chẽ hơn, quan
hệ chặt chẽ và trực tiếp hơn với đảng cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam,
chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm nòng
cốt trong mọi hoạt động và tổ chức của các hội quần chúng.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận cấu
thành hệ thống chính trị của nước ta, được hình thành nhằm đáp ứng những
lợi ích đa dạng của cách thành viên; thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản

14


lý các công việc nhà nước, công việc xã hội; nâng cao tính tích cực của mỗi

công dân. Trong xã hội ta, nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình
không chỉ bằng Nhà nước mà còn thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội. Vì vậy, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng cùng tác
động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm quyền lực
của nhân dân.
Được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, các tổ chức chính trị – xã hội
này đã từng bước đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, coi trọng
nhiệm vụ tập hợp và giáo dục vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tham
gia quản lý Nhà nước, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền, đẩy mạnh
phong trào thi đua lao động sản xuất xóa đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
1.1.2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính
trị, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có tư cách pháp nhân, đại
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt
Nam; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới. [20].
Vai trò, nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được quy định cụ
thể trong Điều lệ Hội LHPN Việt Nam. Theo đó, Hội LHPN Việt Nam thực
hiện tuyên truyền, giáo dục phụ nữ về chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng,
phẩm chất đạo đức, lối sống; thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển
kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc; tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản
biện xã hội và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới.

15


Hội viên Hội LHPN Việt Nam là phụ nữ Việt Nam từ 18 tuổi trở lên;

không phân biệt dân tộc, tôn giáo, ngành nghề, nơi làm việc, nơi cư trú, tán
thành điều lệ Hội và tự nguyện tham gia tổ chức Hội.
Từ ngày thành lập (ngày 20/10/1930) trên cơ sở hợp nhất của các tổ
chức tiền thân cho đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hội LHPN Việt Nam luôn đoàn kết, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp
phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất trung hậu, đảm
đang, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Với các hoạt động phong phú, thiết thực đối với đời sống của phụ nữ,
Hội LHPN Việt Nam đã và đang ngày càng thu hút đông đảo hội viên, phụ nữ
tham gia vào tổ chức Hội. Hiện nay cả nước có hơn 19 triệu hội viên, chiếm
tỷ lệ hơn 70% tổng số phụ nữ từ 18 tuổi trở lên. [21]. Hội viên của Hội LHPN
Việt Nam đa dạng, phong phú về dân tộc, tôn giáo, ngành nghề, trong đó: hội
viên là nữ cán bộ, công chức, viên chức và công nhân lao động là lực lượng
nòng cốt trong phong trào phụ nữ; hội viên là nữ thanh niên là lực lượng xung
kích trong phong trào phụ nữ. [20].
Về cơ cấu tổ chức, Hội LHPN Việt Nam được tổ chức ở 4 cấp: cấp
Trung ương, cấp tỉnh (bao gồm Hội LHPN các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và tương đương), cấp huyện (bao gồm Hội LHPN các quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương) và cấp cơ sở (bao gồm
Hội LHPN các xã, phường, thị trấn và tương đương). Hội LHPN cấp cơ sở là
nền tàng của tổ chức Hội. Hội LHPN cấp cơ sở quyết định thành lập các chi
hội; dưới chi hội có thể thành lập tổ phụ nữ. [20].
Cơ quan lãnh đạo các cấp Hội gồm:
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội là Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn
quốc.

16



-

Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp Hội là Đại hội đại biểu hoặc toàn thể hội

viên của của cấp đó.
-

Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo mỗi cấp Hội là Ban Chấp hành

cùng cấp.
-

Giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành, cơ quan lãnh đạo là Đoàn Chủ tịch

hoặc Ban Thường vụ cùng cấp.
Cơ quan chuyên trách các cấp Hội gồm: Trung ương Hội, Hội LHPN
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Hội LHPN các quận, huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh. Đây là những cơ quan tham mưu, giúp việc cho Ban
Chấp hành, Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ cùng cấp.
Về đội ngũ cán bộ, Hội LHPN Việt Nam có đội ngũ cán bộ, công chức
hùng hậu, đa dạng, gồm:
-

Cán bộ chuyên trách là Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội LHPN cấp Trung

ương, cấp tỉnh, cấp huyện, Chủ tịch Hội LHPN cấp cơ sở; cán bộ bán chuyên
trách là Phó Chủ tịch Hội LHPN cấp cơ sở và công chức chuyên trách Hội
LHPN các cấp. Đây là lực lượng giữ vai trò nòng cốt.
-


Ủy viên Ban Chấp hành không chuyên trách từ các ngành, các lĩnh

vực khác hoặc phụ nữ tiêu biểu được Đại hội Đại biểu phụ nữ các cấp bầu vào
Ban Chấp hành theo từng nhiệm kỳ. Đội ngũ này có đóng góp không nhỏ,
giúp cho các cơ quan chuyên trách Hội phát huy được trí tuệ của các tầng lớp
phụ nữ trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động; đồng thời, giúp
triển khai thực hiện nhiệm vụ được thuận lợi, hiệu quả hơn.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý ra đời từ khi xã hội loài người được hình thành. Con người
sinh sống theo tập quán quần tụ cộng đồng, có nhiều việc nảy sinh mà một
người không thể làm được hoặc làm được nhưng hiệu quả kém, cần phải được
phối hợp liên kết với số đông để cùng thực hiện. Từ những yêu cầu khách

17


quan đó, dần dần hình thành tổ chức. Muốn tổ chức đạt được mục tiêu cần
phải có sự phân công, phối hợp, chỉ huy gắn kết vai trò của cá nhân và tập thể
để đạt được mục tiêu dự kiến. Hoạt động này chính là quản lý. Quản lý diễn
ra trong mọi tổ chức từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô
lớn. Nó chính là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của mỗi tổ
chức. [3].
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý thông qua công cụ quản lý, phương pháp quản lý nhằm
đạt được mục tiêu dự kiến. [26]
Theo đối tượng quản lý, các hoạt động quản lý có thể phân chia thành
ba nhóm chủ yếu: quản lý giới vô sinh, quản lý giới sinh vật và quản lý xã
hội. Quản lý Nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn
tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của Nhà nước. [3].
Quản lý Nhà nước được hiểu trước hết là hoạt động của các cơ quan

Nhà nước thực thi quyền lực Nhà nước.
Về nguyên tắc, quyền lực Nhà nước hiện nay ở mọi quốc gia được chia
thành ba bộ phận cơ bản: quyền lập pháp (quyền ban hành và sửa đổi Hiến
pháp và luật, xây dựng các quy tắc pháp lý cơ bản để điều chỉnh tất cả các mối
quan hệ xã hội theo định hướng thống nhất của Nhà nước), quyền hành pháp
(quyền thực thi pháp luật) và quyền tư pháp (xử lý các vi phạm pháp luật).
Quản lý nhà nước chính là hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước do
các cơ quan nhà nước tiến hành đối với mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội,
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước
có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả
cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo
một định hướng thống nhất của nhà nước. [3].

18




nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công,

phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả
quyền lực thuộc về Nhân dân mà nền tàng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với gia cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của nhà nước. [33].
Từ đó có thể thấy chủ thể của quản lý nhà nước là các cơ quan trong
bộ máy nhà nước. Đối tượng của quản lý nhà nước là toàn thể nhân dân.
Hoạt động quản lý nhà nước diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng… Quản lý
nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, lấy pháp luật làm công cụ quản lý
chủ yếu với mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì sự ổn
định và phát triển của xã hội theo định hướng mà nhà nước đề ra.
Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc quản lý nhà nước cần có
sự phân cấp, phân quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương. Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 cũng đã quy định khá rõ vấn đề phân cấp, phân quyền giữa chính
quyền Trung ương và chính quyền địa phương. Theo đó, nội dung quản lý
nhà nước của chính quyền địa phương ở huyện và xã cơ bản như sau:
-

Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa

phương.
-

Quyết định các vấn đề của địa phương trong phạm vi được phân

quyền, phân cấp theo luật định.

19


Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy
quyền
làm chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại địa phương.
1.2. Quan điểm của Đảng về phát huy vai trò của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam trong quản lý nhà nước

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội đã và đang khẳng
định vai trò và tầm quan trọng trong hệ thống chính trị, đóng góp không nhỏ
vào công cuộc đổi mới đất nước.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 18/12/1986 đã nêu:
Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu
lực quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, củng
cố và phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng nhất
là Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Liên hiệp
Nông dân tập thể... Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ
chức quần chúng, hướng mạnh về cơ sở, thu hút đông đảo nhân dân vào các
phong trào cách mạng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta chỉ rõ:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo
lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành
mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách
mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với
Đảng, Nhà nước. Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục

20


đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật
pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi
mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã
hội.
Quyết định 217-QĐ/TW, 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về việc ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, quy định về
việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân
tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền là những văn bản có
tính chất căn bản, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt
hơn chức năng tham gia quản lý Nhà nước. Quy chế đã quy định cụ thể về
việc giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội như mục đích, tính chất giám
sát; nguyên tắc giám sát; chủ thể giám sát; đối tượng và nội dung giám sát;
phạm vi giám sát; phương pháp giám sát; quyền, trách nhiệm của các chủ thể
trong giám sát; điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát; việc xử lý vi phạm.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã
hội luôn được Đảng ta quan tâm, chú trọng. Tại Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25/10/2017 về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trong đó khẳng định:
“Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị – xã hội gắn với đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo
hướng tập trung cho cơ sở, gắn bó với đoàn viên, hội viên, từng bước khắc

21


×