Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Quản lý nhà nước về hoạt động của đạo tin lành trên địa bàn tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.44 KB, 139 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Quản lý Nhà nước về hoạt động của đạo
Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên” là công trình nghiên cứa của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Hoàng Văn Chức.
Nội dung của luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin
của một số tác phẩm, tạp chí khoa học, kết quả nghiên cứu của các đề tài khoa
học.
Các số liệu, trình bày trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng. Kết quả nghiên cứu trong luận văn đảm bảo tính khách quan, khoa học;
các trích dẫn theo đúng quy định và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình khoa học nào khác.
TÁC GIẢ

Võ Trịnh Thu Hiền


LỜI CẢM ƠN
Quá trình học tập, nghiên cứu và làm luận văn Thạc sỹ chuyên ngành
quản lý công, tác giả nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn, hỗ trợ nhiệt tình của
quý thầy, cô công tác tại Học viện hành Chính quốc gia. Tác giả xin gửi lời
cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô đã quan tâm, tạo điều kiện trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu.
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Hoàng Văn
Chức, người hướng dẫn khoa học, đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, tận
tình hướng dẫn nghiên cứu khoa học và giúp học viên hoàn thành luận văn
này.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên Ban
Tôn giáo tỉnh Phú Yên đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tác giả nghiên cứu và
hoàn thành Luận văn.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong quá trình nghiên cứu
nhưng luận văn sẽ không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được


những đóng góp, bổ sung của độc giả và hy vọng được tiếp tục nghiên cứu
toàn diện hơn về lĩnh vực quản lý Nhà nước về tôn giáo nói chung và về đạo
Tin lành nói riêng để góp phần vào công tác quản lý Nhà nước được tốt hơn,
góp phần hoàn thiện, cải cách nền hành chính Nhà nước ngày càng hiện đại,
tiến bộ hơn.
Tác giả

Võ Trịnh Thu Hiền


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTGCP

Ban Tôn giáo Chính phủ

BTNMT

Bộ Tài nguyên Môi trường

CHDCND

Cộng hòa dân chủ nhân dân

CP

Chính phủ

CT

Chỉ thị


KGVX

Khoa giáo văn xã

KH

Kế hoạch

KL

Kết luận

NĐ-CP

Nghị định Chính phủ

NQ

Nghị quyết

NXB

Nhà xuất bản

PGS.TS.

Phó Giáo sư Tiến sỹ

QH


Quốc hội

QLNN

Quản lý nhà nước

TCQLĐĐ

Tổng cục quản lý đất đai

TTg

Thủ tướng

TW

Trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân

UBTVQH

Ủy ban Thường vụ Quốc hội

VX

Văn xã



DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP HUYỆN CỦA TỈNH PHÚ

43

YÊN
Bảng 2.2. BẢNG TỔNG HỢP SỐ LIỆU TÍN ĐỒ TỈNH PHÚ YÊN

59


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠO TIN LÀNH

10

1.1. Khái niệm cơ bản liên quan đến luận văn
1.2. Sự cần thiết và những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý Nhà nước
về hoạt động của đạo Tin lành
1.3. Chủ thể, nội dung quản lý Nhà nước về hoạt động của đạo Tin
lành

1.3.1 Chủ thể, đối tượng quản lý
1.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành
ở một số địa phương
1.4.1 Kinh nghiệm của tỉnh Gia Lai
1.4.2. Kinh nghiệm của tỉnh Nghệ An
1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Phú Yên

10
19

Tiểu kết Chương 1

43

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẠO TIN LÀNH VÀ QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠO TIN LÀNH TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN

44

2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế- xã hội ảnh hưởng đến quản lý
nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú
Yên
2.2. Hoạt động của đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên
2.3. Thực trạng quản lý nhà nước về đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh
Phú Yên
2.4. Nhận xét quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành trên
địa bàn tỉnh Phú Yên
2.4.1. Kết quả quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành và

nguyên nhân
2.4.2. Hạn chế trong quản lý nhà nước đối với đạo Tin lành và
nguyên nhân

44

Tiểu kết Chương 2

77

28
28
31
37
37
39
40

53
63
74
74
75


CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠO
TIN LÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY

79


3.1. Dự báo xu hướng hoạt động và phát triển của đạo Tin lành và
quản lý đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên
3.2. Quan điểm của Đảng về công tác tôn giáo và đạo Tin lành
3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về hoạt động của đạo
Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên
3.3.1. Nâng cao nhận thức tuyên tuyền cho cán bộ, công chức và
tín đồ, chức sắc tôn giáo về công tác tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ở tỉnh Phú Yên
3.3.2. Hoàn thiện và bổ sung hệ thống văn bản pháp luật và chính
sách trong quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo và đạo
Tin lành trên địa bàn Tỉnh
3.3.3. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý tín ngưỡng, tôn giáo trên
địa bàn Tỉnh
3.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức quản lý nhà nước về
tôn giáo và đạo Tin lành trên địa bàn Tỉnh
3.3.5. Quản lý tôn giáo gắn với quản lý dân tộc chống lợi dụng hoạt
động của đạo Tin Lành gây mất ổn định chính trị trên địa bàn
Tỉnh
3.3.6. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào có đạo
trên địa bàn Tỉnh
3.3.7. Tăng cường thanh tra, kiểm tra trong quản lý Nhà nước về
hoạt động của đạo Tin lành trên địa bàn Tỉnh
3.4. Một số khuyến nghị
3.4.1. Đối với Trung ương
3.4.2. Đối với Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ
3.4.3. Đối với tỉnh Phú Yên
Tiểu kết Chương 3
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

79
90
95
95
97
100
103
106
107
109
110
110
110
111
113
115
117
123


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Đạo Tin lành ra đời ở Châu Âu vào thế kỷ XVI trong phong trào cải
cách Ki-tô giáo. Đạo Tin lành do Hội truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp Hoa Kỳ
truyền vào Việt Nam và đặc cơ sở đầu tiên tại thành phố Đà Nẵng vào năm
1911 [46]. Mặc dù có những bước thăng trầm trong quá trình tồn tại, phát
triển, nhưng với lòng kiên đạo của các nhà truyền giáo trong sứ mệnh “Mở
rộng Nước Chúa”, đạo Tin lành cho đến nay đã trở thành một tôn giáo lớn, có

ảnh hưởng nhiều mặt trong đời sống xã hội Việt Nam.
Xuất hiện muộn hơn những tôn giáo khác, nhưng đạo Tin lành lại phát
triển khá nhanh, đặc biệt ở vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Là
tôn giáo cải cách, có nhiều yếu tố tiến bộ, đề cao tính dân chủ, luật lệ, lễ nghi,
tổ chức giáo hội đơn giản nên đạo Tin lành có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với
đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.
Đạo Tin lành với giáo lý răn cho con người sống tiết kiệm, chuẩn mực
đạo đức, điều chỉnh hành vi, nhân cách của con người, tác động tích cực tới
suy nghĩ, hành động của một bộ phận đồng bào, góp phần hạn chế một số hủ
tục trong tang ma, cưới xin; giảm bớt các tệ nạn xã hội như trộm cắp, ma túy,
bạo lực trong gia đình, phần nào đáp ứng nhu cầu tâm linh của một bộ phận
đồng bào các dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạo Tin lành
cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế như tạo sự va chạm với các tập tục gia đình xã
hội, tín ngưỡng cổ truyền của cộng đồng dân tộc thiểu số.
Trong thời gian du nhập vào Việt Nam, đạo Tin lành đẩy mạnh việc
truyền giáo vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi, trong đó
có các huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Yên. Địa bàn các huyện miền núi của
Phú Yên với vị trí chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng, là nơi tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số với nhiều tín ngưỡng,
1


tôn giáo khác nhau, trình độ dân trí còn thấp, trình độ sản xuất còn kém phát
triển so với những vùng khác, nên các thế lực thù địch, chống đối nhà nước
luôn quan tâm đặt biệt tới và ra sức lợi dụng đạo Tin lành, kích động, lôi kéo
giáo dân, tuyên truyền đòi thành lập “Nhà nước Đêga”. Điều đó cho thấy, hoạt
động của đạo Tin lành ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh những yếu tố tôn giáo
thuần túy còn chứa đựng nhiều vấn đề mang tính phi tôn giáo rất phức tạp.
Đạo Tin lành du nhập vào tỉnh Phú Yên, đầu tiên là vào Sông Cầu (nay
là thị xã Sông Cầu) năm 1928, năm 1929 thì vào Tuy Hòa (nay là thành phố

Tuy Hòa) rồi dần dần lan rộng sang các địa phương khác trong tỉnh; năm
2018, Tin lành Phú Yên kỷ niệm 90 năm Tin lành đến Sông Cầu và năm 2019
kỷ niệm 90 năm Tin lành đến Tuy Hòa [4], [5]. Đến nay, có 09/09 huyện, thị
xã, thành phố, 52/110 xã, phường, thị trấn, 147/625 thôn, buôn, khu phố có
đạo Tin lành [8].
Tổng số tín đồ đạo Tin lành so với dân số tại địa phương là
4.724/1.020.400 người, chiếm 0,6% dân số của tỉnh; số tín đồ là người dân tộc
thiểu số: 1.683 người [7].
Trong những năm qua, với sự phát triển nhanh chóng về số lượng tín đồ
và hệ phái của đạo Tin lành; trước thời điểm Luật tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu
lực (01/01/2018) toàn tỉnh có 81 điểm nhóm, trong đó có 37 điểm nhóm của
06 hệ phái đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung;
còn lại 41 điểm nhóm thuộc 14 hệ phái Tin lành chưa được đăng ký sinh hoạt
tôn giáo [7]; bên cạnh đó, tình trạng chuyển nhượng, hiến, tặng đất đai và xây
dựng cơ sở thờ tự trái phép tại một số điểm nhóm đã đăng ký; sự gia tăng hoạt
động truyền đạo trái pháp luật, lôi kéo quần chúng, tranh giành tín đồ ở các
làng đồng bào dân tộc thiểu số giữa các tổ chức Tin lành đã được

2


công nhận và chưa được công nhận, … gây khó khăn không nhỏ trong công
tác quản lý nhà nước.
Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động của đạo Tin lành có
lúc có nơi chưa có sự thống nhất. Một số nơi còn có biểu hiện buông lỏng
quản lý, chưa kịp thời hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân của đạo Tin lành thực
hiện đúng quy định pháp luật, còn đùn đẩy trách nhiệm như: cấp đăng ký sinh
hoạt tôn giáo tập trung cho các tổ chức đã được nhà nước công nhận; giải
quyết, xử lý đối với hoạt động trái pháp luật, phức tạp về an ninh trật tự trong
đạo Tin lành. Việc tranh thủ chức sắc, chức việc, người có uy tín, công tác xây

dựng lực lượng “cốt cán phong trào” trong đạo Tin lành chưa phát huy hiệu
quả, còn nhiều bất cập.
Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo
Tin lành nhiều lúc, nhiều nơi nhất là ở cơ sở còn quá cứng nhắc. Công tác
tuyển dụng, bố trí cán bộ làm công tác tôn giáo không đúng chuyên môn diễn
ra trong thời gian dài; tổ chức bộ máy, đội ngũ làm công tác tôn giáo, nhất là
cấp xã còn kiêm nhiệm, chưa ổn định, dẫn đến việc tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền giải quyết công việc liên quan đến đạo Tin lành thiếu hiệu quả.
Mặc khác, nhận thức về hoạt động tôn giáo nói chung, đạo Tin lành nói
riêng của cấp ủy, chính quyền một số nơi còn chưa thống nhất, thiếu đồng bộ,
lúng túng; có nơi còn ngăn cản, hạn chế các hoạt động của đạo Tin lành; có
nơi buông lỏng quản lý, ngại va chạm, việc phân định chức năng của chính
quyền chưa rõ ràng.
Từ những lý do trên, tác giả chọn “Quản lý nhà nước về hoạt động
của đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên ” làm đề tài tốt nghiệp cao học
chuyên ngành Quản lý công không chỉ có một ý nghĩa nghiên cứu lý luận và
thực tiễn hiện nay trên địa bàn tỉnh Phú Yên, mà còn có ý nghĩa lý luận và

3


thực tiễn trên phạm vi cả nước trong quản lý nhà nước về hoạt động của đạo
Tin Lành.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Có khá nhiều công trình nghiên cứu về đạo Tin Lành, tiêu biểu như:
Max Weber (2010), Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản
(Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Bùi Văn Nam Sơn, Trần Hữu Quang dịch), Nhà
xuất bản Tri thức Hà Nội [35]. Tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa nền
đạo đức Tin lành và “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản. Ông đã coi các nhân tố
tôn giáo như có vai trò trung tâm trong sự hình thành của các nền văn minh và

đặc biệt là trong sự ra đời của tư duy lý Tây phương. Trên cơ sở đó, ông khảo
sát quan niệm đạo đức và động cơ ứng xử của các cá nhân thuộc các giáo phái
Tin lành, cũng như ý nghĩa mà họ gán cho hành động xã hội của mình, nhằm
đi đến giả thuyết cho rằng nền đạo đức Tin lành có một mối liên hệ tương đối
chọn lọc với tinh thần của chủ nghĩa tư bản; do vậy đã tạo ra một động lực
tinh thần cần thiết và thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Châu
Âu. Thậm chí ông còn khẳng định rằng, chủ nghĩa tư bản với tư cách là một
hệ thống kinh tế là sản phẩm của cải cách Tin lành.
Bensons Y Lendis (1986), Các hệ phái Tin Lành Mỹ, New York. Tác
giả phân tích tổng quan về sự hình thành và phát triển, vị trí và vai trò của các
hệ phái Tin lành trong đời sống xã hội nước Mỹ [18].
Bornen and Noble (1986), Các hệ phái Tin Lành Mỹ, New York. Tác
giả phân tích tổng quan về sự hình thành và phát triển, vị trí và vai trò của các
hệ phái Tin lành trong đời sống xã hội nước Mỹ. Mỗi hệ phái đều có lịch sử,
đặc điểm riêng bởi nguyên nhân ra đời, nó ảnh hưởng đến xu hướng thần học
cũng như đường hướng hoạt động của mỗi hệ phái [20].
Trác Tân Bình (2007), Lý giải tôn giáo, Nxb Hà Nội. Tác giả đi nghiên
cứu từ cơ bản đến cụ thể của phạm trù tôn giáo. Ngoài phần trọng tâm là tôn
4


giáo học, tác giả nghiên cứu về Kitô giáo với đời sống xã hội ở cả phương
Đông và phương Tây với những hình ảnh trong đời sống xã hội [52].
Trong nước đã có nhiều công trình, luận án, luận văn nghiên cứu về Tin
lành, tiêu biểu như: Hoàng Minh Đô (2001), chủ nhiệm đề tài nhánh, Đạo Tin
lành ở Việt Nam: Thực trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề đặt ra cho
công tác lãnh đạo, quản lý. Công trình đã khái quát đạo Tin lành trên thế giới
và Việt Nam, nêu rõ thực trạng và nguyên nhân, ảnh hưởng, xu thế và những
vấn đề đặt ra cho công tác đối với đạo Tin lành trong thời gian tới cho nước ta
[26].

Nguyễn Thanh Xuân (2002), Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành trên thế
giới và Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. Tác giả đã khái quát trình bày về
những vấn đề cơ bản của đạo Tin lành trên thế giới và Việt Nam như lịch sử ra
đời, phát triển, giáo lý, luật lệ, lễ nghi, mối quan hệ và ảnh hưởng của đạo Tin
lành đối với đời sống an ninh, chính trị xã hội tại những nơi có đạo [39].
Nguyễn Thanh Xuân (2006), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội. Cuốn sách đã giới thiệu tổng quan sơ lược về một số tôn giáo
lớn trên thế giới có ở Việt Nam và một số tổ chức, hệ phái của một số tôn
giáo. Trong đó đạo Tin lành tuy có số lượng tín đồ không nhiều nhưng được
tác giả chú ý đến với đặc trưng là một tôn giáo có sự phát triển nhanh, ảnh
hưởng lớn đến đời sống, xã hội ở nước ta trước đây cũng như hiện nay [41].
Trên địa bàn tỉnh Phú Yên từ sau thời điểm Luật tín ngưỡng, tôn giáo ra
đời chưa có công trình nghiên cứu, đề tài, luận văn về vấn đề đạo Tin lành; ở
các tỉnh lân cận như Gia Lai, Đăk Lăk đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề
tài, luận án, luận văn về vấn đề đạo Tinh lành như: Hoàng Tăng Cường
(2004), Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách kinh tế văn hóaxã hội trên địa bàn Tây Nguyên- Những vấn đề đặt ra với an ninh trật tự, Đề
tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công An, Thành phố Hồ Chí Minh [27]. Đinh Ngọc
5


Tùng (2005), Đạo Tin lành ở Đăk Lăk - Những vấn đề đặt ra với công tác an
ninh trật tự, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công An, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội [25].
Học viện hành chính Quốc gia đã có một số luận văn, luận án nghiên
cứu về công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo nói chung và
quản lý nhà nước đối với đạo Tin lành nói riêng như:
Hoàng Văn Chức (2009), Giáo trình Quản lý Nhà nước về tôn giáo và
dân tộc, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội [29].
Hoàng Văn Chức (2015), QLNN đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo ở Bình Định. Tạp chí Quản lý nhà nước. Số 10 [30].

Thiều Thu Hương (2009) Công tác quản lý Nhà nước đối với các tổ
chức, nhóm Tin Lành ngoài CMA ở Việt Nam hiện nay, Luận văn chuyên
ngành Tôn giáo học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội [48].
Hoàng Văn Bé (2014)

Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo

Tin lành trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk hiện nay, Luận văn thạc sĩ tôn giáo học,
Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [28].
Ở Phú Yên hiện nay, vấn đề nâng cao hiệu quả QLNN về hoạt động
của đạo Tin lành chưa có đề tài khoa học nào được công bố, mới chỉ được đề
cập đến trong những báo cáo tổng kết. Vì vậy, với đề tài đã chọn, tác giả luận
văn hi vọng sẽ làm sáng tỏ hơn những bất cập trong QLNN về hoạt động của
đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên hiện nay, đồng thời khuyến nghị các
giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về lĩnh vực nhạy cảm này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu cơ sở khoa học QLNN về hoạt động
của đạo Tin lành, áp dụng trong QLNN về đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú
6


Yên. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện QLNN về đạo Tin
lành ở tỉnh Phú Yên trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
+ Tổng quan cơ sở khoa học quản lý nhà nước về hoạt động của đạo
Tin lành ở nước ta.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng đạo Tin lành và quản lý Nhà nước về

đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên trong thời gian qua.
+ Phân tích phương hướng và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quản
lý nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên trong
thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý của nhà nước về hoạt động
của đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên theo quy định của pháp luật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước về hoạt
động của đạo Tin lành theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Về không gian: trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
- Về thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2019 (thời điểm triển khai thực
hiện Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác
đối với đạo Tin lành).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được hình thành trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác – Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chính sách của Đảng

7


Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tôn
giáo trong thời kỳ đổi mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn tác giả sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp sưu tầm số liệu, tài liệu;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;

- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp logic, lịch sử;
- Phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học quản lý nhà nước về hoạt
động tôn giáo nói chung, đạo Tin lành nói riêng và áp dụng trong quản lý nhà
nước về đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Làm rõ thực trạng hoạt động của đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú
Yên.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của đạo
Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
- Phân tích phương hướng và đề xuất giải pháp quản lý nhà nước về
hoạt động của đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
tôn giáo và cho các nhà quản lý đang thực thi công vụ trong công tác tôn giáo.
7. Kết cấu của luận văn
8


Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo; luận
văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Tin
lành
Chƣơng 2: Thực trạng đạo Tin lành và quản lý nhà nước về hoạt động
của đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về

hoạt động của đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Phú Yên.

9


Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT
ĐỘNG CỦA ĐẠO TIN LÀNH
1.1. Khái niệm cơ bản liên quan đến luận văn
1.1.1. Tôn giáo và hoạt động tôn giáo
1.1.1.1. Tôn giáo:
Tôn giáo là sản phẩm của con người, con người tạo ra tôn giáo để thỏa
mãn nhu cầu về đức tin- niềm tin tôn giáo, khi mà họ rơi vào trạng thái bất
lực, bế tắc. Tôn giáo đem lại cho họ niềm vui tinh thần theo kiểu “đền bù hư
ảo”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: tôn giáo vượt lên trên
những quan điểm đã có trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp
duy vật biện chứng triệt để và cách tiếp cận tôn giáo một cách khoa học về
nguồn gốc, bản chất và vai trò xã hội của tôn giáo, đưa lý luận tôn giáo lên
một tầm cao mới.
Ở phương diện bản thể luận, chủ nghĩa duy vật vô thần trước Mác đã
cho rằng: tôn giáo là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người. Tiếp tục cuộc
đấu tranh của chủ nghĩa duy vật vô thần chống lại các quan điểm duy tâm thần
học, Mác đồng tình với quan điểm “con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn
giáo không sáng tạo ra con người”.
Khẳng định luận điểm này, các nhà duy vật vô thần trước Mác đã có
công trong việc bác bỏ các quan niệm duy tâm thần học, nhưng họ mới dừng
lại ở chỗ xem tôn giáo là kết quả giản đơn của quá trình nhận thức của con
người, là biểu hiện sự hạn chế của trí tuệ. Mác đã không dừng lại ở đó, ông
xem xét tôn giáo như là sự phản ánh của những điều kiện kinh tế, xã hội nhất


10


định. Mác cho rằng: “Nhà nước ấy, xã hội ấy đã sản sinh ra tôn giáo” và tôn
giáo “ là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực” [22, Tr.12].
Xem xét tôn giáo từ phương diện bản thể luận với phương diện nhận
thức luận, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác tiếp tục công việc của chủ
nghĩa duy vật vô thần, vạch ra bản chất xuyên tạc, hư ảo của các biểu tượng
tôn giáo. Theo Mác “Tôn giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng xoay xung quanh
con người chừng nào con người chưa bắt đầu xoay quanh bản thân mình”
[22, Tr.13].
Để làm sáng tỏ thêm quan điểm này của Mác, Ăngghen trong tác phẩm
Chống Đuy rinh cũng đã viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản
ánh hư ảo vào đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ảnh trong đó những lực
lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”. [21,
Trang 437]. Các nhà nghiên cứu Mác- xít về tôn giáo thường coi câu nói trên
đây của Ăngghen là định nghĩa của chủ nghĩa Mác về tôn giáo.
Từ góc độ của khoa học quản lý Nhà nước, chúng ta có thể định nghĩa
tôn giáo như sau: Tôn giáo là một tổ chức, đại diện cho một tập thể người có
chung một niềm tin theo một giáo chủ hoặc một giáo lý và có một cấu trúc
nhất định thường gọi là giáo hội hay hội thánh.
Luật tín ngưỡng tôn giáo định nghĩa: tôn giáo là niềm tin của con
người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn
thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức [45].
1.1.1.2. Hoạt động tôn giáo
Luật tín ngưỡng tôn giáo [45], định nghĩa: hoạt động tôn giáo là hoạt
động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức tôn giáo.


11


Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của
một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công
nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo.
Sinh hoạt tôn giáo là việc bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý,
giáo luật, lễ nghi tôn giáo.
Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo nhằm thực hiện quy định của giáo
luật, hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt
động trong tổ chức tôn giáo.
1.1.2. Tín đồ và chức sắc tôn giáo
Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14 [45]:
Tín đồ là người tin, theo một tôn giáo và tổ chức tôn giáo thừa nhận.
Tín đồ là người có nhu cầu tôn giáo, đại đa số tín đồ là nông dân, hầu
hết có tinh thần yêu nước, gắn bó với dân tộc (ở Việt Nam). Họ có hai mặt
vừa là công dân (có đủ mọi quyền lợi và nghĩa vụ công dân); vừa là tín đồ của
một tôn giáo (có đủ mọi quyền lợi và nghĩa vụ tín đồ đối với đạo của họ). Họ
phải đồng thời đảm bảo hai mặt đó.
Chức sắc là tín đồ được tổ chức tôn giáo phong phẩm hoặc suy cử để
giữ phẩm vị trong tổ chức.
Chức sắc cũng là tín đồ của một tôn giáo, họ cũng có đủ những đặc
điểm của tín đồ. Họ là người ưu tú trong các tôn giáo, được các tổ chức tôn
giáo đào tạo, phong chức, phong phẩm, bầu cử, suy cử; có trình độ cao, có uy
tín với tín đồ, được tín đồ yêu quý, bảo vệ. Họ thường xuyên gần gũi tín đồ,
có ảnh hưởng lớn trong đời sống của tín đồ ( nắm “phần hồn” của tín đồ).
1.1.3. Tổ chức tôn giáo và cơ sở tôn giáo
Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14 [45].

12



Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của
một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công
nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo.
Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh
đường, trụ sở của tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp của tổ chức tôn giáo.
Địa điểm hợp pháp là đất, nhà ở, công trình mà tổ chức hoặc cá nhân có
quyền sử dụng hợp pháp theo quy định của pháp luật.
1.1.4. Đạo Tin lành
1.1.4.1. Đạo Tin lành trên thế giới
Tin lành, Tin mừng (Evangelical, church): đây là khái niệm chỉ về một
tôn giáo có niềm tin tốt lành, mang đến cho con người tin vui, tin tốt lành.
Người ta cho rằng, cách gọi này xuất phát từ ghi chép trong Kinh thánh: hãy
đem tin mừng đi giao giảng khắp nơi.
Tên gọi đạo Tin lành: Protestantism, Le Protestantisme (Đạo Thệ Phản):
là cách gọi của giới nghiên cứu Trung Quốc, tức là tôn giáo phản lại, chống lại
Giáo hội Công giáo lúc đó vì sự "xuống cấp" của nó, gắn với hành động ly
giáo của Martin Luther bắt đầu từ năm 1517.
Tân giáo, đạo cải cách (Reformism): đây là tên gọi xuất phát từ phong
trào cải cách khá triệt để của Calvin, đặc biệt là những cải cách về nghi lễ và
tổ chức giáo hội mà giáo thuyết của Calvin được gọi là giáo hội cải cách và
cũng do đó xuất hiện Reformism.
Đạo Tin lành ra đời ở Châu Âu vào thế kỷ XVI trong phong trào cải
cách Kitô giáo, dẫn tới việc ra đời của đạo Tin lành. Thực chất đó là cuộc cải
cách tôn giáo và chính trị xã hội sâu sắc. Đạo Tin lành là kết quả của sự khủng
hoảng đến mức trầm trọng về uy tín của Công giáo do những tham vọng
quyền lực trần thế, sự sa sút về đạo đức của hàng giáo phẩm; là kết quả của sự
lúng túng, bế tắc của nền thần học kinh viện thời trung cổ; là kết quả đầu tiên
13



mà giai cấp tư sản mới ra đời giành được trong cuộc đấu tranh chống lại giai
cấp phong kiến mà chỗ dựa tư tưởng của giai cấp này là đạo Công giáo.
Ở Đức, phong trào cải cách tôn giáo nổ ra đầu tiên với người khởi
xướng và trở thành lãnh tụ nổi tiếng của phong trào này là Matin Luther.
Những quan điểm của Luther đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân Đức
ủng hộ, nhất là các công hầu quý tộc. Đến năm 1532, trước sự lớn mạnh của
phong trào này, Hoàng đế Đức đã phải thừa nhận sự tự do hoạt động của đạo
Tin lành.
Ở Thụy Sĩ, gắn với tên tuổi của Jean Calvin, là trung tâm lớn thứ hai
của cuộc cải cách tôn giáo. Jean Calvin đã nghiên cứu và hình thành một giáo
thuyết riêng đồng thời cải cách về lễ nghi, giáo hội làm chuẩn mực cho phần
lớn các hệ phái Tin lành đi theo.
Từ hai trung tâm là Đức và Thuỵ Sĩ, phong trào cải cách tôn giáo phát
triển nhanh chóng sang Pháp, Scotlen, Ireland, Hà Lan, Anh, NaUy, Đan
Mạch... Đến cuối thế kỷ XVI đã hình thành một tôn giáo mới tách hẳn khỏi
đạo Công giáo. Trong quá trình phát triển của mình, đạo Tin lành đã hình
thành rất nhiều hệ phái khác nhau như Trưởng lão, Mennonai, Moóc Mông,
Ngũ tuần, Giám lý, Thanh giáo và Giáo hội cộng đồng, Cơ đốc Phục lâm,
Giáo hội thống nhất, Môn đệ đấng Chrits, Hội Liên hiệp Phúc âm Truyền giáo.
Mặc dù có nhiều tổ chức hệ phái Tin lành khác nhau, có những dị biệt
về giáo thuyết, nghi thức hành đạo và cách tổ chức Giáo hội nhưng nhìn chung
đều thống nhất ở những nội dung, nguyên tắc chính. có thể khái quát và so
sánh với đạo Công giáo như sau:
Về nhân sự: đạo Tin lành cũng có giáo sĩ như Công giáo. Giáo sĩ đạo
Tin lành có hai chức: Mục sư và Giảng sư, không áp dụng luật độc thân như
giáo sĩ đạo Công giáo. Một điều đặc biệt là giáo sĩ Tin lành có nhiều người là
14



nữ. Các giáo sỹ tuy cũng được coi là người chăm sóc linh hồn cho tín đồ
nhưng không có quyền thay mặt Chúa để ban phúc hay tha tội cho con chiên.
Về tổ chức: đạo Tin lành không lập ra tổ chức giáo hội mang tính chất
phổ quát cho toàn đạo mà đi theo hướng xây dựng các giáo hội riêng rẽ, độc
lập với những hình thức khác nhau theo từng hệ phái, từng quốc gia.
Về thần học: đạo Tin lành là một nhánh của Kitô giáo nên cũng lấy kinh
thánh Cựu ước và Tân ước làm nền tảng giáo lý. Khác với Công giáo, Tin lành
đề cao vị trí kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản duy nhất của đức tin và
sự hành đạo.
Đạo Tin lành cũng thờ Thiên chúa và thừa nhận chúa 3 ngôi: Cha, Con,
Thánh thần; tin muôn vật đều do thiên chúa tạo dựng. Nhưng trong tín điều về
Đức Bà hoài thai chúa Giêsu một cách mầu nhiệm, đạo Tin lành cho rằng
Chúa chỉ mượn lòng bà Maria làm nơi sinh thành chứ Maria không thể là mẹ
của Chúa dù theo bất cứ nghĩa nào, thậm chí sau khi sinh ra Giêsu, Maria
không còn đồng trinh nữa và còn sinh rất nhiều con cái: Giacôp, Giôdep,
Ximôn, Gruđa... Chính vì thế họ phản đối mọi sự thờ phụng bà Maria.
Đạo Tin lành là một tôn giáo đặc biệt đề cao lý trí trong đức tin. Do đó,
luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo của Tin lành đơn giản. Đạo Tin lành không
thờ các tranh ảnh, hiện tượng cũng như dị vật phản đối việc hành hương đến
các thánh địa. Trong bảy phép bí tích của đạo Công giáo, đạo Tin lành chỉ thừa
nhận và thực hiện phép rửa tội và phép thánh thể. Nếu tín đồ đạo Công giáo
xưng tội trong toà kín với linh mục là hình thức chủ yếu nhất thì tín đồ đạo Tin
lành khi xưng tội và cầu nguyện có thể đứng giữa nhà thờ, đám đông để sám
hối hoặc nói lên ý nguyện của mình một cách công khai.
Đạo Tin lành với lối sống đạo nhẹ nhàng, đơn giản, không rườm rà,
không ràng buộc khắt khe như đạo Công giáo, lại đề cao tinh thần dân chủ
trong các hoạt động về tổ chức nên đạo Tin lành là một tôn giáo có màu sắc
15



mới mẻ, thích hợp với lối sống của giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công chức thị
dân nói chung trong xã hội công nghiệp. Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy
những nước có nền công nghiệp tiên tiến là những nước có đông người theo
đạo Tin lành như Thụy Điển, NaUy, Đan Mạch, Đức, Anh, Hà Lan, Mỹ…
Đạo Tin lành ra đời khi các tôn giáo lớn đã tạo được nhiều hình ảnh ở
những địa bàn nhất định. Ví dụ, như: Phật giáo ở Châu Á, Công giáo ở Châu
Âu, Hồi giáo ở Trung cận đông... Trước thực tế đó, Tin lành một mặt nỗ lực lôi
kéo Công giáo ở Châu Âu, mặt khác tìm đến vùng xa xôi hẻo lánh để phát
triển đạo. Ở những vùng này, đạo Tin lành không chỉ khai thác lợi thế là một
tôn giáo có lối sống đạo đơn giản, đề cao dân chủ và vai trò cá nhân mà còn
nghiên cứu rất kỹ đặc điểm văn hoá tâm lý, lối sống của từng dân tộc ở những
vùng này để có phương thức phù hợp.
1.1.4.2. Đạo Tin lành ở Việt Nam
Tên gọi đạo Tin lành được hình thành từ đầu thế kỷ XX, khi Kinh thánh
được các Giáo sỹ Hội truyền giáo CMA (The Christian and Missionary
Alliance- CMA) cùng một số dịch giả người Việt như: Trần Văn Dõng, Phan
Khôi, dịch sang Tiếng Việt và phổ biến rộng rãi trong những năm 20, 30 thế
kỷ XX. Các dịch giả đã không sử dụng từ Tin mừng để dịch thuật ngữ Phúc
Âm (Evangelical, để chỉ tin vui mừng trong lời Chúa Kitô) mà dùng từ Tin
lành. Danh xưng đạo Tin lành sau đó được sử dụng phổ biến đến nay [38,
Tr.10].
Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp Hoa Kỳ truyền đạo Tin lành vào
Việt Nam và đặt cơ sở đầu tiên tại thành phố Đà Nẵng vào năm 1911. Khi bắt
đầu được truyền vào Việt Nam được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau, như
“đạo Rối” (tôn giáo gây nên phức tạp cho đời sống tôn giáo, xã hội), “đạo
Hoa Kỳ” (đạo của người Mỹ), đạo "bỏ ông bỏ bà" (tôn giáo bỏ thờ cúng tổ
tiên).

16



Trước khi đạo Tin lành được truyền vào, Việt Nam đã có các tôn giáo
lớn như: Phật giáo, Lão giáo, Công giáo. Đạo Tin lành có mặt ở Việt Nam vào
những năm cuối thế kỷ XIX do tổ chức Tin lành Liên hiệp phúc âm và truyền
giáo Mỹ (The Christian and Missionary of Aliiance - CMA) truyền vào. Tổ
chức này đã cử nhiều mục sư sang Việt Nam để tìm hiểu và thăm dò: Mục sư
Tiến sĩ A.B Sumpsm (1887); D.Leclacher (1893); C.H Reves (1897); S.Dayan
(1901)...Đến năm 1911, CMA đã cử R.A.Jaffray, Paul.M.Husel, G.LoyHugher
đến Đà Nẵng lập Hội thánh đầu tiên. Đây là sự kiện đánh dấu mốc cho sự
truyền bá đạo Tin lành vào Việt Nam. Từ cơ sở ở Đà Nẵng, các giáo sĩ hội
truyền giáo mở thêm một số cơ sở khác ở những vùng lân cận như: Hội An,
Tam Kỳ, Đại Lộc... và cử người dân đi truyền đạo ở Bắc kỳ và Nam kỳ với
các hoạt động chủ yếu là: dịch Kinh thánh, lập nhà in và mở trường đào tạo
mục sư truyền đạo.
Nguyên nhân do chính quyền Pháp ở Việt Nam không ưa đạo Tin lành,
họ lo ngại ảnh hưởng của Mỹ thông qua việc phát triển đạo Tin lành. Do vậy,
đạo Tin lành trong thời kỳ này hoạt động rất khó khăn. Khi chiến tranh thế
giới thứ nhất xảy ra, thực dân Pháp cho rằng các giáo sĩ Tin lành làm gián điệp
cho Đức nên đã ra lệnh đóng cửa nhà thờ Tin lành và cấm các giáo sĩ Tin lành
hoạt động. Ngoài ra, người Pháp còn dựa vào Hoà ước ngày 06/6/1884 chỉ cho
phép Thiên chúa giáo được truyền bá vào Việt Nam. Toàn quyền Đông dương
đã cho đóng cửa nhà thờ, trục xuất giáo sỹ truyền giáo CMA. Tới năm 1927,
khi phong trào dân chủ Pháp lên cao thì những lệnh cấm này mới được huỷ
bỏ. Thế nhưng trong sự cấm đoán đó, đạo Tin lành vẫn tìm mọi cách để phát
triển. Tới năm 1918, CMA đã lập được 5 chi hội ở Bắc kỳ, 6 chi hội ở Trung
kỳ và 5 chi hội ở Nam kỳ. Tất cả các chi hội Tin lành lúc đó đều được giấy
phép hoạt động cả của khâm sứ 3 kỳ và đều lấy tên là: “Hội thánh Tin lành
Đông Pháp” (MEI).
17



Giai đoạn từ năm 1924 - 1927, đã có 04 Đại hội đồng của Đạo Tin lành
được tổ chức. Đại hội đồng lần thứ IV ở Đà Nẵng đã bầu ra Ban Trị sự Tổng
liên Hội thánh Tin lành Việt Nam do mục sư Hoàng Trọng Thừa làm Hội
trưởng đầu tiên. Đến năm 1954, đạo Tin lành có khoảng 60.000 tín đồ với gần
100 mục sư truyền đạo. Trụ sở chung của Giáo hội Tin lành Việt Nam được
đặt tại Hà Nội.
Năm 1954 (sau Hiệp định Giơnevơ), đạo Tin lành ở hai miền Nam - Bắc
có sự khác nhau. Ở miền Bắc số đông tín đồ giáo sĩ bị đế quốc Mỹ và các thế
lực thù địch kích động nên đã di cư vào Nam. Những người ở lại miền Bắc đã
lập tổ chức giáo hội riêng lấy tên gọi là Hội thánh Tin lành Việt Nam thường
gọi là Tổng hội Tin lành miền Bắc với những hoạt động bình thường, phạm vi
ảnh hưởng không lớn, số lượng tín đồ cũng tăng một cách không đáng kể. Ở
miền Nam, những năm 1954 – 1975, lợi dụng cuộc chiến tranh xâm lược, đế
quốc Mỹ, CMA đã lập ra Tổng liên hội thánh Tin lành Việt Nam thường gọi là
Hội thánh Tin lành Việt Nam.
Bên cạnh hệ phái CMA, ở miền Nam còn có hệ phái Tin lành cũng du
nhập từ Mỹ vào từ những năm 30 của thế kỷ XX, phát triển chủ yếu sau những
năm 50, đó là phái Cơ đốc Phục lâm. Đây là hệ phái lớn thứ hai sau CMA, có
hệ thống giáo hội với hơn 10.000 tín đồ, gần 40 mục sư, 34 nhà thờ và một số
cơ sở tôn giáo xã hội khác. Hội thánh cơ đốc Phục lâm còn có hơn 20 hệ phái
vào truyền giáo, xây dựng cơ sở ở miền Nam như: Pentecostim (Ngũ tuần),
(Nhân chứng Giêhôva), Jehovah’s Witnesses, Baptism.
Hơn 100 năm đạo Tin lành vào Việt Nam, chúng đã có cơ sở trong quần
chúng ở nhiều vùng trên đất nước, hiện nay đã có khoảng hơn một triệu tín đồ,
có mặt 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với khoảng 80 tổ chức, hệ
phái và nhóm khác nhau, trong đó có 10 tổ chức đã được Nhà nước công nhận
và cấp đăng ký hoạt động tôn giáo. Đặc biệt là khoảng 10 năm trở lại đây, đạo
18



Tin lành phát triển đột biến ở Tây Nguyên, Tây Bắc và vùng dân tộc thiểu số
đang đặt ra một số vấn đề nhạy cảm, phức tạp cần được giải quyết, tháo gỡ.
1.1.5. Quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành
Quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành theo nghĩa rộng là tất
cả các cơ quan nhà nước (bao gồm cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp)
đều có trách nhiệm tham gia và theo nghĩa hẹp là Ủy ban Nhân dân các cấp
quản lý nhà nước đối với đạo Tin lành theo quy định của pháp luật và phân
cấp quản lý.
Quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành là quá trình chấp hành
pháp luật (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp) để điều chỉnh các quá trình
tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân (tín đồ, chức
sắc). đạo Tin lành diễn ra theo qui định của pháp luật.
Để công tác quản lý Nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành được đi
vào nền nếp thì hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và chính sách của nhà
nước phải đồng bộ, hợp lý; tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác quản lý nhà nước về tôn giáo phải ổn định; được đào tạo chuyên môn
phù hợp, bài bản, đủ tầm.
1.2. Sự cần thiết và những yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc
về hoạt động của đạo Tin lành
1.2.1. Sự cần thiết quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Tin lành
1.2.1.1. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực
Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài, trong xu hướng toàn cầu hóa và
hiện đại hóa tôn giáo hiện nay, việc hoạt động của các tôn giáo nói chung và
hoạt động của đạo Tin lành nói riêng ở tỉnh Phú Yên đang phát triển ngày càng
mạnh. Bên cạnh xu hướng đồng hành cùng dân tộc, thuần túy tôn giáo, tuân
thủ Hiến pháp, pháp luật cũng đã xuất hiện hoạt động tôn giáo không bình
thường, vi phạm pháp luật, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống đối
19



×