Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Quản lý Nhà nước về thị trường dịch vụ viễn thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 115 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
MỤC LỤC I
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VI
Viễn thông là nói về sự liên lạc với những nơi rất xa. Viễn thông (trong các ngôn ngữ Châu Âu xuất phát từ tele
của tiếng Hy Lạp có nghĩa là xa và communicare của tiếng La tinh có nghĩa là thông báo) miêu tả một cách
tổng quát tất cả các hình thức trao đổi thông tin qua một khoảng cách nhất định mà không phải chuyên chở
những thông tin này đi một cách cụ thể (thí dụ như thư). Các tín hiệu nhìn thấy được đã được sử dụng trong thế
kỷ 18 như hệ thống biểu hiện các chữ cái bằng cách đặt tay hay 2 lá cờ theo một vị trí nhất định (semaphore),
hay máy quang báo (heliograph) là một dụng cụ truyền tin bằng cách phản chiếu ánh sáng mặt trời 4
Theo nghĩa hẹp hơn, ngày nay viễn thông được hiểu như là cách thức trao đổi dữ liệu thông qua kỹ thuật điện,
điện tử và các công nghệ hiện đại khác. Các dịch vụ viễn thông đầu tiên theo nghĩa này là điện báo và điện
thoại. Ngày nay các thiết bị viễn thông là một thành phần cơ bản của hệ thống hạ tầng.Các dịch vụ viễn thông
đầu tiên theo nghĩa này là điện báo và điện thoại. Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh Bưu chính viễn thông được
Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá X thông qua ngày 25/5/2002 [I.19.T.121.122.134],
các khái niệm thuộc lĩnh vực viễn thông được đề cập gồm thiết bị viễn thông, thiết bị mạng, thiết bị đầu cuối,
điểm kết cuối, dịch vụ viễn thông, đường truyền dẫn, tài nguyên thông tin (kho số viễn thông, phổ tần số vô
tuyến điện, tài nguyên internet, quĩ đạo vệ tinh), sóng vô tuyến điện, thiết bị vô tuyến. Dịch vụ viễn thông được
định nghĩa là dịch vụ truyền ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác nhau
của thông tin giữa các điểm kết cuối của mạng viễn thông. Theo qui định tại điều 37 - Nghị định số 109/CP,
dịch vụ viễn thông đuợc hiểu là dịch vụ truyền đưa, lưu trữ và cung cấp thông tin bằng hình thức truyền dẫn,
phát, thu những ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh thông qua mạng lưới viễn thông công
cộng do doanh nghiệp ung cấp dịch vụ viễn thông cung cấp 5
Theo quy định tại Điều 3- Luật Viễn thông số 41/2009/QH12, dịch vụ viễn thông được hiểu là dịch vụ gửi,
truyền, nhận và xử lý thông tin giữa hai hoặc một nhóm người sử dụng dịch vụ viễn thông, bao gồm dịch vụ cơ
bản và dịch vụ giá trị gia tăng 5
Từ những trình bày ở trên có thể khẳng định, dịch vụ viễn thông là kết quả tất yếu được nẩy sinh từ yêu cầu sản
xuất ra các phương thức, phương tiện truyền tải thông tin nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý
xã hội và nhu cầu đời sống con người. Quá trình truyền tải thông tin không những thường gắn liền với quá trình
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hoặc giữa các quá trình đó với nhau. Nó được xác định bằng đại lượng thời gian,


không gian truyền tin. Quá trình truyền tải thông tin ban đầu được thực hiện thông qua dịch vụ , nhưng dưới tác
động của nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, dịch vụ viễn thông đã được hình thành và phát triển
nhanh với nhiều loại hình phong phú, đa dạng. Dịch vụ viễn thông thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể cung
cấp và thụ hưởng dịch vụ truyền tải thông tin thông qua hoạt động của ngành và viễn thông 5
+ Dịch vụ viễn thông là sản phẩm vô hình 6
+ Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ viễn thông là không chia tách được 6
+ Dịch vụ viễn thông có tính không ổn định 7
+ Dịch vụ viễn thông không thể dự trữ được 9
Thứ nhất, quản lý nhà nước trong phát triển thị trường dịch vụ viễn thông nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi thông
tin giữa các chủ thể trong sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội và đời sống sinh hoạt của con người 24
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những thách thức đối với sự phát triển của thị trường dịch vụ viễn thông là: 35
2.4.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra về quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ viễn thông 42
Thông tin duyên hải 60
Tại Nghệ An có Đài Bến Thuỷ, ngoài ra còn có các đài duyên hải của lực lượng biên phòng. Thực hiện các dịch
vụ gồm trực canh cấp cứu nghề cá và hàng hải, phát bản tin thời tiết, thông tin trên biển. Hàng hải Được trang
bị tốt theo tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc, định vị, cứu nạn. Liên lạc theo chuẩn
GMSS bằng các phương thức vệ tinh, HF, VHF. Vùng phủ sóng toàn cầu. Các tàu đánh bắt hải sản trang bị
thiết bị liên lạc thô sơ, cả nước chỉ có 50% số tàu đánh bắt xa bờ có thiết bị ICOM, theo quy định bắt buộc phải
có thiết bị ICOM, một số ít có thiết bị định vị GPS. Hạn chế do không có khả năng kinh tế và do trình độ ngư
dân chưa sử dụng thành thạo các thiết bị liên lạc. Tần số vô tuyến điện dành cho tàu cá dải 26 - 27Mhz 60
4.2.2. Mục tiêu cơ bản và các chỉ tiêu chủ yếu 87
4.3. Giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ viễn thông trên địa bàn
tỉnh Nghệ An 89
4.3.1. Giải pháp về cơ chế chính sách 89
i
4.3.2. Tăng cường vai trò của chính quyền địa phương trong quản lý thị truờng dịch vụ viễn thông 90
4.3.3. Đổi mới tổ chức hoạt động của thị trường dịch vụ viễn thông trên địa bàn 94
4.3.4. Phát triển và ứng dụng có hiệu quả những nhân tố của thị trường dịch vụ viễn thông cho tiến
trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà 98
4.3.5. Thực hiện hiệu quả chương trình Viễn thông công ích trên địa bàn 101

4.3.6. Đẩy mạnh phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh để thúc đẩy cầu về dịch vụ viễn thông 101
4.3.7. Đẩy mạnh đào tạo phát triển nguồn nhân lực và thu hút nhân tài 102
KẾT LUẬN 106
ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG BIỂU
MỤC LỤC I
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VI
Viễn thông là nói về sự liên lạc với những nơi rất xa. Viễn thông (trong các ngôn ngữ Châu Âu xuất phát từ tele
của tiếng Hy Lạp có nghĩa là xa và communicare của tiếng La tinh có nghĩa là thông báo) miêu tả một cách
tổng quát tất cả các hình thức trao đổi thông tin qua một khoảng cách nhất định mà không phải chuyên chở
những thông tin này đi một cách cụ thể (thí dụ như thư). Các tín hiệu nhìn thấy được đã được sử dụng trong thế
kỷ 18 như hệ thống biểu hiện các chữ cái bằng cách đặt tay hay 2 lá cờ theo một vị trí nhất định (semaphore),
hay máy quang báo (heliograph) là một dụng cụ truyền tin bằng cách phản chiếu ánh sáng mặt trời 4
Theo nghĩa hẹp hơn, ngày nay viễn thông được hiểu như là cách thức trao đổi dữ liệu thông qua kỹ thuật điện,
điện tử và các công nghệ hiện đại khác. Các dịch vụ viễn thông đầu tiên theo nghĩa này là điện báo và điện
thoại. Ngày nay các thiết bị viễn thông là một thành phần cơ bản của hệ thống hạ tầng.Các dịch vụ viễn thông
đầu tiên theo nghĩa này là điện báo và điện thoại. Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh Bưu chính viễn thông được
Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá X thông qua ngày 25/5/2002 [I.19.T.121.122.134],
các khái niệm thuộc lĩnh vực viễn thông được đề cập gồm thiết bị viễn thông, thiết bị mạng, thiết bị đầu cuối,
điểm kết cuối, dịch vụ viễn thông, đường truyền dẫn, tài nguyên thông tin (kho số viễn thông, phổ tần số vô
tuyến điện, tài nguyên internet, quĩ đạo vệ tinh), sóng vô tuyến điện, thiết bị vô tuyến. Dịch vụ viễn thông được
định nghĩa là dịch vụ truyền ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác nhau
của thông tin giữa các điểm kết cuối của mạng viễn thông. Theo qui định tại điều 37 - Nghị định số 109/CP,
dịch vụ viễn thông đuợc hiểu là dịch vụ truyền đưa, lưu trữ và cung cấp thông tin bằng hình thức truyền dẫn,
phát, thu những ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh thông qua mạng lưới viễn thông công
cộng do doanh nghiệp ung cấp dịch vụ viễn thông cung cấp 5
Theo quy định tại Điều 3- Luật Viễn thông số 41/2009/QH12, dịch vụ viễn thông được hiểu là dịch vụ gửi,
truyền, nhận và xử lý thông tin giữa hai hoặc một nhóm người sử dụng dịch vụ viễn thông, bao gồm dịch vụ cơ
bản và dịch vụ giá trị gia tăng 5

Từ những trình bày ở trên có thể khẳng định, dịch vụ viễn thông là kết quả tất yếu được nẩy sinh từ yêu cầu sản
xuất ra các phương thức, phương tiện truyền tải thông tin nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý
xã hội và nhu cầu đời sống con người. Quá trình truyền tải thông tin không những thường gắn liền với quá trình
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hoặc giữa các quá trình đó với nhau. Nó được xác định bằng đại lượng thời gian,
không gian truyền tin. Quá trình truyền tải thông tin ban đầu được thực hiện thông qua dịch vụ , nhưng dưới tác
động của nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, dịch vụ viễn thông đã được hình thành và phát triển
nhanh với nhiều loại hình phong phú, đa dạng. Dịch vụ viễn thông thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể cung
cấp và thụ hưởng dịch vụ truyền tải thông tin thông qua hoạt động của ngành và viễn thông 5
+ Dịch vụ viễn thông là sản phẩm vô hình 6
+ Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ viễn thông là không chia tách được 6
+ Dịch vụ viễn thông có tính không ổn định 7
+ Dịch vụ viễn thông không thể dự trữ được 9
 Các loại hình dịch vụ viễn thông
Thứ nhất, quản lý nhà nước trong phát triển thị trường dịch vụ viễn thông nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi thông
tin giữa các chủ thể trong sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội và đời sống sinh hoạt của con người 24
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những thách thức đối với sự phát triển của thị trường dịch vụ viễn thông là: 35
2.4.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra về quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ viễn thông 42
Thông tin duyên hải 60
Tại Nghệ An có Đài Bến Thuỷ, ngoài ra còn có các đài duyên hải của lực lượng biên phòng. Thực hiện các dịch
vụ gồm trực canh cấp cứu nghề cá và hàng hải, phát bản tin thời tiết, thông tin trên biển. Hàng hải Được trang
bị tốt theo tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc, định vị, cứu nạn. Liên lạc theo chuẩn
GMSS bằng các phương thức vệ tinh, HF, VHF. Vùng phủ sóng toàn cầu. Các tàu đánh bắt hải sản trang bị
thiết bị liên lạc thô sơ, cả nước chỉ có 50% số tàu đánh bắt xa bờ có thiết bị ICOM, theo quy định bắt buộc phải
có thiết bị ICOM, một số ít có thiết bị định vị GPS. Hạn chế do không có khả năng kinh tế và do trình độ ngư
dân chưa sử dụng thành thạo các thiết bị liên lạc. Tần số vô tuyến điện dành cho tàu cá dải 26 - 27Mhz 60
4.2.2. Mục tiêu cơ bản và các chỉ tiêu chủ yếu 87
iv
4.3. Giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ viễn thông trên địa bàn
tỉnh Nghệ An 89
4.3.1. Giải pháp về cơ chế chính sách 89

4.3.2. Tăng cường vai trò của chính quyền địa phương trong quản lý thị truờng dịch vụ viễn thông 90
4.3.3. Đổi mới tổ chức hoạt động của thị trường dịch vụ viễn thông trên địa bàn 94
4.3.4. Phát triển và ứng dụng có hiệu quả những nhân tố của thị trường dịch vụ viễn thông cho tiến
trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà 98
4.3.5. Thực hiện hiệu quả chương trình Viễn thông công ích trên địa bàn 101
4.3.6. Đẩy mạnh phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh để thúc đẩy cầu về dịch vụ viễn thông 101
4.3.7. Đẩy mạnh đào tạo phát triển nguồn nhân lực và thu hút nhân tài 102
KẾT LUẬN 106
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCVT – CNTT : Bưu chính viễn thông – Công nghệ thông tin.
BĐVHX : Bưu điện văn hóa xã.
BTS : Trạm phát sóng di động.
B-TSDN : Dịch vụ băng rộng đa phương tiện
CDMA : Đa truy nhập phân chia theo mã băng rộng.
CNTT : Công nghệ thông tin.
CNH , HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
CNTT – TT : Công nghệ thông tin – Truyền thông.
CSHT : Cơ sở hạ tầng.
EVN : Viễn thông điện lực.
GMPCS : Thông tin vệ tinh mặt đất toàn cầu
KTTT : Kinh tế thị trường.
KT-XH : Kinh tế xã hội
NCTT : Nghiên cứu thị trường.
NGN : Mạng thế hệ mới.
ODA : Tổ chức phát triển hải ngoại
TTTT : Thông tin truyền thông.
UBND : Ủy ban nhân dân.
Viettel : Công ty viễn thông quân đội.
VNPT : Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông.

VTCI : Viễn thông công ích.
WLL : Mạch vòng thuê bao vô tuyến
WTO : Tổ chức thương mại thế giới.
XHCN : Xã hội chủ nghĩa.
vi
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ
TRƯỜNG DỊCH VỤ VIỄN THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
NGHỆ AN
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Viễn thông là một trong những lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế có hàm lượng
khoa học và công nghệ cao. Hiện nay lĩnh vực này đang đóng vai trò quan trọng trong
việc giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá cả ở phạm vi toàn cầu, khu
vực và quốc gia. Vì vậy phát triển và ứng dụng công nghệ viễn thông trong đời sống
kinh tế – xã hội đang là một xu hướng phổ biến cả ở các nước phát triển và các nước
đang phát triển. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam xu hướng này đang là
một cơ hội và là một thách thức trên con đường tiến lên phía trước.
Nghệ An là một tỉnh có diện tích rộng, có nhiều tiềm năng để thúc đẩy sự phát
triển kinh tế – xã hội cho cả khu vực miền trung phía Bắc, song lại có địa hình
tương đối phức tạp. Vì vậy để khai thác và phát huy những tiềm năng kinh tế của
tỉnh, mạng viễn thông và gắn với đó là thị trường dịch vụ viễn thông ở Nghệ An
cũng sớm được hình thành. Tuy nhiên do dấu ấn của cơ chế cũ, do điều kiện địa
hình và sự không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế cũng như về mức sống
giữa các khu vực và các bộ phận dân cư trong tỉnh nên những năm qua thị trường
dịch vụ viễn thông ở Nghệ An vẫn chưa thực sự phát triển và tính cạnh tranh trên
thị trường này còn thấp. Là một cán bộ công tác trong ngành, với mong muốn vận
dụng những kiến thức đã được học vào thực tiễn và có những đóng góp thiết thực
cho địa phương, tác giả chọn đề tài: “ Quản lý Nhà nước về thị trường dịch vụ
viễn thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An” để viết luận văn thạc sĩ. Do phạm vi nghiên
cứu rộng, thời gian có hạn và trình độ của bản thân còn hạn chế nên chắc chắn kết

quả nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót, chưa hoàn thiện. Rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp của Các Thầy, Cô giáo và các bạn.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu, luận văn và luận án bàn về các khía
cạnh khác nhau có liên quan đến phát triển lĩnh vực Bưu chính – Viễn thông nói
1
chung và Bưu chính viễn thông ở Nghệ An nói riêng. Ví dụ:
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Phạm Thị Ngọc Lan: “Nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp ngành Bưu chính – Viễn thông Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế”.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Duy Lộc: “Tăng cường quản lý nhà nước
đối với lĩnh vực Bưu chính – Viễn thông trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Văn Hải: “Phát triển thị trường Bưu chính
– Viễn thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An”.
- Luận án tiến sỹ của tác giả Lê Ngọc Minh: “Phát triển kinh doanh của các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thông tin di động tại Việt Nam”
v.v
Tuy vậy chưa có một công trình nào bàn một cách có hệ thống và đi trực diện vào đề
tài: “Quản lý Nhà nước về thị trường dịch vụ viễn thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An”.
1.3 Mục đích nghiên cứu của luận văn.
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về thị trường dịch
vụ viễn thông nói chung qua đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của tỉnh Nghệ An
thông qua khảo sát, đánh giá về thực trạng và đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm
hoàn thiện quản lý Nhà nước các cấp để phát triển lành mạnh, đúng hướng thị
trường dịch vụ viễn thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Nhiệm vụ khoa học:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận quản lý Nhà nước về thị trường dịch vụ
viễn thông.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thị trường dịch vụ viễn

thông Nghệ An.
- Nêu lên phương hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản
lý nhà nước về thị trường dịch vụ viễn thông Nghệ An.
1.4 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về lý luận: Luận văn luận giải những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà
2
nước đối với thị trường dịch vụ viễn thông.
- Về thực tiễn: Luận văn lấy địa bàn tỉnh Nghệ An làm thực tiễn để khảo sát về
thực trạng và đưa ra những đề xuất, kiến nghị.
- Về thời gian: Luận văn đề cập quản lý nhà nước về thị trường dịch vụ viễn
thông trong trạng thái vận động, kể từ khi Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam
thực hiện đường lối Đổi mới nền kinh tế đến nay.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp phổ biến của khoa học kinh tế là phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp trừu tượng hoá, kết hợp logic với lịch sử,
phân tích với tổng hợp. Đồng thời sử dụng phương pháp kế thừa những kết quả
nghiên cứu đã có, kết hợp với khảo sát thực tế, thu thập thông tin, tài liệu phục vụ
cho việc nghiên cứu làm sáng tỏ chủ đề của luận văn.
1.6 Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với thị trường
dịch vụ viễn thông.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước thị trường dịch vụ viễn thông ở Nghệ
An trên cả 2 mặt: Thành tựu, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại.
- Đề xuất những kiến nghị về phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn
thiện quản lý nhà nước trong phát triển thị trường dịch vụ viễn thông trên địa bàn
tỉnh Nghệ An
1.7 Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu làm 4 chương
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu quản lý Nhà nước về thị trường dịch vụ viễn
thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Chương 2: Một số vấn đề lý luận về quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch
vụ viễn thông ở Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng quản lý Nhà nước về thị trường dịch vụ viễn thông trên
địa bàn tỉnh Nghệ An.
Chương 4: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý Nhà nước trong
3
phát triển thị trường dịch vụ viễn thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ VIỄN THÔNG
2.1. Dịch vụ viễn thông và thị trường dịch vụ viễn thông
2.1.1 Dịch vụ viễn thông
 Khái niệm về dịch vụ viễn thông
Viễn thông là nói về sự liên lạc với những nơi rất xa. Viễn thông (trong các
ngôn ngữ Châu Âu xuất phát từ tele của tiếng Hy Lạp có nghĩa là xa và
communicare của tiếng La tinh có nghĩa là thông báo) miêu tả một cách tổng quát
tất cả các hình thức trao đổi thông tin qua một khoảng cách nhất định mà không
phải chuyên chở những thông tin này đi một cách cụ thể (thí dụ như thư). Các tín
hiệu nhìn thấy được đã được sử dụng trong thế kỷ 18 như hệ thống biểu hiện các
chữ cái bằng cách đặt tay hay 2 lá cờ theo một vị trí nhất định (semaphore), hay
máy quang báo (heliograph) là một dụng cụ truyền tin bằng cách phản chiếu ánh
sáng mặt trời.
Theo quan điểm của Pete Moulton [II.9, Pg.25]: "Viễn thông là khoa học của
sự truyền đạt thông tin qua một khoảng cách dài sử dụng công nghệ điện thoại
hoặc công nghệ vô tuyến, nó liên quan đến việc sử dụng các công nghệ vi điện tử,
công nghệ máy tính và công nghệ máy tính cá nhân để truyền, nhận và chuyển
mạch âm thanh, dữ liệu, hình ảnh qua các phương tiện truyền dẫn khác nhau như
cáp đồng, cáp quang và truyền dẫn điện từ".
Tương tự quan điểm của Pete Moulton, trong bảng phân ngành của mình, tổ
chức thương mại thế giới (WTO) [II.14] cũng định nghĩa: "Viễn thông là tất cả sự

chuyển tải, truyền dẫn hoặc thu phát các ký hiệu, tín hiệu, chữ viết, âm thanh,
hình ảnh, giọng nói, dữ liệu thông qua các dây dẫn, sóng vô tuyến, cáp quang, các
phương tiện vật lý hoặc các hệ thống điện từ khác"
4
Theo nghĩa hẹp hơn, ngày nay viễn thông được hiểu như là cách thức trao
đổi dữ liệu thông qua kỹ thuật điện, điện tử và các công nghệ hiện đại khác. Các
dịch vụ viễn thông đầu tiên theo nghĩa này là điện báo và điện thoại. Ngày nay các
thiết bị viễn thông là một thành phần cơ bản của hệ thống hạ tầng.Các dịch vụ viễn
thông đầu tiên theo nghĩa này là điện báo và điện thoại. Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh
Bưu chính viễn thông được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
khoá X thông qua ngày 25/5/2002 [I.19.T.121.122.134], các khái niệm thuộc lĩnh vực
viễn thông được đề cập gồm thiết bị viễn thông, thiết bị mạng, thiết bị đầu cuối, điểm
kết cuối, dịch vụ viễn thông, đường truyền dẫn, tài nguyên thông tin (kho số viễn
thông, phổ tần số vô tuyến điện, tài nguyên internet, quĩ đạo vệ tinh), sóng vô tuyến
điện, thiết bị vô tuyến. Dịch vụ viễn thông được định nghĩa là dịch vụ truyền ký hiệu,
tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác nhau của thông tin
giữa các điểm kết cuối của mạng viễn thông. Theo qui định tại điều 37 - Nghị định số
109/CP, dịch vụ viễn thông đuợc hiểu là dịch vụ truyền đưa, lưu trữ và cung cấp
thông tin bằng hình thức truyền dẫn, phát, thu những ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ
viết, âm thanh, hình ảnh thông qua mạng lưới viễn thông công cộng do doanh nghiệp
ung cấp dịch vụ viễn thông cung cấp.
Theo quy định tại Điều 3- Luật Viễn thông số 41/2009/QH12, dịch vụ viễn
thông được hiểu là dịch vụ gửi, truyền, nhận và xử lý thông tin giữa hai hoặc một
nhóm người sử dụng dịch vụ viễn thông, bao gồm dịch vụ cơ bản và dịch vụ giá trị gia
tăng.
Từ những trình bày ở trên có thể khẳng định, dịch vụ viễn thông là kết quả
tất yếu được nẩy sinh từ yêu cầu sản xuất ra các phương thức, phương tiện truyền
tải thông tin nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội và nhu
cầu đời sống con người. Quá trình truyền tải thông tin không những thường gắn liền
với quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hoặc giữa các quá trình đó với nhau. Nó

được xác định bằng đại lượng thời gian, không gian truyền tin. Quá trình truyền tải
thông tin ban đầu được thực hiện thông qua dịch vụ , nhưng dưới tác động của
nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, dịch vụ viễn thông đã được hình
5
thành và phát triển nhanh với nhiều loại hình phong phú, đa dạng. Dịch vụ viễn
thông thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể cung cấp và thụ hưởng dịch vụ truyền
tải thông tin thông qua hoạt động của ngành và viễn thông.
 Đặc điểm dịch vụ viễn thông:
Dịch vụ viễn thông có những đặc điểm cơ bản của dịch vụ nói chung nhưng
đồng thời mang những sắc thái riêng, đặc thù gắn với hoạt động của ngành viễn
thông và nhu cầu của các chủ thể thụ hưởng dịch vụ viễn thông. Những đặc điểm đó
bao gồm: sản phẩm dịch vụ không mang hình thái hiện vật, hay là sản phẩm vô
hình; không chia tách được, thiếu ổn định và không thể dự trữ được.
+ Dịch vụ viễn thông là sản phẩm vô hình
Hầu hết các dịch vụ viễn thông không thể sờ mó hoặc sử dụng trước khi
mua, khách hàng khó có thể đánh giá được là họ đang mua gì trước khi mua. Sản
phẩm dịch vụ viễn thông khác với sản phẩm hàng hoá khác ở chỗ sản phẩm dịch vụ
viễn thông là loại sản phẩm hàng hoá đặc biệt, là dịch vụ truyền tải thông tin, không
có tính vật thể. Không thể kiểm tra, trưng bày hoặc bao gói dịch vụ được. Khách
hàng thường cảm thấy rủi ro hơn khi mua dịch vụ này so với các loại hàng hóa và
dịch vụ khác và điều này cản trở trao đổi dịch vụ. Các nhà cung cấp dịch vụ viễn
thông vượt qua các hạn chế này để tạo ra lợi thế cạnh tranh thông qua các cửa hàng
bán lẻ, hình ảnh tượng trưng và sử dụng các biểu tượng để thay thế hàng hóa vì bản
thân hàng hóa không thể nhìn thấy hoặc cầm nắm được. Các nhà cung cấp dịch vụ
viễn thông sẽ phải tạo ra các ý niệm hữu hình cho các dịch vụ của họ.
Nói chung, khách hàng khó đánh giá giá trị của bất cứ dịch vụ nào. Khách
hàng không thể hình dung các dịch vụ viễn thông họ sử dụng được tạo ra như thế
nào hay chi phí của dịch vụ là bao nhiêu.
+ Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ viễn thông là
không chia tách được

Quy trình sản xuất của dịch vụ viễn thông không được gián đoạn, phải đảm
bảo tính toàn trình, toàn mạng, không thể phân cắt. Quá trình sản xuất và tiêu
dùng dịch vụ diễn ra cùng một lúc. Khi một khách hàng nhấc ống nghe liên lạc
6
được với người cần gặp ở đầu máy bên kia là dịch vụ bắt đầu thực hiện được cuộc
gọi, và anh ta bắt đầu phải trả tiền. Hoặc khi bắt đầu gửi thư, gửi hàng hoá thì
cũng bắt đầu thực hiện quá trình vận chuyển thư, hàng hoá, và người gửi cũng đã
phải trả cước chuyển thư, chuyển hàng hoá bưu phẩm, bưu kiện trước đó. Nghĩa là
song song với quá trình hoạt động của cả hệ thống thông tin, hệ thống là đồng thời
với cả quá trình người tiêu dùng dịch vụ viễn thông, cũng đồng thời với quá trình
tính tiền cước các cuộc gọi, cước vận chuyển hàng hoá, tiền tệ… bằng giá cả thời
gian, trọng lượng và giá trị.
Quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra cùng một lúc. Ngược lại, đối với dịch
vụ viễn thông, nếu không có tiêu dùng dịch vụ thì hệ thống dịch vụ cũng không hoạt
động. Trên thực tế hệ thống dịch vụ viễn thông ở từng công đoạn, từng thời gian
hoạt động có sự gián đoạn, nhưng trong cả hệ thống dịch vụ thì luôn luôn hoạt động
24/24 giờ trong ngày. Vì vậy nếu khách hàng không sử dụng hết công suất phục vụ
thì cũng xẩy ra sự lãng phí trong cả hệ thống. Đây cũng là bài toán kinh tế cho các
địa phương, doanh nghiệp và chính phủ trong xây dựng qui hoạch phát triển, điều
hành sử dụng mạng lưới làm sao cho hợp lý, hiệu quả.
+ Dịch vụ viễn thông có tính không ổn định
Đối với khách hàng, dịch vụ và người cung cấp dịch vụ là một. Nhưng trên thực
tế thì chất lượng dịch vụ nhiều khi phụ thuộc vào các yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát
của nhà cung cấp dịch vụ, như đại diện của nhà cung cấp dịch vụ, môi trường cung cấp
dịch vụ, khách hàng được cung cấp dịch vụ. Khi một khách hàng nhấc ống nghe mà
anh ta chưa liên lạc được với người cần gặp ở đầu máy bên kia thì anh ta không phải
trả tiền, nhưng anh ta vẫn không hài lòng ngay cả khi biết rằng đây là trục trặc thường
xẩy ra rất ít. ở dịch vụ cũng vậy, việc mất mát, hư hỏng, chậm thời gian và các sự cố
rủi ro là hạn hữu. Khách hàng của dịch vụ viễn thông thường mong đợi sử dụng dịch
vụ với chất lượng cao và luôn sẵn sàng bất cứ lúc nào họ cần.

Vì vậy, các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông có thể giảm tính không ổn định
của dịch vụ bằng cách xây dựng thực hiện tốt tự động hoá các khâu trong cả hệ
thống, thực hiện tiêu chuẩn hoá qui trình cung cấp dịch vụ, tăng cường đào tạo nhân
7
viên và củng cố thương hiệu.
8
+ Dịch vụ viễn thông không thể dự trữ được
Sản phẩm vòng quay nhanh, bán và thu tiền nhanh, phạm vi rộng. Hệ thống
cơ sở hạ tầng của dịch vụ được dùng chung và thiết kế để có thể cung cấp một công
suất nhất định tại bất cứ thời điểm nào. Giảm giá cuối tuần và ban đêm cho điện
thoại đường dài và di động là biện pháp điều tiết nhu cầu sử dụng dịch vụ trên hệ
thống theo thời gian nhằm tránh quá tải của hệ thống, tăng hiệu quả kinh tế của dịch
vụ, tăng nhu cầu về dịch vụ. Những khoảng thời gian nào đó dịch vụ không bán
được cũng có nghĩa là bị thất thu vĩnh viễn. Thất thu còn xẩy ra khi hệ thống bị quá
tải, nghĩa là khi người ta thấy máy nào cũng bận thì họ có thể sẽ không thực hiện
cuộc gọi đó nữa.
Tóm lại, dịch vụ viễn thông là sản phẩm vô hình vì các dịch vụ không thể sờ
mó hoặc sử dụng trước khi mua. Dịch vụ viễn thông không chia tách được vì quá
trình sản xuất và tiêu dùng của dịch vụ diễn ra cùng một lúc. Dịch vụ viễn thông có
tính không ổn định vì chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào các yếu tố nằm ngoài sự
kiểm soát của nhà cung cấp. Dịch vụ viễn thông không thể dự trữ, cất vào kho được,
thời lượng dịch vụ không bán được cũng có nghĩa là bị lãng phí. Những đặc điểm
nêu trên có ảnh hưởng lớn tới hoạt động đầu tư vào ngành viễn thông.

Các loại hình dịch vụ viễn thông
Các dịch vụ viễn thông được phân loại theo nghiệp vụ đi liền với các thiết bị
đầu cuối như dịch vụ thoại, dịch vụ fax, dịch vụ điện báo, dịch vụ truyền số liệu,
dịch vụ di động, dịch vụ nhắn tin, dịch vụ internet v.v. Các dịch vụ viễn thông được
chia làm hai nhóm, đó là:
Một là, những dịch vụ viễn thông cơ bản: Dịch vụ viễn thông cơ bản là dịch

vụ truyền đưa tức thời dịch vụ viễn thông qua mạng viễn thông hoặc Internet mà
không làm thay đổi loại hình hoặc nội dung thông tin. Dịch vụ viễn thông cơ bản
gồm: Dịch vụ điện thoại; Dịch vụ điện báo; Dịch vụ Telex; Dịch vụ Fax; Dịch vụ
thuê kênh riêng; Dịch vụ truyền số liệu; Dịch vụ truyền hình, truyền ảnh, âm thanh;
Dịch vụ truyền báo điện tử; Dịch vụ điện thoại di động; Dịch vụ nhắn tin.
9
Hai là, những dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng: Dịch vụ viễn thông giá trị
gia tăng là dịch vụ làm tăng thêm giá trị thông tin của người sử dụng dịch vụ bằng
cách hoàn thiện loại hình, nội dung thông tin hoặc cung cấp khả năng lưu trữ, khôi
phục thông tin đó trên cơ sở sử dụng mạng viễn thông hoặc Internet. Dịch vụ viễn
thông giá trị gia tăng gồm: Dịch vụ thư điện tử; Dịch vụ hộp thư thoại; Dịch vụ lưu
trữ, cung cấp thông tin; Các dịch vụ Internet: thư tín điện tử, truyền tệp dữ liệu, truy
nhập từ xa, truy nhập các cơ sở dữ liệu theo các phương thức khác nhau.
Dịch vụ kết nối Internet là dịch vụ cung cấp cho các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ Internet khả năng kết nối với nhau và với Internet quốc tế.
Dịch vụ truy nhập Internet là dịch vụ cung cấp cho người sử dụng khả năng truy
nhập Internet. Dịch vụ ứng dụng Internet trong viễn thông là dịch vụ sử dụng
Internet để cung cấp dịch vụ viễn thông cho người sử dụng. Dịch vụ ứng dụng
Internet trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác phải tuân theo các quy định pháp
luật về viễn thông và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Việc phân loại các loại hình dịch vụ viễn thông như đã nêu ở trên chỉ nhằm
mục đích gắn kết việc quản lý dịch vụ với quản lý về kỹ thuật và nghiệp vụ đối với
từng loại dịch vụ đó. Trong điều kiện hội tụ công nghệ và dịch vụ viễn thông như
hiện nay cùng với việc xuất hiện của các công nghệ đa phương tiện (multimedia) thì
cách phân loại nói trên đã trở nên không còn phù hợp nữa. Đặc biệt là cũng không
phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường viễn thông trong thời gian sắp tới của đất
nước, khi mà sẽ có nhiều thành phần kinh tế tham gia vào thị trường cung cấp dịch
vụ viễn thông, sẽ dẫn đến việc không phân định rõ doanh nghiệp loại nào thì được
cung cấp dịch vụ gì, mức độ mở cửa đến đâu nên cơ quan quản lý sẽ phải quy định
một cách cứng nhắc bằng từng giấy phép cụ thể đối với từng loại dịch vụ cho từng

doanh nghiệp, dẫn đến việc không rõ ràng hay không minh bạch trong quản lý,
thậm chí có thể dẫn đến tình trạng có những hiểu lầm đáng tiếc từ phía xã hội về
việc vẫn tồn tại hay còn mang nặng tính chất độc quyền trong cung cấp các dịch vụ
viễn thông. Để khắc phục những vướng mắc này, thì việc xác định khái niệm và
phân loại dịch vụ viễn thông là hết sức quan trọng.
10
2.1.2 Thị trường dịch vụ viễn thông


Khái niệm thị trường dịch vụ viễn thông
Thị trường được hiểu là tổng hòa những mối quan hệ giữa người mua và
người bán để trao đổi hàng hóa. Thị trường dịch vụ viễn thông là tổng hòa
những mối quan hệ trao đổi giữa bên cung và bên cầu đối với các sản phẩm dịch
vụ viễn thông.
 Các yếu tố của thị trường dịch vụ viễn thông (cung dịch vụ, cầu dịch vụ, hệ
thông phân phối dịch vụ viễn thông).
- Về cung, cầu dịch vụ viễn thông.
Từ tháng 11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
WTO, đặt dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Việc gia
nhập WTO mang đến làn gió mới, động lực mới thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nền kinh tế tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao hơn 8%, thu hút sự quan tâm của
giới đầu tư nước ngoài, hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế thương mại ngày
càng minh bạch và thông thoáng hơn. Thị trường viễn thông Việt Nam tiếp tục đạt
được các bước tiến vượt bậc, hỗ trợ đắc lực cho các ngành kinh tế khác cùng phát
triển đồng thời cải thiện được vị trí trong bảng xếp hạng viễn thông châu Á.
Theo đánh giá của liên minh viễn thông Quốc tế ITU Việt nam là một trong
những quốc gia có tốc độ tăng trưởng viễn thông cao nhất thế giới. Tạp chí Telecom
Asia xếp thị trường di động Việt Nam là một trong 10 nước đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh nhất thế giới. Trên bảng xếp hạng phát triển viễn thông châu Á, BMI xếp thị
trường viễn thông Việt nam đứng thứ 14 (sau Thái Lan) về cả quy mô và tốc độ phát

triển của cả lĩnh vực cố định, di động và Internet. Tính đến hết 5/2008 mật độ điện
thoại trung bình của cả nước đạt 67 máy/100 dân với tổng số thuê bao trên toàn mạng
là 58 triệu. Tốc độ tăng trưởng vượt bậc trên là hệ quả của việc gia nhập WTO.
- Thị trường dịch vụ viễn thông cố định đạt mức tăng trưởng tốt trong năm
2006 với gần 2,8 triệu thuê bao mới tăng 43,5% so với năm trước, đạt mật độ 11
máy/100 dân, năm 2008 đạt 13 triệu thuê bao tương ứng với mật độ 15máy/100 dân.
11
Tốc độ tăng trưởng mạng cố định chủ yếu xuất phát từ nhu cầu thị trường tại các
vùng thành thị. Mặt khác, việc VNPT thông báo giảm 15-20% cước cố định cũng
bổ sung thêm cho sự tăng trưởng nhu cầu đối với dịch vụ thoại cố định. Tuy nhiên,
tốc độ tăng trưởng mạng cố định bị tác động rất nhiều bởi sự gia tăng mạnh mẽ của
các mạng di động, và tình trạng bão hoà nhu cầu thị trường tại vùng thành thị. Bởi
vậy, tốc độ tăng trưởng dịch vụ viễn thông cố định sẽ khoảng 13%, và mật độ điện
thoại cố định sẽ đạt 17% vào năm 2011. Với mật độ điện thoại này, Việt Nam vẫn
là một trong số nước có mật độ điện thoại thấp nhất tại châu Á đứng trên các nước
Indonesia, Pakistan, Philippines, và Ấn Độ.
-Thị trường dịch vụ Internet và dịch vụ băng rộng cũng đạt mức tăng trưởng
nhanh với 15 triệu NSD Internet tính đến cuối năm 2006, tăng 37% so với 2005.
Đến tháng 5/2007, đã có khoảng 1,5 triệu thuê bao Internet mới, nâng mật độ phổ
cập Internet lên 19,5%. Thị trường dịch vụ Internet sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng
trưởng hàng năm khoảng 10% và đạt mật độ 35% vào năm 2011. Dịch vụ băng rộng
đang tăng nhanh và sẽ vượt tốc độ tăng trưởng dịch vụ Internet. Theo số liệu của
Trung tâm Internet Việt Nam, thị trường băng rộng hiện có 517.000 thuê bao, tăng
146% so với năm trước, trong khi đó sau năm tháng đầu năm 2007, chỉ có 236.000
thuê bao Internet mới. Để đáp ứng nhu cầu dịch vụ băng rộng tăng nhanh, VNPT đã
quyết định tăng gắp đôi dung lượng các tuyến truyền dẫn cáp quang liên tỉnh để hỗ
trợ và cung cấp các dịch vụ trên nền mạng thế hệ mới (NGN). Tuy nhiên, hiện tại
các thuê bao băng rộng chủ yếu là các khách hàng DN. Kể từ khi gia nhập WTO,
Việt Nam đã chứng kiến việc các tập đoàn viên thông hùng mạnh tham gia thị
trường, như Vodafone đã lập văn phòng đại diện tại Việt Nam, Intel đã đầu tư nhà

máy sản xuất thiết bị, và còn rất nhiều các công ty lớn khác đang muốn gia nhập thị
trường viễn thông Việt Nam.
- Cạnh tranh sôi động nhất đang diễn ra trên thị trường di động giữa 6 nhà
cung cấp dịch vụ như Vinaphone,Mobifone, Viettel, EVN Telecom, SPT, HTC, qua
đó thúc đẩy thị trường di động đạt mức tăng trưởng nhanh. Thị trường dịch vụ di
động đạt mức tăng trưởng cao nhất với trên 10 triệu thuê bao mới trong năm 2006,
12
tăng 104% so với 2005, nâng tổng số thuê bao di động của Việt Nam lên khoảng 20
triệu. Thị trường bùng phát do nhu cầu tiêu dùng tăng cao, cùng với chính sách tạo
cạnh tranh trên thị trường viễn thông di động của Chính phủ. Các nhà khai thác này
không chỉ cạnh tranh trong phát triển thuê bao di động, mà còn cạnh tranh trong
phát triển các dịch vụ vô tuyến cố định trên nền mạng di động để cung cấp cho các hộ
gia đình có thu nhập thấp. Dịch vụ GPhone của VNPT là dịch vụ vô tuyến cố định mới
nhất của VNPT sử dụng nền mạng Vinaphone để cạnh tranh với các dịch vụ tương tự
như E-Com của EVN Telecom và dịch vụ vô tuyến cố định Home – Phone của Viettel.
Thị trường dịch vụ viễn thông ngày nay càng phát triển và ngày càng nhiều đối
thủ cạnh tranh cùng xuất hiện trên thị trường. Chính vì thế, môi trường cạnh tranh
và những yếu tố cạnh tranh trên thị truờng dịch vụ viễn thông đang làm nổi bật
những đặc thù của dịch vụ viễn thông.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ viễn thông – CNTT càng
làm phát sinh tăng nhu cầu sản phẩm viễn thông trong mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
Quy mô của thị trường dịch vụ viễn thông ngày càng được mở rộng với số
lượng và chất lượng dịch vụ ngày một tăng cao, đáp ứng được yêu cầu đa dạng của
khách hàng, hoà nhập với thị trường viễn thông khu vực và thế giới. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây
cũng đã có những bước tăng trưởng phát triển ổn định nhanh chóng, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân ngày được nâng cao. Việc cho phép mọi thành phần
kinh tế cùng tham gia kinh doanh, cùng với chính sách mở cửa và ngoại giao mềm
dẻo dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước đã làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày
một trở nên sôi động, nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ viễn thông sẽ còn tăng

cao, khả năng thanh toán của người dân ngày một lớn. Mức tiêu dùng dịch vụ viễn
thông của người dân tăng từ 446.974 đồng/người dân năm 2003 lên 804.484
đồng/người dân năm 2007, mật độ điện thoại tăng từ 3,25 máy/người dân năm 2003
lên 54 máy/người dân năm 2007 và một số chỉ tiêu cơ bản đánh giá sự tăng trưởng.
Quy mô của thị trường đã được mở rộng đến tận các xã vùng sâu vùng xa và đến
mọi tầng lớp dân cư. Trước đây, mạng lưới dịch vụ viễn thông với các dịch vụ
13
truyền thống chủ yếu chỉ tập trung ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, các
trung tâm kinh tế văn hoá-chính trị. Đến nay mạng lưới viễn thông đã được trải rộng
trên khắp cả nước, tới tận những nơi mà trước kia người dân rất hiếm khi được tiếp
xúc với các dịch vụ viễn thông như các xã miền núi vùng sâu vùng xa, biên giới, hải
đảo, Không những thế, các sản phẩm dịch vụ viễn thông còn được mở rộng với rất
nhiều loại hình dịch vụ mới, dịch vụ gia tăng giá trị dựa trên năng lực mạng lưới
hiện có, và nhất là các dịch vụ sử dụng công nghệ hiện đại ra đời đã đáp ứng được
những đòi hỏi ngày càng cao và khắt khe của mọi đối tượng khách hàng. Mức độ
phổ cập dịch vụ giữa các vùng, miền trong cả nước không còn khoảng cách cách
biệt cả về trình độ công nghệ và sản phẩm dịch vụ như những năm trước đây nữa.
Tốc độ tăng trưởng doanh thu trung bình hàng năm của thị trường dịch vụ viễn
thông đạt bình quân 20% - 25% trong vòng 5 năm qua, chủ yếu tập trung vào các
dịch vụ mới, có doanh thu hiệu quả kinh tế cao như điện thoại di động, điện thoại
quốc tế, Internet băng rộng, Trong một vài năm gần đây tốc độ tuy có chậm lại,
nhưng nhìn chung vẫn được đánh giá là một thị trường còn rất nhiều tiềm năng cho
các nhà khai thác kinh doanh viễn thông.
Cơ cấu khách hàng trên thị trường có sự thay đổi rõ rệt. Khi nền kinh tế còn
kém chậm phát triển, thu nhập của người dân còn thấp thì đối tượng sử dụng dịch
vụ chủ yếu là các cơ quan thuộc khối hành chính sự nghiệp, các đơn vị kinh tế quốc
doanh (chiếm từ 80-85% tổng doanh thu). Nền kinh tế phát triển tỷ lệ khách hàng là
các cơ quan hành chính sự nghiệp chỉ còn chiếm từ 10-15%, còn lại là các cá nhân
và doanh nghiệp kinh doanh. Theo số liệu điều tra của VNPT năm 2003 tỷ lệ thuê
bao điện thoại là các cơ quan hành chính sự nghiệp chỉ còn chiếm 7,28%, khối

doanh nghiệp Nhà nước là 9,28%, nhiều nhất là các thuê bao thuộc khối tư nhân
chiếm tới 82,19%. Và cho đến năm 2007 cơ cấu khách hàng theo thứ tự là 6,21%,
2,24% và 85% . Thị trường viễn thông ở nông thôn với hơn 80% dân số vẫn còn
đang rộng mở, hứa hẹn một tiềm năng khai thác rất lớn.
14
- Hệ thống kênh phấn phối dịch vụ viễn thông
a. Hệ thống kênh trực tiếp:
Kênh trực tiếp phát triển khách hàng qua hệ thống các cửa hàng doanh nghiệp.
- Hệ thống cửa hàng: phát triển sản phẩm, dịch vụ 2G,3G, ADSL, PSTN. Đặc
biệt cửa hàng là đơn vị tiếp nhận, xử lý yêu cầu của khách hàng trước và sau
bán.Khách hàng nhận diện, phản hồi đánh giá về chất lượng sản phẩm, dịch vụ do
Doanh nghiệp viễn thông cung cấp hầu hết qua hệ thống kênh cửa hàng.Cửa hàng là
thành phần rất quan trọng trong hệ thống kênh trực tiếp nói chung và hệ thống kênh
phân phối nói riêng.
b. Hệ thống kênh gián tiếp:
Hệ thống kênh gián tiếp bao gồm: đại lý, điểm bán, cộng tác viên đa dịch
vụ( nhân viên hỗ trợ địa bàn)
Sản phẩm được phép kinh doanh: bộ sản phẩm trả trước, sumo, homephone,
3G,ADSL, PSTN, thẻ cào
Hệ thống kênh gián tiếp hưởng hoa hồng qua cơ chế chính sách chiết khấu của
Doanh nghiệp viễn thông, có thể trực tiếp lấy hàng của Doanh nghiệp hoặc lấy hàng
qua các đại lý lớn . Riêng đội ngũ cộng tác viên đa dịch vụ thực hiện công tác thu
cước, lấy sản phẩm trực tiếp từ Doanh nghiệp viễn thông có được hưởng chiết khấu.
Hệ thống kênh phân phối đóng vai trò rất quan trọng nó làm nhiệm vụ đưa sản
phẩm từ nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng sao cho thoả mãn được nhu
cầu và mong muốn của khách hàng về số lượng và chủng loại sản phẩm, thời gian
và nơi chốn được cung cấp, chất lượng của sản phẩm và mức giá mà khách hàng có
thể chấp nhận được.
Hệ thống kênh phân phối đã trở thành công cụ cạnh tranh quan trọng trong dài
hạn khi nó trở thành một phần tải sản của công ty. Nó giúp giảm bớt những khó

khăn khi đưa sản phẩm vào thị trường nâng cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp và
góp phần nâng cao giá trị của doanh nghiệp.
15
Hệ thống kênh phân phối tăng cường khả năng liên kết và sự hợp tác giữa các cá
nhân và tổ chức hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối tiêu thụ trong một mục
đích chung, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho người tiêu dùng cuối cùng đồng thời
thoả mãn những mục tiêu riềng của mỗi bên.
Vấn đề tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
một doanh nghiệp. Doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến việc đưa ra thị trường sản
phẩm gì với giá bao nhiêu mà còn là đưa sản phẩm ra thị trường như thế nào? Đây
chính là chức năng phân phối tiêu thụ sản phẩm trong hoạt động marketing tổng thể
của doanh nghiệp. Chực năng này được thực hiện thông qua mạng lưới kênh phân
phối sản phẩm trên thị trường do doanh nghiệp tổ chức và quản lý.
Các kênh phân phối tạo nên lợi thế cạnh tranh phân biệt giữa các doanh
nghiệp. Phát triển các chiến lược marketting thanh công trong môi trường cạnh
tranh khốc liệt ngày nay là một công việc khó khăn, phức tạp. Việc đạt được lợi thế
so với đối thủ về tính ưu việt của sản phẩm ngày càng khó. Các chiến lược cắt giảm
giá không chỉ nhanh chóng và dễ dàng bị copy bới những đối thủ cạnh tranh mà còn
dẫn đến sự giảm sút hoặc bị mất khả năng có lợi nhuận. Các chiến lược quảng cáo
và xúc tiến sáng tạo thường chỉ có kết quả trong ngắn hạn và cũng dễ bị mất tác
dụng trong dài hạn. Vì vậy, dễ hiểu là các nhà quản trị kinh doanh ở mọi loại doanh
nghiệp kẻ cả lớn lẫn nhỏ đang dồn tâm trí của họ để tìm ra cái mà các chiến lược
marketing phải dựa vào canh tranh. Có thể đã đến lúc họ phải tập trung sự chú ý
nhiều hơn vào các kênh phân phối của họ là một cơ sở cho sự cạnh tranh có hiệu
quả trên thị trường. Hàng ngàn công ty đang thấy rằng để cạnh tranh thành công, họ
không phải chỉ cung cấp sản phẩm và dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh mà còn
phải làm cho chung sẵn có ở đúng thời gian, đúng địa điểm, đúng số lượng và chật
lượng, đúng mức giá và theo phương thức mà người tiêu dùng mong muốn. Chỉ có
nhờ tổ chức và quản lý các kênh phân phối một cách khoa học thì những khả năng
này mới được thực hiện

2.2. Quản lý nhà nước đối với thị trường dịch vụ viễn thông
2.2.1. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ viễn thông.
Thị trường, kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ giữa người với người
trong sản xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã hội, của
16
thể chế chính trị mà nền kinh tế đó tồn tại. Với mức độ đáng kể, sự phát triển kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay bị chi phối và nhằm phục vụ cho định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đương nhiên, nhân tố sâu xa bảo đảm định hướng chính trị đối với kinh tế là
đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Song, để đường
lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng biến thành hiện thực vận động của nền kinh
tế, chúng phải được thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và được triển khai bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới sự
quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Xét từ giác độ đó, Nhà nước có tác động trực
tiếp nhất tới việc định hướng sự vận động của kinh tế thị trường. Pháp luật, chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước chỉ đúng, khi chúng phản ánh chính
xác yêu cầu phát triển khách quan của thị trường, lấy quy luật thị trường làm cơ sở. Xét ở
mặt này, chúng mang tính khách quan. Nhưng chúng lại là sự thể chế hóa, cụ thể hóa
mục tiêu chính trị của Đảng, nên cũng có mặt chủ quan. Trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng chủ quan (ý chí của Đảng,
của Nhà nước và nhân dân ta) là ở chỗ, cùng với việc bảo đảm lợi ích hợp lý của doanh
nhân, thì việc ưu tiên bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động là một vấn
đề có tính nguyên tắc. Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm sự ưu tiên đó, thể
hiện ở cả ba lĩnh vực kinh tế cơ bản sau:
Trên lĩnh vực sở hữu: Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở hữu nhà nước, hình
thức sở hữu tập thể, hình thức sở hữu tư nhân) là một đòi hỏi khách quan của nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách,
pháp luật, đòn bẩy kinh tế để định hướng, làm cho kinh tế nhà nước từng bước vươn
lên nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân.

Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện
thuận lợi cho người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định
tham gia quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế
hoạch phát triển của doanh nghiệp.
17
Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh
tế do mình hoạch định, vừa sử dụng các nguồn lực - trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà
nước - để định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng
ưu tiên phân phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh tế
với thực hiện công bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền
ơn đáp nghĩa
Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có vai trò
to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế.
“ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người
và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất
nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức
thực hiện các chính sách phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên
quyết nhất hình thành sự đồng thuận đó. Là những công cụ tạo ra sự đồng thuận xã
hội, từ đó mà có ổn định xã hội cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, các chính
sách, pháp luật của Nhà nước, một mặt, phải phản ánh đúng những nhu cầu chung
của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế ; mặt khác, phải tôn trọng tính đa dạng về nhu
cầu, lợi ích cụ thể của các chủ thể đó.
Để làm được điều đó, điều quan trọng nhất là Nhà nước tạo lập khung khổ
pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra hiệu quả. Chỉ duy nhất nhà nước
có được chức năng này. Hệ chuẩn pháp luật kinh tế của nhà nước càng được xây
dựng đồng bộ, đúng đắn, nhất quán và kịp thời bao nhiêu, càng có tác động tích cực
tới sự vận hành của nền kinh tế bấy nhiêu. Song, tự nó, pháp luật kinh tế không gây
ra những biến đổi trong hiện thực kinh tế. Để cho các luật kinh tế trở thành tác nhân
kích thích phát triển kinh tế, chúng phải được đưa vào vận hành. Nhà nước chính là
thiết chế chủ yếu đảm đương nhiệm vụ này. Năng lực điều hành kinh tế bằng pháp

luật là một thước đo đánh giá sự trưởng thành và quản lý của nhà nước trong kinh tế.
Quản lý nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa cũng thể hiện ở việc nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường
cho thị trường phát triển, như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông
18
hàng hóa; tạo lập sự phân công lao động theo ngành, nghề, vùng kinh tế qua việc
nhà nước tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế từng vùng, ngành và
nhu cầu chung của xã hội Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác
những cơ quan truyền thông mạnh nhất của quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp
thông tin thị trường cho các chủ thể kinh tế để các chủ thể này chủ động lựa chọn
phương án sản xuất kinh doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện các giao dịch
kinh tế, cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của
mình
Muốn sản xuất phải có an toàn về môi trường xã hội, môi trường kinh doanh,
môi trường an ninh - trật tự, an toàn trong quan hệ giữa người và người, giữa doanh
nghiệp và các cơ quan công quyền Ngoài những nỗ lực của nhà nước trong sự đồng
tình của nhân dân, không lực lượng nào khác có thể tạo lập được những yêu cầu an
toàn như vậy.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế
của mọi quốc gia chỉ có hiệu quả cao, khi có tác nhân khởi thủy từ phía nhà nước, được
hỗ trợ đắc lực từ phía nhà nước. Bằng chính sách hội nhập đúng đắn và năng lực tổ
chức thực hiện có hiệu quả chính sách đó, nhà nước góp phần khởi đầu và có tác động
tích cực vào quá trình thiết lập quan hệ quốc tế. Đại diện cho đất nước tham gia vào các
quá trình soạn thảo và thông qua chuẩn mực luật pháp kinh tế, các hiệp định kinh tế,
các nghị định thư , Nhà nước ta góp phần tạo cho chủ thể kinh tế của đất nước vị trí có
lợi trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự kiện đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) thành công là chứng minh rõ rệt cho điều này.
Cùng với tác động của hệ thống luật kinh tế và sự đầu tư trực tiếp vào kinh
tế, Nhà nước còn định hướng nền kinh tế qua các công cụ gián tiếp là chính sách
kinh tế, như chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách thu nhập và

việc làm
Việc nhấn mạnh quản lý của Nhà nước trong việc định hướng sự phát triển
của nền kinh tế thị trường ở nước ta không mâu thuẫn với vấn đề có tính nguyên
tắc: sự vận hành của nền kinh tế thị trường nào cũng trước hết và chủ yếu do các
19
quy luật thị trường quyết định. Song, quy luật kinh tế thị trường lại thuộc lĩnh vực
quy luật xã hội. Tính khách quan của nó được thể hiện và thực hiện thông qua hoạt
động có ý thức của con người. Dựa trên việc nhận thức đúng đắn những yêu cầu của
các quy luật trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước cụ thể hóa những yêu cầu đó
thành luật, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xác định đúng bước đi
để hiện thực hóa chúng. Đây là nhân tố có tác động trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế
thị trường vận động phù hợp với quy luật nội tại của nó. Ở đây có sự thống nhất
giữa khách quan và chủ quan. Song, sự thống nhất đó chỉ có được, khi lợi ích chân
chính mà nhà nước theo đuổi phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội
nói chung, của kinh tế thị trường nói riêng; chủ thể nhà nước có năng lực trí tuệ đủ
tầm để nắm bắt, vận dụng yêu cầu của các quy luật kinh tế vào việc hoạch định các
chính sách phát triển.
Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường hơn 20 năm đổi mới cho thấy,
Nhà nước ta đã có nhiều tác động tích cực trong việc bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa trong quá trình phát triển nền kinh tế này. Việc từng bước hoàn thiện hệ
thống chính sách về chế độ sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế đã góp phần thúc
đẩy chuyển dịch theo hướng tạo động lực và điều kiện thuận lợi hơn cho khai thác
các tiềm năng trong và ngoài nước để phát triển kinh tế- xã hội. Nhờ đó, tốc độ tăng
trưởng kinh tế, nhìn chung, không ngừng được nâng cao: thời kỳ 1986 - 1990, tăng
trưởng GDP bình quân đạt 4,5%/năm; 1996 - 2000: 7%/năm; 2001 - 2005:
7,5%/năm; năm 2007 đạt 8,48%. Năm 2008, dù phải đối mặt với không ít khó khăn,
nhưng Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng GDP là 6,23%.
Hoạt động của thị trường dịch vụ viễn thông cũng không tránh khỏi những
đặc trưng mang tính quy luật của nền kinh tế thị trường nói chung. Những ảnh hưởng và
tác động của nhà nước với thị trường dịch vụ viễn thông ngày nay càng được khẳng

định lớn hơn khi môi trường cạnh tranh ngày càng sôi động. Việc phát triển mạnh mẽ
của các sản phẩm viễn thông cùng với tốc độ phát triển của nó đang làm nảy sinh những
mâu thuẫn đòi hỏi phải phát huy tốt hơn, có tính thực tiễn hơn quản lý nhà nước trong
điều tiết và quản lý sự phát triển thị trường dịch vụ viễn thông.
20

×