Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.14 KB, 22 trang )

SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Khái niệm và đặc điểm quản lý nhà nước
a. Khái niệm quản lý nhà nước
 Quản lý
Để nghiên cứu khái niệm quản lý nhà nước, trước hết cần làm rõ khái
niệm “quản lý”. Thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác
nhau tuỳ theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người
nghiên cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội
và khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới góc
độ riêng của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt động của
đời sống xã hội.
Theo quan niệm của C.MÁC ( Các Mác – Ph. Ăng ghen, toàn tập, tập 23,
trang 23): “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào đó mà được
tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn đều cần có sự quản lý ở mức độ
nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức
năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động
này khác với sự vận động của các cơ quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công
tự điều khiển mình, nhưng một dàn nhạc phải có nhạc trưởng”.
Tức theo Mác quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để đạt được
cái thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây Mác đã tiếp cận khái niệm
quản lý từ góc độ mục đích của quản lý.
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay:
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích
đã đề ra và đúng với ý trí của người quản lý.
Theo cách hiểu này thì quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của
xã hội nhằm đạt được một mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp cận này,
quản lý đã nói rõ lên cách thức quản lý và mục đích quản lý.


Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác động
theo cách nào còn tuỳ thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau ,các lĩnh vực
khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.
 Quản lý nhà nước:
Theo Giáo trình quản lý hành chính nhà nước tập 1 (trang 407): “Quản lý
nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối
với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát
triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ
quốc XHCN”.
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà
nước, được sửa dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Quản lý nhà nước được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước trong
quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt.uản lý nhà nước
được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà
nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp.
Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.
Quản lý nhà nước được đề cập trong đề tài này là khái niệm quản lý nhà
nước theo nghĩa rộng; quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban
hành các văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp
hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với đối tượng quản lý
cần thiết của Nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu và trước hết được
thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể các tổ chức chính trị - xã
hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được nhà nước uỷ
quyền, trao quyền thực hiện chức năng của nhà nước theo quy định của pháp
luật.
b. Đặc điểm quản lý nhà nước
Từ khái niệm trên về quản lý nhà nươc ta rút ra các đặc điểm của quản lý

nhà nước như sau:
Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính
mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. Quản lý nhà nước được thiết lập trên cơ
sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng”.
Quản lý nhà nước mang tính tổ chức và điều chỉnh. Tổ chức ở đây được
hiểu như một khoa học về việc thiết lập những mối quan hệ giữa con người với
con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội. Tính điều chỉnh được hiểu
là nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng bị quản lý phải
thực hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt được sự cân bằng trong xã
hội.
Quản lý nhà nước mang tính khoa học, tính kế hoạch. Đặc trưng này đỏi
hỏi nhà nước phải tổ chức các hoạt động quản lý của mình lên đối lên đối tượng
quản lý phải có một chương trình nhất quán, cụ thể và theo những kế hoạch
được vạch ra từ trước trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.
Quản lý nhà nước là những tác động mang tính liên tục, và ổn định lên các
quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội. Cùng với sự vận động biến đổi
của đối tượng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra thường xuyên,
liên tục, không bị gián đoạn. Các quyết định của nhà nước phải có tính ổn định,
không được thay đổi quá nhanh. Việc ổn định của các quyết định của nhà nước
giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện kiện toàn hoạt động của mình và hệ
thống hành vi xã hội được ổn định.
c. Cơ cấu hệ thống và các yếu tố tạo nên hoạt động quản lý nhà nước
 Cơ cấu, hệ thống quản lý nhà nước bao gồm các yếu tố sau đây
tạo thành: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý và mối quan hệ giữa
chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong quá trình quản lý.
Chủ thể quản lý nhà nước được xác định theo vùng lãnh thổ trên cơ sở hình
thành các đơn vị hành chính và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo quy định
của pháp luật. Hệ thống quản lý nhà nước được xây dựng theo hệ thống chức
năng chiều dọc, tạo ra cơ cấu quản lý phù hợp với chức năng quản lý của từng
lĩnh vực theo các cơ quan nhà nước và theo nghành. Hệ thống quản lý nhà nước

là một tập hợp các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội được nhà nước uỷ quyền.
Trong các cơ quan tổ chức đó, cán bộ, công chức nhà nước được xác định cụ thể
về quyền và nghĩa vụ.
Xác định đối tượng quản lý nhà nước giúp cho ta trả lời câu hỏi “quản lý
ai” và suy cho cùng đối tượng quản lý nhà nước chính là con người, hay cụ thể
hơn là hành vi cong người trong xã hội. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có
thể phân chia đối tượng quản lý nhà nước ra nhiều loại, như các cấp độ đối
tượng quản lý (con người, tập thể, toàn bộ hệ thống tổ chức).
Trong quản lý nhà nước cần làm rõ khách thể của quản lý nhà nước. Khách
thể của quản lý nhà nước chính là hệ thống các hành vi, hoạt động của con
người, các tổ chức con người trong cuộc sống xã hội, là hệ thống trong đó bao
trùm các lĩnh vực sản xuất và tái sản xuất các giá trị vật chất và tinh thần cũng
như các điều kiện sống của con người trong xã hội. Có thể chia khách thể của
quản lý nhà nước theo các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phòng...
Để xem xét được mối quan hệ giữa chủ thể quản lý, đối tượng quản lý và
khách thể quản lý cần xem xét mối quan hệ này trong từng lĩnh vực cụ thể.
 Các yếu tố tạo nên hoạt động của quản lý nhà nước: Mục đích
nhiệm vụ của quản lý nhà nước; phương pháp quản lý nhà nước và
chương trình quản lý nhà nước.
Mục đích, nhiệm vụ của quản lý nhà nước là mục tiêu hướng tới của chủ
thể quản lý đối với đối tượng bị quản lý.
Phương pháp quản lý nhà nước là phương thức, cách thức mà chủ thể quản
lý tác động lên khách thể quản lý (hành vi, đối tượng quản lý) nhằm đạt được
những mục đích quản lý. Phương pháp quản lý nhà nước thể hiện ý chí của nhà
nước, nó phản ánh thẩm quyền của các cơ quan nhà nước và được biểu hiện
dưới những hình thức nhất định. Các phương pháp quản lý trong hoạt động
quản lý nhà nước là: thuyết phục, cưỡng chế, hành chính, kinh tế, theo dõi, kiểm
tra; ngoài ra còn những phương pháp riêng áp dụng trong quá trình thực hiện
những chức năng riêng biệt hoặc những khâu những giai đoạn riêng biệt của quá

trình quản lý.
Chương trình quản lý được diễn ra kế tiếp nhau theo trình tự thời gian
tương ứng với việc giải quyết một số nội dung trong quản lý như: đánh giá tình
hình các vấn đề cần giải quyết; chuẩn bị dự thảo quyết định; thông qua quyết
định; ban hành quyết định; tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra đánh giá
thực hiện các quyết định.
Tóm lại, quản lý nhà nước phụ thuộc vào các yếu tố nội tại trong nó. Muốn
đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước thì cần phải phân tích cơ cấu
quản lý tạo nên hoạt động quản lý và sự tác động của từng yếu tố đó đến hoạt
động quản lý.
2. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm xã hội
a. Khái niệm về bảo hiểm xã hội
Cuộc sống con người là sự đấu tranh với chính bản thân mình, với xã hội
xung quan nhằm đạt được một vị trí, một thế lực trong xã hội đó. Con đường
chân chính để đạt mục đích đó là lao động. Trong quá trình lao động, con người
không ngừng nỗ lực, phấn đấu để đạt kết quả cao nhất. Một trong những mục
đích cuối cùng của con người là kinh tế. Đó cũng là một trong những mục tiêu
của sự phát triển. Trong lao động, con người làm ra của cải cho chính bản thân
mình và cho xã hội. Tuy vậy không phải bất cứ lúc nào sự nỗ lực của con người
cũng được đền đáp xứng đáng. Có những sự nỗ lực đã gặp phải những khó
khăn, chắc trở hoặc những rủi ro ngoài ý muốn do điều kiện tự nhiên, môi
trường sống hoặc môi trường xã hội làm cho con người gặp khó khăn trong
cuộc sống của mình, mà ta gọi chung là rủi ro trong lao động. Những rủi ro này
có thể là: ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu, tử vong...; những rủi ro này
làm cho người lao động giảm khả năng lao động dẫn đến việc làm giảm hoặc
mất thu nhập, nói một cách chung nhất là gặp khó khăn về kinh tế trong cuộc
sống hiện tại. Để khắc phục những rủi ro này thì chính sách bảo hiểm xã hội
được coi là một chính sách mang tính chất xã hội có hiệu quả tốt, đáp ứng nhu
cầu của phần lớn người lao động và được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng.
Vậy bảo hiểm xã hội là gì?

Theo tổ chức Lao động thế giới (ILO): “Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ của
xã hội đối với tất cả các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp
công cộng để đối phó với những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng việc
hoặc bị giảm bớt nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, gây mất khả năng lao
động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và tự cấp cho các gia đình
đông con”[ Công ước quốc tế 102 ].
Theo điều 3.1 Luật Bảo hiểm xã hội do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm
2006: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên
cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.
Từ các quan điểm về BHXH trên chúng ta có thể khái quát về BHXH như
sau:
BHXH là hệ thống bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho người lao động
khi người lao động bị mất hoặc giảm thu nhập trong các trường hợp được quy
định trong Luật Bảo hiểm xã hội, thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ tài
chính do sự đóng góp của các bên tham gia và có sự ủng hộ của Nhà nước.
Quỹ BHXH được sử dụng để trả lương hưu và các khoản trợ cấp BHXH
cho người lao động nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao
động và gia đình họ đồng thời góp phần bảo vệ an toàn xã hội.
Đối tượng của BHXH chính là thu nhập ( có thể coi là số tiền ) bị biến
động giảm hoặc mất do các trường hợp được quy định trong Luật Bảo hiểm xã
hội của những người lao động tham gia BHXH.
Bảo hiểm xã hội đã lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối
lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang giữa những người lao động có thu
nhập thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người
ốm yếu phải nghỉ việc. Nói cách khác, BHXH góp phần đảm bảo sự “thăng
bằng” về thu nhập cho người lao động và gia đình họ. Điều này đã góp một
phần vào việc thực hiện công bằng xã hội.

b. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội
Từ việc nghiên cứu khái niệm về bảo hiểm xã hội ở trên ta có thể đưa ra
những đặc điểm cơ bản của BHXH như sau:
Quỹ tài chính tập trung được hình thành (nguồn thu quỹ BHXH ) thông
qua sự đóng góp của các bên tham gia BHXH: Người lao động, người sửa dụng
lao động, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ và có sự hỗ trợ của nhà nước,
có thể được hình thành từ các nguồn thu hợp pháp khác ( nguồn này ở Việt Nam
không đáng kể và hầu như không có).
Việc tham gia BHXH về nguyên tắc là bắt buộc đối với mọi người lao
động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức. Trừ một số
trường hợp, người lao động có thu nhập không ổn định do công việc làm thường
xuyên không ổn định, hoặc theo mùa vụ.
Nguồn đóng của các bên tham gia được đưa vào quỹ riêng độc lập, tập
trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước để chi trợ cấp cho các chế độ và hoạt
động BHXH.
Số tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ được đầu tư sinh lời nhằm bảo toàn và
tăng trưởng quỹ.
Quyền hưởng các chế độ trợ cấp BHXH dựa trên nguyên tắc phải gắn liền
với nghĩa vụ đóng góp BHXH của người lao động.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm xã hội
Hoạt động BHXH là hoạt động chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu
tố chủ quan và khách quan. Song khái quát lại thì hoạt động BXHH chịu ảnh
hưởng bởi các yếu tố cơ bản sau:
a. Sự phát triển của nền kinh tế
Sự phát triển của mỗi nền kinh tế là minh chứng cho trình độ văn minh của
xã hội. Xã hội càng văn minh thì cuộc sống của con người càng được đảm bảo
vững chắc. Trong bất cứ hoạt động nào, thì trình độ phát triển của xã hội cũng là
một nhân tố quyết định tới việc chi phối các hoạt động của xã hội đó. Hoạt động
BHXH cũng là một chính sách không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Xã hội càng
phát triển, nền kinh tế càng phát triển thì các hoạt động thu, quản lý quỹ, chi trả

các chế độ trợ cấp trở nên chuyên nghiệp hơn. Vấn đề hình thành quỹ, công tác
ban hành luật BHXH, công tác tuyên truyền nhận thức về BHXH và cuối cùng
là công tác quản lý hoạt động BHXH cũng trở nên chuyên môn hoá hơn. Trình
độ phát triển của nền kinh tế làm cho bánh xe hoạt động BHXH trở nên “trơn
chu” hơn, hiệu quả hơn.
b. Hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước
Hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước phản ánh mức độ “trơn chu”,
chuyên nghiệp hoá của toàn bộ hoạt động BHXH. Các chính sách càng rõ ràng,
càng phù hợp với điều kiện thực tế khách quan bao nhiêu thì hoạt động BHXH
càng chuẩn xác bấy nhiêu. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nào có hệ thống
chính sách pháp luật càng rõ ràng, càng minh bạch thì các hoạt động trong nội
tạng của quốc gia đó càng chính xác. Các chính sách pháp luật của nhà nước nó
phản ánh sự ưu tiên đối với một hoạt động cụ thể. Chính sách BHXH của nhà

×