Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

hoạt động kinh doanh của NHTM và vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.55 KB, 30 trang )

hoạt động kinh doanh của NHTM và vấn đề rủi ro
trong hoạt động tín dụng của NHTM
I - Ngân hàng thơng mại và vai trò của nó trong nền kinh tế thị
trờng.
1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng thơng mại:
Phơng thức sản xuất T bản chủ nghĩa ra đời đặt ra những yêu cầu rất lớn đối
với hoạt động tiền tệ , đòi hỏi phải có các tổ chức chuyên hoạt động trên lĩnh vực
tiền tệ. Vào thế kỷ XV, ngân hàng ra đời nhằm thực hiện các chức năng phát hành
giấy bạc vào lu thông, nhận tiền gửi của khách hàng, cho vay, đổi tiền, chuyển
ngân và các dịch vụ tiền tệ khác. Việc thành lập một số ngân hàng hớng vào phục
vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển thêm
một bớc nghề ngân hàng ở các nớc ý, Hà lan, Đức...
Cùng với sự phát triển và thắng thế của chế độ TBCN, hệ thống ngân hàng
đã có những phát triển vợt bậc vào cuối thế kỷ XVII. Lúc này, các tổ chức tài
chính ngoài chức năng phát hành tiền còn thực hiện việc đi vay để cho vay đồng
thời với các nghiệp vụ hối đoái, thanh toán không dùng tiền mặt, phát hành các
công cụ lu thông tín dụng...Về mặt bản chất, hoạt động của các ngân hàng trong
giai đoạn này cũng đã thực hiện nghiệp vụ của một ngân hàng thơng mại. Nhng
cha xuất hiện thuật ngữ Ngân hàng thơng mại . Lúc này, ngân hàng vừa làm chức
năng phát hành tiền, vừa làm chức năng kinh doanh. Đây là giai đoạn chủ nghĩa t
bản tự do cạnh tranh nên ngân hàng hoạt động cũng hoàn toàn mang tính độc lập,
cha có tính hệ thống và phụ thuộc vào nhau.
Cuối thế kỷ XIX, sản xuất và lu thông hàng hoá phát triển kéo theo sự phát
triển về quy mô và phạm vi nghiệp vụ của các ngân hàng . Song trong lu thông có
quá nhiều loại tiền do nhiều ngân hàng phát hành làm cản trở việc lu thông hàng
hoá. Do vậy Nhà nớc đã phải ban hành đạo luật chỉ cho một số ngân hàng đợc
phát hành tiền. Mỗi quốc gia chỉ có một hoặc một số ngân hàng đợc phát hành
tiền. Đó là các ngân hàng có tiềm lực và quy mô lớn.
Những ngân hàng không đợc phép phát hành tiền là các Ngân hàng thơng
mại .
Thời kỳ này, các ngân hàng phát triển và gặt hái đợc những kết quả to lớn


đến mức C. Mác đã cho rằng Ngân hàng là tạo phẩm tuyệt tác nhất và hoàn
thiện nhất trong số các tạo phẩm của nền kinh tế thị trờng.
Cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nớc Châu Âu đều ban hành đạo luật chỉ cho
phép một ngân hàng duy nhất đợc phát hành tiền. Nh vậy, lúc này hệ thống ngân
hàng của nền kinh tế thị trờng đã bắt đầu hình thành hai cấp là ngân hàng phát
hành và ngân hàng trung gian.
Vào đầu thế kỷ XX, vấn đề đặt ra là các ngân hàng phát hành thuộc quyền
sở hữu t nhân, do đó sự điều tiết của nhà nóc đối với các hoạt động kinh tế vĩ mô
trong tình hình kinh tế phát triển đã gặp không ít khó khăn. Tiếp đến cuộc khủng
hoảng kinh tế 1929-1933 đã buộc các nớc phải có biện pháp hữu hiệu để duy trì
việc phát triển kinh tế, do đó việc tách chức năng của ngân hàng đợc thể hiện ở
mức độ cao hơn: hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp:
-Ngân hàng Trung ơng vừa làm chức năng phát hành vừa làm chức năng
quản lý nhà nớc về tiền tệ , tín dụng ngân hàng.
- Ngân hàng kinh doanh (ngân hàng thơng mại) : Là trung gian tài
chính có giấy kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở các khoản tiền
gửi... và chuyên về việc đa ngời cho vay và ngời đi vay gặp nhau là trung gian tài
chính, thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng, có vai trò quan
trọng trong việc tập trung, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu t vào những đơn
vị kinh tế làm ăn có lãi thuộc mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy tăng trởng kinh tế.
ở Việt nam, từ ngày thành lập cho đến năm 1988, hệ thống ngân hàng một
cấp vừa thực hiện chức năng quản lý về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối vừa kiêm
nhiệm hoạt động kinh doanh của các ngân hàng chuyên nghiệp. Đặc trng của hệ
thống ngân hàng lúc này là thực hiện mệnh lệnh của nền kinh tế tập trung, nặng
về bao cấp, hiệu quả thấp, không tạo động lực cho phát triển kinh tế, thậm chí
chất lợng tín dụng kém vì mọi rủi ro trong hoạt động kinh doanh trong hoạt động
ngân hàng đều đợc ngân sách nhà nớc bù đắp; nền kinh tế bị suy yếu....
Đứng trớc tình hình đó, Đảng chủ trơng chuyển mạnh hoạt động
ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh Xã hội chủ nghĩa và
Bên cạnh nhiệm vụ quản lý lu thông tiền tệ của ngân hàng nhà nớc, cần

xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ
ngân hàng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế...
Đồng thời kiện toàn Ngân hàng Nhà nớc làm nhiệm vụ phát hành và quản
lý nhà nớc về tiền tệ, tín dụng. Phát triển các ngân hàng chuyên nghiệp là tổ chức
kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng...
Tháng 3.1988, Nghị định 53/CP đợc ban hành với nội dung cơ bản
Chuyển hẳn hệ thống Ngân hàng sang hoạt động kinh doanh....
Tháng 9.1990, hai Pháp lệnh Ngân hàng đã đợc thông qua và công bố. Trên
cơ sở đó, hệ thống NHTM đợc hình thành bao gồm các Ngân hàng thơng mại
Quốc doanh, Ngân hàngThơng mại Cổ phần, các tổ chức tài chính khác, là những
pháp nhân kinh doanh tiền tệ, cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp
và cá nhân, thông qua đó tìm kiếm lợi nhuận.
Đến năm 1999, hệ thống NH Việt nam đã phát triển đến giai đoạn cao về
số lợng, cơ cấu và loại hình: - 6 NHTM quốc doanh với 1.200 chi nhánh với
nguồn vốn tự có do Nhà nớc cấp
-4 ngân hàng liên doanh với nớc ngoài,
-Hơn 800 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở,
-47 NHTM cổ phần gồm 27 NHTMCP đô thị và 20 NHTMCP nông
thôn , 5 công ty tài chính và cho thuê tài chính.
Hiện nay các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần do chủ trơng đa dạng hoá
các thành phần kinh tế của Đảng, với đặc điểm là sở hữu của nhiều ngời, hoạt
động kinh doanh với chức năng nhiệm vụ nh một Ngân hàng Thơng mại, đã và
đang chứng tỏ sự tồn tại cần thiết khách quan của mình trong nền kinh tế Việt
nam.
Tuy nhiên, trên thực tế, các Ngân hàng Thơng mại Cổ phần nớc ta còn rất
nhỏ nhoi về tầm cỡ, về năng lực tài chính, khả năng kinh doanh và các dịch vụ
ngân hàng còn nghèo nàn. Nguồn vốn tự có của các Ngân hàng TMCP chủ yếu là
do các cổ đông là thể nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần ...
đóng góp, tỷ trọng vốn đóng góp của các cổ đông quốc doanh còn rất thấp do vậy
khả năng cạnh tranh kém. Đây cũng là một tất yếu khách quan do thời gian hoạt

động còn quá ngắn, là loại hình kinh doanh mới, non trẻ, vừa vận hành để phát
triển vừa rút kinh nghiệm để định hình nên không tránh khỏi có những tồn tại và
khiếm khuyết.
Nh vậy, các Ngân hàng trung gian chuyển sang cơ chế mới theo xu hớng
ngày càng đa thành phần, kết hợp chuyên môn hoá và đa năng hoá, phát triển cả
về số lợng và cơ cấu, nâng cao sự nhậy cảm cạnh tranh trên thị trờng. Môi trờng
hoạt động ngân hàng hiện nay không còn ở những bớc sơ khai của nền kinh tế thị
trờng, nó đã và đang thay đổi một cách căn bản và có một vai trò rất to lớn trong
quá trình phát triển kinh tế. Hơn nữa, Ngân hàng phải là ngời đi trớc để tạo điều
kiện cho kinh tế phát triển, phục vụ yêu cầu của CNH và HĐH đất nớc.
Nh V.I.Lênin đã nói ...Không có những ngân hàng lớn thì sẽ không thể
thực hiện đợc CNXH... và hệ thống ngân hàng ....là cái gì giống bộ xơng của xã
hội XHCN...
2. Định nghĩa NHTM :
Để đa ra đợc một định nghĩa về NHTM, ngời ta thờng phải dựa vào tính
chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trờng tài chính, và đôi khi còn kết hợp
tính chất, mục đích và đối tợng hoạt động.
Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa : Ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thờng xuyên nhận của công chúng dới hình thức
ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp
vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Hay nh Luật của Ngân hàng ấn Độ
1950, đợc bổ sung 1959 đã nêu : Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác
để cho vay hay tài trợ, đầu t . Những định nghĩa đại loại nh vậy là căn cứ vào
mục đích, tính chất hoạt động.
Một loạt định nghĩa khác lại căn cứ vào sự kết hợp với đối tợng hoạt động.
Ví dụ nh Luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930 địng nghĩa : những nhà băng
thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề th-
ơng mại và các giá trị địa ốc, các phơng tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các
nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm...
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhng phân tích, khai thác nội

dung của các định nghĩa đó, ngời ta dễ dàng nhận thấy các NHTM đều có chung
một tính chất là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử
dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của
chính Ngân hàng.
ở Việt Nam, trong bớc chuyển đổi sang kinh tế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hớng
XHCN. Mọi ngời đợc tự do kinh doanh theo pháp luật, đợc bảo hộ quyền sở hữu
và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan kết với nhau hình
thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp, không phân biệt quan
hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trớc pháp luật.
Theo hớng đó, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền
đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác. Cho nên để tăng cờng quản lý, hớng dẫn hoạt động của các ngân hàng
và các tổ chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời
bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Theo điều 20 Luật các tổ chức
tín dụng của Việt Nam có nêu: Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp đợc thành lập
theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh
doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền
gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán .
Từ định nghĩa chung đó, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động Luật
còn chỉ rõ các loại hình ngân hàng gồm : Ngân hàng thơng mại, Ngân hàng phát
triển, Ngân hàng đầu t, Ngân hàng chính sách và các loại hình ngân hàng khác.
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính là
môi giới trên thị trờng tài chính ngày càng phát triển về số lợng và quy mô hoạt
động, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Ngời ta phân biệt ngân
hàng thơng mại với các tổ chức môi giới tài chính khác là ở chỗ ngân hàng thơng
mại là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn, chính từ
hoạt động đó đã tạo cơ hội cho ngân hàng thơng mại có thể làm tăng bội số tiền
gửi của khách hàng trong hệ thống ngân hàng của mình. Đó là đặc trng cơ bản để
phân biệt ngân hàng thơng mại với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.

3. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trờng :
Nền kinh tế thị trờng là nền kinh tế mà mọi hoạt động kinh tế trong đó
đều do thị trờng điều tiết theo quy luật cung cầu, vận động theo quy luật kinh tế
khách quan. Kinh tế thị trờng đợc vận hành và điều chỉnh bởi một hệ thống thị
trờng phức tạp và các mối quan hệ kinh tế tinh vi trong đó các thành phần kinh tế
đều đợc tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Do vậy các chủ thể kinh tế
phải biết vận dụng sáng tạo, tạo cho mình lợi thế trong kinh doanh để tồn tại và
phát triển .
Hoạt động của quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trờng luôn tạo ra sự
cạnh tranh mạnh mẽ, làm động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự phát triển
của nền kinh tế thị trờng làm nảy sinh nhiều loại ngân hàng. Mỗi loại ngân hàng
lại thực hiện những chức năng nhất định khác nhau.
Qua quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng thơng mại ta thấy
rằng NHTM ra đời là một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trờng và trở lại
chính NHTM lại đóng góp một vai trò to lớn trong nền kinh tế đầy tính phức tạp
này:
- Giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về vốn, giảm chi phí lu thông,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách tập trung các khoản vốn nhỏ phân tán,
thành lợng vốn lớn tạo điều kiện cho việc áp dụng kỹ thuật hiện đại, đổi mới công
nghệ, thúc đẩy nền kinh tế tăng trởng thông qua việc đầu t vốn;
- Thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu kinh tế : chuyển vốn từ những lĩnh vực kém
hiệu quả vào những lĩnh vực có hiệu quả cao hơn sao cho phù hợp với yêu cầu
phát triển sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trờng;
- Ngân hàng thơng mại là công cụ để nhà nớc điều tiết vĩ mô nền kinh tế :
bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thơng mại trong hệ
thống, các NHTM đã góp phần mở rộng khối lợng tiền cung ứng trong lu thông.
Thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM
thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trờng, điều
tiết chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô : Nhà n-
ớc điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trờng

-Ngoài ra, với các dịch vụ phục vụ việc lu thông tiền tệ, hàng hoá giữa các
quốc gia, NHTM đã không ngừng thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế giữa các nhà
sản xuất kinh doanh trong nớc và ngoài nớc. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc
gia với nền tài chính quốc tế.
II.Hoạt động kinh doanh của NHTM:
1. Huy động vốn:
Các NHTM thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với tất cả các khu vực
của nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận lợi và những phơng
thức dễ dàng để nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác
dới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi
khác. Các tổ chức, cá nhân, các TCTD khác đợc nhận một khoản tiền thởng dới
danh nghĩa lãi suất trên tổng số tiền gửi, với mức độ an toàn và hình thức thanh
khoản cao.
Ngoài ra, các NHTM còn huy động vốn dới dạng phát hành các giấy tờ có
giá, vay vốn ngắn hạn của NHNN dới hình thức tái cấp vốn, vay của các TCTD
khác...Số tiền huy động đợc thông qua hình thức tiền gửi và phát hành giấy tờ có
giá luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân.
2. Hoạt động tín dụng :
Chức năng cơ bản của ngân hàng thơng mại là mở rộng tín dụng, từ nguồn
vốn huy động đợc, đối với các khách hàng tin cậy. Ngay từ khi mới bắt đầu,
những ngời tổ chức các Ngân hàng thơng mại đã luôn tìm kiếm các cơ hội để thực
hiện cho vay và đầu t, hởng lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất
huy động (lãi suất tiền gửi ) sau khi trừ đi các chi phí. Họ coi đó là chức năng
quan trọng nhất của mình.
C.Mác đã viết cái mà ngời chủ ngân hàng kinh doanh là bản thân tín
dụng .
Ngời cũng đã viết Bản thân chế độ tín dụng, một mặt là một hình thái nội
tại của phơng thức sản xuất TBCN, mặt khác là một động lực thúc đẩy phơng thức
sản xuất TBCN tiến lên hình thái cao hơn, tột cùng có thể của nó và
Chế độ tín dụng ngân hàng đẩy nhanh tốc độ phát triển của lực lợng sản

xuất vật chất và sự hình thành thị trờng thế giới; đẩy hai yếu tố đó phát triển đến
một mức độ cao nhất định, với t cách là cơ sở vật chất của một hình thái sản xuất
mới .
Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, nó
đã tài trợ cho các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, thơng nghiệp, dịch vụ,
xuất nhập khẩu....của đất nớc; đã cung cấp những sản phẩm đờng vòng cho nhu
cầu dân sinh và phát triển đất nớc thông qua quá trình từ sản xuất đến lu thông.
Nh vậy, trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các ngân hàng thơng mại đã và
đang thực hiện chức năng xã hội đặc biệt của mình, làm cho sản phẩm xã hội tăng
lên, vốn đầu t đợc mở rộng và từ đó, đời sống dân chúng đợc cải thiện.
Sở dĩ tín dụng ngân hàng có thể đóng đợc vai trò quan trọng của mình là
do nó đợc hình thành và phát triển nh một quy luật tất yếu khách quan của nền
kinh tế.
Hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng,
quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng, song nó không chỉ
đơn giản và giới hạn ảnh hởng trong phạm vi một ngân hàng, một ngành, một địa
phơng một thời điểm hay một giai đoạn... mà còn ảnh hởng tới chất lợng, hiệu
quả, năng suất lao động xã hội, ảnh hởng tới bớc tiến của cả một nền kinh tế, của
một phơng thức sản xuất, của một giai đoạn phát triển xã hội, của trình độ hoà
nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới hiện đại.
Nhận thức đầy đủ đúng đắn vai trò của tín dụng đòi hỏi con ngời sử dụng
nó phải biết tôn trọng, đối xử với nó nh một khoa học kinh tế thực sự. Cho nên dù
ở bất cứ một thời kỳ nào, bối cảnh nào thì yêu cầu cơ bản của tín dụng ngân hàng
vẫn phải là Hiện thực, Khả thi và Hiệu quả . Trải qua nhiều phơng thức sản xuất
khác nhau các nhà kinh tế học đã đúc kết Hoạt động Tín dụng - với đúng nghĩa
nh C.Mác đã chỉ ra - phải tuân theo các nguyên tắc căn bản chung nhất:
-Vốn vay phải đợc sử dụng đúng mục đích có hiệu quả;
-Vốn vay phải đợc đảm bảo bằng giá trị vật t hàng hoá tơng đơng;
-Vốn vay phải đợc hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết.
Ba nguyên tắc tín dụng trên đây hình thành nh một quy luật phát triển nội

tại của hoạt động tín dụng, là quy định bất khả vi phạm, là mối quan hệ không
thể tách rời trong kinh doanh tín dụng. Thực tế cho thấy rằng một khi chỉ một
trong ba nguyên tắc bị coi nhẹ thì sớm muộn cũng dẫn đến quan hệ tín dụng bị
phá vỡ , tín dụng sẽ mất dần đi vai trò và tác dụng của mình và trở thành vật cản
kìm hãm hoặc đẩy lùi sự phát triển của nền kinh tế.
Cho nên, khi nói đến vai trò bà đỡ của tín dụng ngân hàng đối với tiến
trình phát triển kinh tế là nói đến loại hình tín dụng đúng nghĩa, tuân thủ nghiêm
ngặt cả ba nguyên tắc tín dụng trên đây và có chất lợng cao. Chất lợng của tín
dụng không phải là một khái niệm mơ hồ, trừu tợng. Nó đợc thể hiện thông qua
kết quả của quá trình tuân thủ ba nguyên tắc này và cuối cùng chất lợng tín dụng
đợc phản ánh đúng nh vai trò quan trọng của tín dụng đã đợc đề cập ở trên, vào sự
phát đạt của từng tổ chức kinh tế trong xã hội nói riêng, vào tốc độ tăng trởng của
nền kinh tế và vào tiến bộ xã hội trong từng thời kỳ nói chung.
3. Các dịch vụ ngân hàng khác :
Dịch vụ thanh toán :
Việc đa ra một cơ chế thanh toán, hay nói một cách khác, sự vận động vốn
là một nghiệp vụ quan trọng do các NHTM thực hiện thông qua việc : mở tài
khoản; cung ứng các phơng tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán trong n-
ớc cho khách hàng; thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ; dịch vụ ngân quỹ... ,
thông qua mối quan hệ giữa ngân hàng nớc này là đại lý cho ngân hàng nớc khác
với công nghệ ngân hàng hiện đại đã làm cho quá trình thanh toán quốc tế diễn ra
nhanh chóng và thuận lợi.
Ngoài ra, các NHTM còn:
-Thực hiện việc góp vốn mua cổ phần của các TCTD khác hoặc của các
doanh nghiệp từ nguồn vốn điều lệ và quỹ dự trữ của mình.
- Kinh doanh ngoại hối và vàng.
- Uỷ thác và nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt
động ngân hàng; kinh doanh, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ t vấn tài chính
tiền tệ cho khách hàng, dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ
két, cầm đồ và các dịch vụ khác...

Qua tìm hiểu chức năng nghiệp vụ và quá trình thực hiện nghiệp vụ của
NHTM, ta thấy rõ vai trò trung gian của ngân hàng và mối quan hệ tách biệt giữa
ngời cho vay tiền và ngời đi vay tiền: Khi Ngân hàng phát ra một khoản tiền vay,
số vốn đó nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng, nên sự vận động của nó nh
thế nào Ngân hàng rất khó theo dõi. Khả năng rủi ro chính là ở đây. Xét về mặt
chủ quan, việc chọn lựa khách hàng cho vay là rất quan trọng đối với Ngân hàng
vì nếu tìm hiểu không kỹ lỡng về khách hàng thì Ngân hàng có thể chuốc lấy tai
hoạ cho mình khi những đồng tiền ra đi mà không trở về. Còn về mặt khách quan,
mọi rủi ro đối với khách hàng trong kinh doanh đều là rủi ro của Ngân hàng, bởi
vốn kinh doanh của khách hàng là một phần vốn vay từ Ngân hàng. Trong khi đó,
nguồn vốn để Ngân hàng đem đi cho vay chủ yếu lấy từ tiền huy động đợc, tức là
phần lớn số tiền để cho vay không thuộc sở hữu của Ngân hàng. Ngân hàng phải
có trách nhiệm bảo quản, gìn giữ và làm sinh lợi số tiền huy động đó. Vì vậy
NHTM sẽ phải gánh chịu rủi ro từ nhiều phía: rủi ro từ các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hoặc các cá nhân đi vay, rủi ro từ phía ngời gửi tiền và rủi ro từ phía
các ngân hàng thơng mại khác. Đó là còn cha kể đến những rủi ro riêng có khác
của hoạt động kinh doanh ngân hàng.
III. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng:
1. Rủi ro là gì?
Trong nền kinh tế thị trờng, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi.
Kinh tế thị trờng làm đa dạng hoá các thành phần kinh tế, bình đẳng hoá hoạt
động của các thành phần này và thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau.
Rủi ro - tuy là sự bất trắc gây ra mất mát thiệt hại - sự bất trắc cụ thể
liên quan đến một biến cố không mong đợi
- song lại là hiện tợng tất yếu trong cơ chế thị trờng, trong quá trình
cạnh tranh. Rủi ro xuất hiện ở những điểm yếu, kém hiệu quả, mất cân đối trong
phát triển kinh tế. Rủi ro vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của những hoạt động
kinh tế không có hiệu quả. Nó tạo thức ăn, nguyên liệu cho quá trình đào thải tự
nhiên các doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự chấn chỉnh thích nghi của các
doanh nghiệp, tạo xu hớng phát triển ổn định và có hiệu quả cho nền kinh tế.

Trong điều kiện kinh tế thị trờng, hoạt động kinh doanh của các NHTM
cũng không nằm ngoài sự tác động trên. Thậm chí ngân hàng phải luôn ý thức đợc
rằng hầu nh không có loại nghiệp vụ nào, không có loại dịch vụ nào của ngân
hàng là không có rủi ro.
Hơn nữa, khác với các doanh nghiệp khác, NHTM ngoài sự cạnh tranh với
nhau trên hoạt động nghiệp vụ ngân hàng thuần tuý còn cạnh tranh với nhau trên
cơ sở các mối quan hệ với khách hàng của mình. Vì vậy, khả năng rủi ro của ngân
hàng trong kinh doanh tiền tệ là khả năng rủi ro nhân đôi .
2. Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Kinh doanh của Ngân hàng là một nghề lắm rủi ro .
Qua thống kê, các rủi ro của NHTM chủ yếu tập trung vào những dạng sau:
2.1. Rủi ro tín dụng : Rủi ro tín dụng là lỗ tiềm tàng vốn có đợc tạo ra khi cấp
tín dụng cho một khách hàng .
Đây là loại rủi ro lớn nhất và thờng xuyên xảy ra trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Vì vậy, Việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm chính của
nghề ngân hàng Rủi ro trong tín dụng xảy ra khi bên đi vay, trong một giao dịch,
không thực hiện đợc việc thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều kiện trong hợp
đồng làm cho ngời cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
Rủi ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, màu sắc, cung
bậc khác nhau, chúng luôn tiềm ẩn hay nói một các khác luôn rình rập trong suốt
quá trình trớc, trong và sau khi cho vay và biểu hiện ra bên ngoài là món vay
không thu hồi đợc, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn...
Hoạt động của NHTM chủ yếu là hoạt động tín dụng và Ngân hàng thu lợi
chủ yếu bằng cách cho vay: Phần lớn Tài sản Có của Ngân hàng là ở dạng tiền
cho vay và thờng tạo ra tới 60% thu nhập của Ngân hàng. Nhng rủi ro đa lại cho
Ngân hàng từ lĩnh vực này những thiệt hại nặng nề, có khi dẫn đến phá sản . Lý
do là các khoản tiền cho vay ( chiếm tới hơn 60% Tài sản Có) kém lỏng hơn so
với Tài sản Có khác bởi chúng không thể chuyển thành tiền mặt trớc khi các món
vay đó đáo hạn.
Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa khó khăn

nhất .
Nghiên cứu vận động tín dụng ta thấy mỗi trờng hợp đều có mức độ rủi ro
nhất định khác nhau mà biểu hiện bên ngoài là không thu hồi đợc nợ, nợ quá hạn,
nợ khó đòi, vốn bị đọng, mất vốn... Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một
NHTM, ngời ta thờng xét đến tỉ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Trong tỉ trọng nợ
quá hạn, ngời ta còn chia ra tỉ trọng nợ quá hạn dới một năm, nợ quá hạn trên
một năm, nợ quá hạn khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi...Các tỉ trọng này
càng cao thì khả năng bảo toàn vốn tín dụng của Ngân hàng càng thấp.
Ngân hàng không thể loại trừ khả năng rủi ro, song rủi ro tín dụng đòi hỏi
ngân hàng phải có những giải pháp đồng bộ hữu hiệu mới có thể ngăn ngừa bớt
rủi ro, hạn chế tối đa những thiệt hại có thể xảy ra. Nh trên đã đề cập, rủi ro tín
dụng là rủi ro phức tạp nhất , thờng xuyên xảy ra nhất và cũng gây ra cho ngân
hàng những tổn thất to lớn nhất do tỉ trọng đầu t cho vay trong sử dụng vốn lớn
nhất. Việc nghiên cứu rủi ro trong hoạt động tín dụng sẽ cho ta có một cái nhìn
toàn cục, từ đó có thể tìm đợc những biện pháp khắc phục rủi ro trong hoạt động
kinh doanh tín dụng của các NHTM nói chung và các NHTMCP nói riêng.
2.2. Rủi ro về nguồn vốn:
Rủi ro nguồn vốn thờng xảy ra dới hai hình thức:
-Rủi ro do thừa vốn: NHTM thông qua hình thức đi vay để cho vay
nhằm kiếm lợi nhuận, còn nguồn vốn tự có chỉ là cái đệm chống đỡ sự sụt giá
của các tài sản có Khi nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ứ đọng có nghĩa là
ngân hàng không cho vay ra đợc hoặc không sử dụng hết, trong khi đó ngân hàng
vẫn phải trả lãi cho ngời gửi tiền., chi các chi phí nghiệp vụ, các chi phí quản lý.

×