Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Xác định tiềm năng phát triển bền vững lãnh thổ theo phương pháp Ecology Footprint (EF) thích ứng với điều kiện Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.51 KB, 6 trang )

DIỄN ĐÀN

XÁC ĐỊNH TIỀM NĂNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÃNH THỔ

THEO PHƯƠNG PHÁP ECOLOGY FOOTPRINT (EF)
THÍCH ỨNG VỚI ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM

TS. TRẦN THụC HN

C

hính phương pháp EF chỉ ra rằng, con người chúng ta đang sử dụng trên mức tài nguyên đất đai
mà trái đất và giới hạn lãnh thổ của các quốc gia cho phép: Giới hạn cho phép là 1,8ha/người theo
số liệu dân số toàn cầu năm 2008. Nhưng sau khi tính toán, trung bình toàn cầu chúng ta đang sử
dụng 2,2ha/người. Nếu như tất cả chúng ta muốn sống như người Mỹ thì phải cần đến hơn 5 quả đất, như
người Đức hay người Pháp cần đến 3 quả đất. Quốc tế cũng có rất nhiều chỉ trích nhằm vào những nước
đang phát triển như Trung Quốc hay Ấn Độ khi bùng nổ kinh tế với tốc độ phát triển quá nóng làm tổn hại
nặng nề môi trường sống. Tuy nhiên phương pháp này chỉ ra rằng: những nước này lại chỉ cần đến 1 hoặc
thậm chí dưới 1 quả đất với lối sống hiện nay của họ. Bài viết này muốn đưa một thông điệp về tính toán
sức mang của các loại tài nguyên đất trong quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch kinh tế-xã hội, quy hoạch sử
dụng đất và quy hoạch xây dựng.

Lý thuyết về đánh giá tiềm năng phát triển theo phương pháp EF

Phương pháp footprint - Là cách tính toán cụ thể và tiên tiến nhất hiện nay mà các quốc gia phát triển sử
dụng để đánh giá mức độ phát triển bền vững. Trong Quy hoạch sử dụng đất, quá trình này được nhận dạng
rõ qua các biểu hiện sau:
n Các khu đònh cư nông nghiệp lâu đời hiện nay đều được khai thác quá công suất khi cộng sinh với các
khu ở mới trong đô thò hóa rộng khắp ở Việt Nam, lớn hơn rất nhiều so với khả năng và quy mô thực tế mà
nó có được (Tính theo tài nguyên, sự tiêu thụ và chất thải của nó). Hiện tượng này khiến các nhà hoạch


đònh chính sách khó kiểm soát được sử dụng đất mộ cách hiệu quả và tương lai của nó. Việc chiếm dụng
đất nông nghiệp làm đô thò mới chưa bao giờ dựa trên các nghiên cứu khoa học về phát triển bền vững tài
nguyên đất đai và tài nguyên nông nghiệp trong tương lai xa của dân tộc - vốn dựa trên nền của văn minh
lúa nước để tồn tại và phát triển lâu dài.
n Cần đến các phương pháp mới để đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất theo các tiêu chí quốc tế và
quốc gia có thể đònh lượng được. Các phương pháp đó gắn với hoàn cảnh cụ thể của tự nhiên và xã hội,
con người tại chỗ, thông qua các số liệu khảo sát tại chỗ.

16

SË 93 . 2018


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

n Hiện nay thế giới đang dùng hai phương pháp chính để đánh giá
tính bền vững của các mô hình đònh cư đô thò và nông thôn như sau:
1 - Đánh giá thông qua đònh lượng khí thải CO2 - Là cách được bàn
đến nhiều nhất khi đánh giá tác động tới môi trường, tài nguyên của
đô thò, đặc biệt thích hợp với các đô thò đã phát triển cao, có quy
đònh các chỉ tiêu về hiệu ứng nhà kính và khí thải. Nhưng đối với
các nước đang phát triển thì khó áp dụng được vì phần lớn các khu
đònh cư ở đây đều có khí thải dưới tiêu chuẩn, nhưng vẫn không bền
vững về môi trường sống.

2 - Đánh giá bằng Phương pháp Ecological Footprint (EF) theo sử
dụng đất - Phương pháp Ecological Footprint (EF - lược dòch: “dấu
chân sinh thái”) về cơ bản là một phương pháp đònh lượng hoá mức
độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên của một mô hình xã hội nhằm
đánh giá một cách toàn diện tính bền vững của mô hình đó. Đây là

cách tiếp cận mới nhất để đánh giá toàn diện tính bền vững các mô
hình đònh cư.
q Sức gánh chòu sinh thái của Trái Đất được tính theo chỉ số phân tích
sinh thái bình quân đầu người (ecological footprint anlalysis), gọi tắt
là chỉ số sinh thái bình quân. Đối với mỗi quốc gia, người ta tính tổng
diện tích đất đai và mặt nước của các hệ sinh thái có để sản xuất tất
cả các nguồn lực cộng với diện tích đất đai và mặt nước đủ để hấp thụ
mọi chất thải phát sinh trong đời sống. Các vùng có sức sản xuất sinh
học để tính chỉ số sinh thái bình quân là đất trồng trọt, đồng cỏ, rừng
,đại dương, đất xây dựng và đất chôn lấp giá trò môi trường (được tính
trên cơ sở đất cần cho hấp thụ và đồng hoá cacbon điôxit, các chất
thải do đốt nhiên liệu hoá thạch và do con người thải ra môi trường).
Phương pháp EF được hai người Canada là William Rees và
Mathis Wackernagel đề xuất năm 1996 trong cuốn sách “Our ecological footprint: Reducing human impact on the Earth”. Sau đó
được hai GS. Valer và Brenda phát triển ứng dụng cho kiến trúc
và quy hoạch đô thò ở Đại học Cambrige và Auckland. Ở những
nước giàu phương pháp này được sử dụng ngay để tính toán công
suất tối đa của lãnh thổ và quy mô dân số thích ứng, như Cardiff Anh; Olso - Nauy; Australia; NewZeland; Canada; Phần Lan, Th
Điển, Mỹ... Đó là một hệ thống tính toán và diễn đạt về những tác
động nhiều mặt tới môi trường sống (Sơ đồ 1). Nó cho phép đưa
ra các chỉ tiêu biểu đạt tinh tế về Hệ thống tính toán nhằm sử dụng
tài nguyên đất và con người của lãnh thổ một cách hiệu quả, thông
minh và bền vững.
q

Hiện nay EF là một trong những phương pháp đánh giá độ bền
vững được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới, nhất là đối với những
mô hình đònh cư trên nhiều cấp độ từ vó mô đến vi mô.
Mô tả chung về phương pháp EF: bao gồm 2 thành phần số liệu
tính toán cho sử dụng đất chính sau:

n Land footprint: bao gồm đất để trồng trọt, chăn nuôi, rừng, thuỷ
sản, đất xây dựng (trong đó có đô thò và nông thôn), xây dựng hạ
tầng kỹ thuật.
n Energy footprint được gọi là Carbon footprint: đây là đất dành cho
năng lượng, hiện tại được tính toán bằng diện tích rừng để hấp thụ
khí thải CO2, được thải ra do tiêu thụ năng lượng trong sinh hoạt
và sản xuất.

Khả năng áp dụng EF trong tính toán tiềm năng phát triển của
các quần thể cư trú đô thò và nông thôn ở Việt Nam:
n EF thường tập trung phân tích các quần thể cư trú con người hay
một nền kinh tế. Tất cả đất sản xuất và diện tích nước yêu cầu cho
sản xuất hàng hóa và dòch vụ tiêu thụ liên tục và xử lý chất thải phát
sinh ra được tính chung vào dấu ấn sinh thái. Đó là một phần lý do
mà ngày nay khi nói trong nông nghiệp hay các họat động khác
được xem là phát triển bền vững là không chính xác vì nó chưa tính
hết các thành phần của dấu ấn sinh thái. Đó cũng là lý do EF hiện
nay được sử dụng rộng rãi tại các quốc gia tiên tiến.
Sử dụng EF cho các họat động và các sản phẩm, dòch vụ sẽ trở
nên phổ biến khi phương pháp luận được mở rộng cho các đánh
giá về phát thải.

n

n Các phép tính này này có thể được dùng để tính toán cho những
mô hình sống trên nhiều cấp độ:
q Phép đo EF chuyển đổi các diện tích có khả năng cung cấp năng
suất sinh học sang đơn vò chuẩn hecta toàn cầu (gha).
q Các quốc gia sử dụng các tiêu chuẩn dưới đơn vò gha như các
chuẩn mực để đánh giá và đònh hướng họat động nhằm vừa phục

vụ lợi ích của con người mà không làm ảnh hưởng tới các hệ sinh
thái trên hành tinh.
q Trên cơ sở các số liệu về diện tích các lọai đất đai cho năng suất
sinh học, lượng tiêu thụ, sản lượng trung bình toàn cầu và các hệ
số cân bằng, người ta có thể tính ra được chỉ số EF cho toàn cầu,
một đất nước, một vùng kinh tế, một thành phố, một khu dân cư,
thậm chí một cá nhân)
n Nhờ công cụ EF mà chúng ta có thể đánh giá được mức độ bền
vững của phát triển. Chúng ta có thể đònh lượng được diện tích
đất và mặt biển cho năng suất sinh học trên trái đất có khả năng
giúp loài người tồn tại. Từ đó cũng có thể tính ra được sự phân chia
nguồn tài nguyên cho mỗi con người.

Sơ đồ 1: Chỉ số EF tại các vùng trên thế giới

Phạm vi áp dụng của EF:
Áp dụng trong chính sách quản lý tài nguyên và môi trường, cũng
như cân đối sử dụng đất để đánh giá độ bền vững các mô hình
đònh cư truyền thống và các mô hình đònh cư sẽ phát triển khác.
Trong phát triển đô thò bền vững, EF cho phép đưa các số liệu tính
toán thông qua sử dụng đất, lối sống và sự ứng xử của con người
SË 93 . 2018

17


với tài nguyên. Do vậy, nó là công cụ hữu ích trong xây dựng chiến
lược quốc gia về lập quy hoạch xây dựng, quy hoạch tổng thể kinh
tế xã hội. Và hơn nữa, EF được sử dụng để đánh giá tính bền vững
các mô hình đònh cư trong thời kỳ biến đổi khí hậu và đô thò hoá

(Tại đô thò, nông thôn, miền núi, hải đảo...), đây là cách đánh giá
thích hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.
Đánh giá và phân tích hiệu quả sử dụng đất để đưa ra kòch bản
phát triển bằng Phương pháp EF:
n EF thường tập trung phân tích các quần thể người hay nền kinh
tế. Tất cả đất sản xuất và diện tích nước yêu cầu cho sản xuất hàng
hóa và dòch vụ tiêu thụ liên tục và xử lý chất thải phát sinh ra được
tính chung vào dấu ấn sinh thái. Đó là một phần lý do mà ngày nay
khi nói trong nông nghiệp hay các hoạt động khác được xem là phát
triển bền vững là không chính xác vì nó chưa tính hết các thành
phần của dấu ấn sinh thái. Đó cũng là lý do EF hiện nay được sử
dụng rộng rãi tại các quốc gia tiên tiến.
Sử dụng EF cho các hoạt động và các sản phẩm, dòch vụ sẽ trở
nên phổ biến khi phương pháp luận được mở rộng cho các đánh
giá về phát thải.

phương pháp tính diện tích biển, bù trừ sự sử dụng năng lượng hoá
thạch và năng lượng nguyên tử (ví dụ rất nhiều nghiên cứu chỉ đơn
giản mặc đònh rằng năng lượng nguyên tử có cùng chỉ số EF với
năng lượng hoá thạch) (nguồn: Wikipedia), nguồn số liệu đầu vào,
các chỉ số nào cần tính toán đối với mỗi vùng đòa lý cụ thể, có đưa
vào các yếu tố về đa dạng sinh học hay không, có nên tính toán
thêm cả yếu tố xuất/nhập khẩu hay không,...
n Năm 2003, Jason Venetoulis, Carl Mas, Christopher Gaudet,
Dahlia Chazan, và John Talberth phát triển Footprint 2, bao gồm
nhiều cải tiến về lý thuyết và phương pháp tính so với phương pháp
tiêu chuẩn.
n Tuy nhiên, với việc các tiêu chuẩn footprint (footprint standards)
được thiết lập, các phương pháp tính đang có xu hướng đồng quy.
- Hiện nay, Global Footprint Network là tổ chức lớn và chính thống

nhất trong việc phát triển phương pháp EF và nhân rộng sự áp
dụng của phương pháp này.

n

n Các phép tính này này có thể được dùng để tính toán cho những
mô hình sống trên nhiều cấp độ:
q Phép đo EF chuyển đổi các diện tích có khả năng cung cấp năng
suất sinh học sang đơn vò chuẩn hecta toàn cầu (gha).
q Các quốc gia sử dụng các tiêu chuẩn dưới đơn vò gha như các
chuẩn mực để đánh giá và đònh hướng họat động nhằm vừa phục
vụ lợi ích của con người mà không làm ảnh hưởng tới các hệ sinh
thái trên hành tinh.
q Trên cơ sở các số liệu về diện tích các loại đất đai cho năng suất
sinh học, lượng tiêu thụ, sản lượng trung bình toàn cầu và các hệ
số cân bằng, người ta có thể tính ra được chỉ số EF cho toàn cầu,
một đất nước, một vùng kinh tế, một thành phố, một khu dân cư,
thậm chí một cá nhân.
q Nhờ công cụ EF mà chúng ta có thể đánh giá được mức độ bền
vững của phát triển. Chúng ta có thể đònh lượng được diện tích
đất và mặt biển cho năng suất sinh học trên trái đất có khả năng
giúp loài người tồn tại. Từ đó cũng có thể tính ra được sự phân chia
nguồn tài nguyên cho mỗi con người.

Phương pháp EF có nhiều lợi thế so với các phương pháp tính
khác như Life- cycle Analysis và Carbon Footprint trong việc đánh
giá tổng hợp, so sánh các mô hình đònh cư, cũng như hoạch đònh
chiến lược phát triển cụ thể. Đây là phương pháp tính khá đơn giản
và hiệu quả, dễ áp dụng trong điều kiện Việt Nam.


n

Theo đánh giá ban đầu, dựa trên các nguồn tài liệu tham khảo,
khả năng tổng hợp số liệu, độ phức tạp của phương pháp tính,... có
thể tổng hợp, xây dựng phương pháp tính và tìm kiếm số liệu để tính
toán cho các mô hình đònh cư trong phạm vi của đề tài mà cụ thể là
7 đòa điểm tại 3 vùng kinh tế trọng điểm đã được lựa chọn.

n

Các biến thể của phương pháp tính EF
n Có khá nhiều những tranh cãi và biến thể của phương pháp tính
chỉ số EF trong các nghiên cứu khác nhau. Các ví dụ bao gồm

18

SË 93 . 2018

Global Footprint Network là một Viện chính sách có trụ sở tại
Mỹ, Thụy Sỹ và Bỉ. Hoạt động của nó xoay quanh phương pháp
EF với mục đích hướng tới tương lai bền vững cho loài người. Mạng
lưới này gồm hơn 70 tổ chức thành viên bao gồm WWF International, Sarasin bank, Pictet bank, British think tank, New Economics Foundation, và UK consultancy Best Foot Forward. Năm 2012
được xếp vào Top 100 các tổ chức NGOs (theo Global Journal).
n

n Theo

kế hoạch của họ tới năm 2015 sẽ có 10 nước chính thức sử
dụng phương pháp EF.
Global Footprint Network cũng là tổ chức đặt ra các footprint

standards (tiêu chuẩn hoá phương pháp tính EF trên toàn thế giới)
hiện đang được chấp nhận rộng khắp.

n

Phương pháp tính của Global Footprint Network sẽ là nguồn
tham khảo chính cho đề tài.

n

n Phương pháp tính EF trên cấp độ quốc gia được đề cập đến trong
Footprint Atlas 2010 và một số ấn phẩm khác bao gồm Calculation
Methodology for the National Footprint Accounts và một số báo cáo
khoa học khác. Global Footprint Network còn có National Accounts
Review Committee nhằm nghiên cứu cải tiến phương pháp EF.

Đề xuất phương pháp tính cơ bản cho Việt Nam:

1. Phân loại các diện tích đất cho năng suất sinh học
Với mục đích tính EF, các diện tích cho năng suất sinh học được chia
thành 5 dạng cơ bản (Xem Hình 1):
n Diện tích cho năng suất sinh học (đất canh tác, đồng cỏ chăn
nuôi, đất rừng, các thủy vực,…).
n Diện

tích mặt nước cho năng suất sinh học.

n Diện tích cung cấp năng lượng (đất rừng cần để hấp thu lượng
CO2 phát thải hoặc cung cấp năng lượng sinh khối).
n Diện


tích xây dựng (nhà cửa, đường,…).


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

n Diện tích đa dạng sinh học, là diện tích đất cần để duy trì đa dạng
sinh học.

dựng tính cho một cá nhân cụ thể là diện tích cần để cá nhân đó
xây dựng nhà ở, khu vui chơi, công sở,… cần thiết phục vụ đời sống.
Dấu chân CO2 (Carbon footprint): Dấu chân CO2 của một cá nhân
là diện tích cần để hấp thụ toàn bộ lượng CO2 phát thải từ các hoạt
động tiêu thụ năng lượng của người đó. Dấu chân CO2 bao gồm
việc sử dụng trực tiếp than, dầu, khí đốt trong gia đình hay giao
thông cá nhân, và gián tiếp là tiêu thụ điện, giao thông công cộng,
tiêu thụ các hàng hóa được sản xuất, và một số dòch vụ khác.
3. Đơn vò tính
n Để thuận lợi cho việc so sánh khả năng cho năng suất sinh học
giữa các nước, các vùng v.v, phương pháp EF sử dụng đơn vò global ha (gha), là một dạng đơn vò diện tích chuyển đổi. Đơn vò này
được sử dụng xuyên suốt quá trình tính toán.
n Để

Hình 1: Phân loại các diện tích cho năng suất sinh học

2. Các thông số chính cho sử dụng đất:
Phương pháp EF sử dụng 6 thông số/thành phần chính để đánh giá
mức độ bền vững của các mô hình đònh cư:
Dấu chân diện tích canh tác (Cropland): được sử dụng để phát triển
mùa màng. Đây là loại diện tích cho năng suất sinh học cao nhất.

Dấu chân diện tích canh tác tính cho một cá nhân là diện tích cần
thiết để tạo ra toàn bộ sản phẩm mùa màng mà cá nhân đó tiêu thụ.
Dấu chân diện tích đồng cỏ chăn nuôi, trồng trọt (Grazing land):
diện tích đủ để cung cấp thòt, các sản phẩm bơ sữa, da và lông,
nhưng các vật nuôi này không tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp
mà cư trú lâu dài trên các đồng cỏ.
Dấu chân diện tích rừng (Forest land): diện tích cần thiết để tạo ra
các sản phẩm gỗ mà người đó tiêu thụ. Nó bao gồm gỗ củi, than
củi, gỗ nguyên liệu (kể cả dạng gỗ xẻ, gỗ ván, và vật liệu cách
nhiệt), giấy và bìa các tông.
Dấu chân diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản (Fishing ground):
diện tích cần thiết để tạo ra được các sản phẩm cá và thủy hải sản
khác mà người đó tiêu thụ. Diện tích này cung cấp toàn bộ lượng
cá, giáp xác, thân mềm, cũng như các sản phẩm thòt cá làm thức
ăn cho động vật.
Dấu chân diện tích xây dựng (Built-up land): Dấu chân đất xây

1gha = 1ha khoảng không gian cho năng suất sinh học bằng
mức trung bình thế giới. Do mỗi dạng đất có năng suất khác nhau,
nên 1gha sẽ tương đương với số ha khác nhau, ví dụ, 1 ha đất canh
tác sẽ chiếm một diện tích chuyển đổi nhỏ hơn so với 1ha đất đồng
cỏ - có năng suất sinh học thấp hơn, hay nói cách khác, cần nhiều
diện tích đồng cỏ hơn để tạo ra được một trữ lượng sinh học bằng
trữ lượng sinh học của 1ha đất canh tác tạo ra.

4. Phương pháp tính và Công thức
Như đã nói ở trên, về cơ bản phương pháp EF là một phép so sánh
giữa nhu cầu của con người (Ecological Footprint - EF) với sức tải
sinh học (Biocapacity - BC). Do đó, ngoài việc tính toán EF ta cần
phải tính BC như một tiêu chuẩn để đánh giá độ bền vững của một

mô hình sống:
q Nhu cầu tiêu thụ của mô hình sống được thể hiện qua chỉ số
Ecological Footprint of Consumption: là tổng hợp của 6 thông số
đề cập trên đây.
q Sức tải sinh học là khả năng của hệ sinh thái của mô hình sống
đó trong việc tạo ra vật chất sinh học hữu dụng và hấp thụ chất thải,
được thể hiện qua chỉ số Total Biocapacity. Chỉ số này là tổng trữ
lượng của 5 loại đất tương ứng với các thông số đề cập trong mục
2, trừ Carbon Footprint).
q Sự chênh lệch giữa Ecological Footprint of Consumption và Total
Biocapacity được gọi là Ecological (Deficit) or Reserve. Thông số
này có thể âm hoặc dương - thể hiện sự bền vững hay không bền
vững của mô hình sống (xem ví dụ trong Bảng 1).
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ có công thức tính EF và BC khác
nhau phụ thuộc vào điều kiện về sử dụng tài nguyên, lượng tiêu

n

Bảng1 : EF và BC của một số nước được tính bởi GFN (số liệu năm 2010)

SË 93 . 2018

19


thụ hay số liệu có đủ không. Nhưng đều theo công thức chung như
trong Sơ đồ 2.

đất trồng phải sử dụng để sản xuất lượng sản phẩm cần thiết, với
năng suất trung bình của thế giới.

Sức tải sinh học (BC) của đất canh tác thể hiện khả năng cung cấp
tổng hợp của tất cả các loại đất được sử dụng để canh tác. Đối với
1 mô hình sống bền vững, EF của đất trồng nhất thiết không được
vượt qua BC. Trên thực tế, đất canh tác có hiệu suất thu hoạch
bằng với hiệu suất sinh trưởng, về thế Footprint của hoạt động sản
xuất (EFP) của loại diện tích này không thể lớn hơn BC (Footprint
tiêu thụ (EFC) vẫn có thể lớn hơn BC.

Sơ đồ 2: Công thức chung tính toán EF và BC

Công thức này được áp dụng để tính EF và BC cho từng loại diện
tích (Sơ đồ 3)

Tính toán EF (cụ thể là EFC) và BC của đất trồng cho một mô hình
sống là phương pháp rất hiệu quả trong việc hoạch đònh chính sách
phát triển. Ví dụ ta có thể thấy rõ ràng mô hình sống này có khả
năng cung cấp lương thực cho toàn thể dân cư hay không? Nếu
thiếu thì phải nhập khẩu bao nhiêu? Nếu thừa thì xuất khẩu bao
nhiêu là đủ? Quá trình xuất nhập khẩu đó ảnh hưởng tới tính bền
vững tổng thể như thế nào? Nên trồng loại cây lương thực gì, trên
quy mô diện tích bao nhiêu? ...
2 - Đất đồng cỏ chăn nuôi - Grazing Land
Phương pháp tính đất chăn thả sinh thái tính toán trên diện tích đồng
cỏ xác đònh làm nguồn cấp nguyên liệu cho chăn nuôi. Đất chăn thả
này bao gồm tất cả các đồng cỏ được sử dụng để cung cấp thức ăn
cho động vật, bao gồm đồng cỏ trồng cũng như các đồng cỏ tự nhiên
và các cánh đồng. Đất chăn thả sinh thái tính toán theo Công thức
10, biểu hiện cho sản lượng trung bình NPP trên mặt đất cho đồng
cỏ. Nhu cầu về đồng cỏ là số lượng sinh khối theo yêu cầu của chăn
nuôi sau khi trừ nguồn cấp dữ liệu đang chiếm, theo công thức:

(Công thức 1)

Sơ đồ 3: EF và BC tính cho từng loại diện tích

Phân tích các loại diện tích đất cụ thể trong EF:

Như đã biết, dấu chân sinh học (EF) của một mô hình sống thể hiện
nhu cầu của con người đối với hệ sinh thái (cụ thể là các sản phẩm
sản xuất bởi các diện tích sinh học); trong khi sức tải sinh học (BC)
thể hiện khả năng cung cấp tối đa của các loại diện tích tương ứng.
Theo số liệu của GFN, năm 2008, tổng diện tích có thể sản xuất
của trái đất (bao gồm cả diện tích đất và diện tích mặt nước) là 12 tỉ
hecta. Sau khi nhân với hệ số cân bằng EQF, diện tích tương ứng
tính bằng global hecta (gha) có sự khác biệt với diện tích thực tế tính
bằng ha (xem Sơ đồ 4).
1 - Đất canh tác - Cropland
Đất canh tác bao gồm tất cả diện tích đất cần thiết để sản xuất các
loại cây trồng, bao gồm cả thức ăn chăn nuôi, thức ăn cho cá, các
sản phẩm chiết xuất dầu, cao su... Đất trồng là loại đất có đặc tính
sinh học cao nhất, do đó có hệ số cân bằng EQF lớn nhất. Nói cách
khác, diện tích đất canh tác tính theo gha lớn hơn so với diện tích
thực tế tính bằng ha (Sơ đồ 9). Dấu chân sinh học của đất trồng
(Cropland Footprint) bao gồm cả hoạt động sản xuất, nhập khẩu và
xuất khẩu của các sản phẩm nông nghiệp cơ bản và thứ cấp. Dấu
chân sinh thái của mỗi loại sản phẩm nông nghiệp chính là diện tích

20

SË 93 . 2018


Ghi chú:
n TFR: tính toán tổng nhu cầu về nguồn cấp nguyên liệu sản xuất cho
chăn nuôi
n FMkt, FCrop và FRes: Khối lượng nguồn cấp nguyên liệu có sẵn nói chung
từ các loại cây trồng phát triển đặc biệt làm thức ăn, và dư lượng cây
trồng, tương ứng.

Tính toán đất chăn thả là phức tạp nhất trong các NFAs và đã cải tiến
đáng kể trong bảy năm qua; bao gồm cải tiến cho nguồn cấp nguyên
liệu, cá và động vật là thực phẩm được sử dụng như thức ăn chăn nuôi, và cung cấp lương thực cho vật nuôi (xem Ewing et al., 2010a để
biết thêm chi tiết 1). Tuy nhiên, nếu sản lượng đất chăn thả đại diện
cho diện tích trên mặt đất sản xuất chính trong một năm không có số
liệu đáng kể thì một thực tế khác là sự suy giảm về đất không được
theo dõi bởi các phương pháp dấu chân sinh thái (Kitzes, 2009).
3 - Đất thả cá - Fishing Grounds
Dấu chân sinh thái cho ngư nghiệp được tính dựa trên việc sản xuất
hàng năm chính cần thiết để duy trì thu hoạch một loài thủy sản.
Yêu cầu chính sản xuất này, ký hiệu PPR, là tỷ lệ khối lượng thu
hoạch cá để sản xuất hàng năm chính cần thiết để duy trì thu hoạch
một loài, dựa trên mức dinh dưỡng trung bình. Công thức 11 được
sử dụng để tính toán PPR.


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

(Công thức 2)

Ghi chú:
n CC: lượng cac-bon
n DR tỉ lệ hao hụt khi đánh bắt

n TE các bậc
n TL mức độ dinh dưỡng của loại cá tính toán

Sản xuất chính của về thủy sản được tính
toán dựa trên ước tính thu hoạch bền vững
hàng năm của nhóm 19 loài thủy sản khác
nhau (Gulland, 1971). Các số liệu được
chuyển đổi tương đương để sản xuất chính
bằng cách sử dụng Công thức 11, và tổng
số này cũng chính là thuỷ sản bền vững
toàn cầu có thể thu hoạch. Do đó, yêu cầu
mô hình sản xuất chính bền vững, PPS,
được tính dưới dạng:
(Công thức 3)

Ghi chú:
n QS,i: đánh bắt bền vững tính toán cho nhóm
loài i;
n PPRi: yêu cầu sản xuất chính tương ứng với
mức độ dinh dưỡng trung bình của nhóm

Vì vậy, năng suất biển thế giới-là YM, trong
điều kiện PPR, được tính bởi:
(Công thức 4)

Ghi chú:
n PPS: Tổng thu hoạch bền vững trền toàn cầu
từ Công thức 12;
n ACS: tổng diện tích thềm lục đòa toàn cầu.


Trong bảy năm qua việc tính toán phần
đánh bắt cá của NFAs đã cải tiến đáng kể,
bao gồm nhiều loại cá khai thác và sản xuất nuôi trồng thủy sản, các loại cây trồng
được sử dụng trong thủy sản (Ewing và
ctv., 2010a).
4 - Đất trồng rừng
Đất trồng rừng sinh thái tính toán dựa trên
các biện pháp thu hoạch hàng năm của
nhiên liệu gỗ và gỗ để cung cấp sản phẩm
rừng. Năng suất được sử dụng trong đất
trồng rừng sinh thái hàng năm tăng (NAI)
tương ứng với lượng tiêu thụ gỗ/ha.Nguyên
liệu sản xuất gỗ từ đánh giá của UNEC và

FAO về tài nguyên rừng và các FAO toàn
cầu dựa trên lượng cung cấp được sử dụng
để tính toán năng suất trung bình của thế
giới là
1.81 m3 gỗ hình/ha/năm (UNECE và FAO
2000; FAO NĂM 1998). NFAs tính toán đất
trồng rừng sinh thái theo số lượng sản xuất
của 13 gỗ sản phẩm chính và 3 gỗ nhiên
liệu. Gỗ thương mại bao gồm 30 loại gỗ sản
phẩm và 3 loại gỗ nhiên liệu.
Đất hấp thụ carbon Footprint là vùng đất
duy nhất sử dụng trong các NFAs được
dành riêng để theo dõi một sản phẩm chất
thải: khí carbon dioxide. Ngoài ra, nó là
vùng đất duy nhất sử dụng mà sức mang
hiện nay không được xác đònh rõ ràng.

Những hệ sinh thái khác nhau có khả năng
để lưu trữ dài hạn CO2 khác nhau, bao gồm
cả các loại đất sử dụng, ví dụ như đất trồng
trọt hoặc đồng cỏ. Tuy nhiên, cacbon hấp
thu trong sinh quyển xảy ra trong rừng, và
để tránh vượt quá mức tính toán, cacbon
hấp thu đất được giả đònh là (một tiểu thể
loại của) đất trồng rừng tính bằng phương
pháp footprint. Vì vậy, gỗ và gỗ nhiên liệu
không được tách ra từ rừng trong tính toán
sự hấp thu carbon.
CO2 được phát thải vào khí quyển từ nhiều
nguồn, bao gồm các hoạt động của con
người như đốt cháy nhiên liệu hóa thạch
khác nhau và hoạt động trên đất khác; cũng
như các hiện tượng tự nhiên như cháy rừng,
núi lửa và hô hấp của động vật và vi khuẩn.
Tương tự như Công thức 1, công thức cho
các-bon dấu chân sinh thái (EFc) là:
(Công thức 5)

Ghi chú:
n PC: lượng thải hàng năm khí CO2
n SOcean: lượng khí thải hàng năm bò phân
tách bởi đại dương
n YC: tỷ lệ hấp thu Cac-bon hàng năm trung
bình của đất trồng rừng trên thế giới.

5 - Đất xây dựng - Built - Up Land
Đất xây dựng sinh thái được tính dựa trên

vùng đất được bao phủ bởi cơ sở hạ tầng của
con người: Đô thò và nông thôn, giao thông
vận tải, nhà ở, công nghiệp cấu trúc và các
hồ chứa để phát điện thủy điện. Phiên bản

NFA 2011 giả đònh rằng quá trình xây dựng
lên đất chiếm những gì trước đây đã có đất
trồng trọt, ngoại trừ trong trường hợpchứng
minh đất xây dựng lên đất không nằm trên
đất trồng trọt (ví dụ như, trong United Arab
Emirates- Abdullatif và Alam, năm 2011).
Giả đònh này dựa trên các quan sát rằng khu
đònh cư của con người thường nằm trong
các khu vực màu mỡ với tiềm năng cho đất
trồng trọt thu lợi nhuận cao (Imhoff et al.,
1997; Wackernagel et al., 2002).
Vì thiếu dữ liệu toàn cầu trên các khu vực có
hồ chứa thủy điện, nên phép tính NFAs giả
đònh này để bao gồm nguồn đất sinh lợi theo
xếp hạng của từng lónh vực. Xây dựng lên
đất luôn luôn có một sức mang sinh thái của
nó cả khi vì lợi nhuận mà làm thay đổi cơ sở
hạ tầng. Ngoài ra, các bước của sản xuất và
các bước tiêu thụ xây dựng lên đất luôn luôn
bình đẳng trong các NFAs như xây dựng lên
đất thể hiện trong giao dòch mua bán hàng
hoá hiện nay không bao gồm trong tính toán
do thiếu dữ liệu. Thiếu sót này có thể gây
thiếu hụt trong việc xây dựng mạng lưới xuất
khẩu và nhập khẩu quốc gia.

Áp dụng EF trong chính sách quản lý tài
nguyên và môi trường, cũng như cân đối
sử dụng đất để đánh giá độ bền vững các
mô hình đònh cư truyền thống và các mô
hình đònh cư sẽ phát triển khác. Trong phát
triển đô thò bền vững, EF cho phép đưa
các số liệu tính toán thông qua sử dụng
đất, lối sống và sự ứng xử của con người
với tài nguyên. Do vậy, nó là công cụ hữu
ích trong xây dựng chiến lược quốc gia về
lập quy hoạch xây dựng, quy hoạch tổng
thể kinh tế xã hội. Và hơn nữa, EF được
sử dụng để đánh giá tính bền vững các mô
hình đònh cư trong thời kỳ biến đổi khí hậu
và đô thò hoá (Tại đô thò, nông thôn, miền
núi, hải đảo...), đây là cách đánh giá thích
hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.

Ewing B., A. Reed, A. Galli, and M. Wackernagel. 2010. Calculation Methodology for
the National Footprint Accounts, 2010 Edition. Oakland: Global Footprint Network.
(1)

SË 93 . 2018

21



×