Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Độ nhạy, độ đặc hiệu của các nghiệm pháp lâm sàng và cộng hưởng từ trong chẩn đoán rách sụn chêm khớp gối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.12 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013

ĐỘ NHẠY, ĐỘ ĐẶC HIỆU CỦA CÁC NGHIỆM
PHÁP LÂM SÀNG VÀ CỘNG HƯỞNG TỪ TRONG
CHẨN ĐỐN RÁCH SỤN CHÊM KHỚP GỐI
Phùng Văn Tuấn,
Lê Hồng Hải,
Nguyễn Quốc Dũng
Lê Hanh,
Mai Đắc Việt,
Mai Đức Thuận,
Trần Ngọc Thanh,
Nguyễn Đức Hiếu

TĨM TẮT
Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành đánh giá trên 200 bệnh
nhân được phẫu thuật nội soi khớp gối, trong đó có 100 bệnh nhân được chẩn đoán
tổn thương sụn chêm, 100 bệnh nhân không tổn thương sụn chêm được điều trò tại
BVTWQĐ 108 từ 11/2012 đến tháng 5/2013. Chúng tôi đánh giá độ nhạy, độ đặc
hiệu và độ chính xác của các nghiệm pháp lâm sàng, cộng hưởng từ so sánh với kết
quả quan sát được qua nội soi, kết quả qua nội soi được coi là tiêu chuẩn vàng để đánh
giá độ nhạy và độ đặc hiệu hai phương pháp trên.
Kết quả: Độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác của MRI là 90%, 93% và 91.5%, cao
hơn kết quả của các nghiệm pháp lâm sàng với độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác
là 51%-71%, 65%-85% và 65,5%-82% (p<0,05).
Kết luận: Như vậy, để chẩn đoán chính xác rách sụn chêm, cần thiết phải chụp cộng
hưởng từ khớp gối, tuy nhiên khi chỉ đònh phẫu thuật không nên chỉ dựa vào kết quả
cộng hưởng từ, mà phải kết hợp với thăm khám lâm sàng.
Từ khóa: Cộng hưởng từ, Khám lâm sàng, sụn chêm, nội soi khớp gối.

The sensitivity, specificity values of the clinical


examinations and MRI in the diagnosis of meniscal tears
Phung Van Tuan,
Le Hong Hai,
Nguyen Quoc Dung
Le Hanh,
Mai Dac Viet,
Mai Duc Thuan,
Tran Ngoc Thanh,
Nguyen Duc Hieu

SUMMARY
Materials and menthods: We evaluated 200 patients, who were treated with knee
arthroscopy, for a 6-month period from November 2012 to May 2013 at the Joint Surgery
Department in the Orthopedic and Trauma Institute, the 108 Central Military Hospital.
We divided them into 2 groups, 100 patients with meniscal tears in the 1st group and 100
patients without meniscal tears in the 2nd group. The sensitivity, specificity and accuracy
values were established, comparing the clinical results and the results of MRI with the
intra-operative arthroscopic findings as a “gold standard”
Results: The sensitivity, specificity and accuracy values of MRI are 90%, 93% and 91,5%,
they are highger than of clinical examination results with 51%-71%, 65%-85% and 65,5%82% (p<0,05).
Conclusions: These resuls indicated that an MRI is necessary to complete an exact
diagnosis in meniscal tears, but surgery should not only folow an MRI. We should also
follow a clinical examination.
Key words: meniscus tear, clinical examinations, MRI, Arthrocopic knee joint surgery.

90


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tổn thương sụn chêm khớp gối là một bệnh lý hay

gặp, nguyên nhân do chấn thương (tai nạn thể thao, tai nạn
sinh hoạt, tai nạn giao thông…) và do thoái hóa khớp.
Việc chẩn đoán tổn thương sụn chêm qua lâm sàng gặp rất
nhiều khó khăn, do triệu chứng nghèo nàn, ít có dấu hiệu
lâm sàng đặc trưng, nhất là trong giai đoạn tổn thương cấp
và bán cấp, ngoài ra mức độ chính xác của chẩn đoán lâm
sàng còn rất phụ thuộc vào kinh nghiệm của các phẫu thuật
viên. Khi cộng hưởng từ ra đời, nhờ ưu thế trong khảo sát
các bệnh lý phần mềm, là một kỹ thuật không xâm nhập,
cộng hưởng từ được coi là một phương pháp có giá trị
chẩn đoán tổn thương sụn chêm với độ nhạy và độ đặc
hiệu rất cao, và được áp dụng phổ biến tại các cơ sở y tế.
Phẫu thuật nội soi được coi là tiêu chuẩn vàng trong chẩn
đoán có hay không có tổn thương sụn chêm khớp gối, tuy
nhiên đây là biện pháp xâm nhập, tốn kém, cho nên hiện
nay hiếm khi nội soi được sử dụng như một phương pháp
chẩn đoán, mà nội soi khớp gối được sử dụng chủ yếu
để điều trị các tổn thương trong khớp, chẩn đoán các tổn
thương trong khớp, trong đó có tổn thương sụn chêm chỉ
là một “thì” trong quá trình nội soi điều trị tổn thương.
Tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, khoa Phẫu
thuật Khớp hàng năm đã tiến hành phẫu thuật nội soi khớp
gối cho hàng ngàn bệnh nhân. Trên cơ sở dữ liệu bệnh
nhân hiện có, chúng tôi nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá
độ nhạy và độ đặc hiệu của các nghiệm pháp lâm sàng và
cộng hưởng từ trong chẩn đoán tổn thương sụn chêm so
sánh với hình ảnh trên nội soi.

II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU

Gồm 200 bệnh nhân, 46 nữ và 154 nam, được phẫu
thuật nội soi khớp gối điều trị các bệnh lý tổn thương dây
chằng chéo, tổn thương sụn chêm, thoái hóa khớp gối, nếp
hoạt dịch cánh bénh chè, lấy chuội khớp… Trong đó, lựa
chọn 100 bệnh nhân với 100 khớp gối được chẩn đoán
trên nội soi bị rách sụn chêm đơn thuần hoặc kết hợp với
các hình thái khác nhau, 100 bệnh nhân còn lại được chẩn
đoán không tổn thương sụn chêm. Tất cả các bệnh nhân
trên đều được sử dụng các nghiệm pháp lâm sàng trong
chẩn đoán tổn thương sụn chêm và chụp MRI khớp gối 3
Testla và 1.5 Testla.
Loại trừ những tổn thương sụn chêm do bệnh lý sụn
chêm như: sụn chêm hình đĩa, nang sụn chêm, hoặc những
phẫu thuật nội soi trên những khớp gối đã tiến hành nội soi
trước đó.

Khám lâm sàng: Có một số triệu chứng lâm sàng và
các test để chẩn đoán rách sụn chêm như sau.
Triệu chứng tăng kích thích đau tại khe khớp: đây là 1
trong những triệu chứng lâm sàng quan trọng nhất trong
chẩn đoán tổn thương sụn chêm.
Boehler test: liên quan tới nghiệm pháp đánh giá độ
vững của dây chằng bên trong và bên ngoài. Đau sụn chêm
trong khi làm nghiệm pháp há khớp ngoài, đau sụn chêm
ngoài khi làm nghiệm pháp há khớp trong.
McMurray’s test: Gấp duỗi gối trong khi xoay trong
và xoay ngoài cẳng chân, test dương tính khi thấy tiếng
kêu lục cục và đau
Nghiệm pháp Steimann: Bệnh nhân nằm ngửa, gối
gấp. Người khám dùng ngón tay ép vào khe khớp trong

hoặc ngoài. Gấp gối ở các biên độ khác nhau. Nếu đau khe
khớp gối trong khi xoay ngoài cẳng chân nghĩ tới rách sụn
chêm trong, nếu đau khe khớp gối ngoài khi cẳng chân
xoay trong thì nghĩ tới tổn thương sụn chêm ngoài.
Nghiệm pháp Appley: Bệnh nhân nằm sấp, gối gấp 90
độ. Người khám nắm chặt bàn chân, ép dọc trục và xoay
cẳng chân. Nghiệm pháp dương tính khi bệnh nhân thấy
đau tại khe khớp gối.
Trên cộng hưởng từ: tất cả các bệnh nhân được chụp
cộng hưởng từ khớp gối, trong đó có 54 bệnh nhân được
chụp cộng hưởng từ 1.5 Tesla, và 146 bệnh nhân được
chụp cộng hưởng từ 3.0 Tesla. Kết quả tổn thương trên
MRI được chia thành 4 độ, theo phân loại của Quinn và
cộng sự (1991) [5]:
Độ I: Vùng tăng tín hiệu hình cầu ở trung tâm sụn
chêm, không sát với bất cứ bề mặt nào.
Độ II: Đường tín hiệu nằm trong sụn chêm
Độ III: Đường tín hiệu lan ra bề mặt của mặt trên hoặc
mặt dưới của sụn chêm.
Độ IV : Vỡ sụn chêm thành nhiều mảnh.
Đánh giá kết quả trên nội soi
Phân loại tổn thương sụn chêm trên nội soi chia làm
các tổn thương theo phân loại của Dandy J. (1990), bao
gồm các loại tổn thương: Rách ngang, rách dọc, rách theo
chiều dày, rách hình vạt, rách phức tạp, rách do thoái hóa.
Nội soi được coi là tiêu chuẩn vàng để làm cơ sở đánh
giá độ đặc hiệu, độ nhạy và độ chính xác của các nghiệm
pháp lâm sàng và MRI trong chẩn đoán tổn thương
sụn chêm.
Để tính được độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác,

chúng tôi dựa trên các chỉ số
Phần 2: Phần nội soi và thay khớp
91


TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013

III. KẾT QUẢ

+ Dương tính thật: Bệnh nhân được chẩn đốn
trên lâm sàng/ MRI là CĨ rách sụn chêm, kiểm tra
trên nội soi kết quả CĨ rách sụn chêm.

Về đối tượng nghiên cứu
Gồm 200 bệnh nhân. Chia làm hai nhóm, nhóm 1
bao gồm những bệnh nhân có tổn thương sụn chêm
và nhóm 2 bao gồm những bệnh nhân khơng tổn
thương sụn chêm.

+ Dương tính giả: Bệnh nhân được chẩn đốn lâm
sàng/MRI là CĨ tổn thương sụn chêm, nhưng trên
nội soi KHƠNG phát hiện tổn thương.
+Âm tính thật: Bệnh nhân được chẩn đốn trên
lâm sàng/MRI là KHƠNG rách sụn chêm, trên nội
soi KHƠNG phát hiện tổn thương.

Nhóm 1 có 100 bệnh nhân, với 100 khớp gối. Độ
tuổi trung bình 32,4 từ 20-52 tuổi. Trong đó có 92
bệnh nhân rách sụn chêm do cơ chế chấn thương, 8
bệnh nhân rách sụn chêm do thối hóa khớp. Trong 92

bệnh nhân rách sụn chêm do cơ chế chấn thương, có
82 khớp gối có rách sụn chêm kết hợp với tổn thương
dây chằng chéo trước và hoặc dây chằng chéo sau. Chỉ
có 10 trường hợp rách sụn chêm đơn thuần.

+ Âm tính giả: Bệnh nhân được chẩn đốn trên
lâm sàng/MRI là KHƠNG rách sụn chêm, trên nội
soi phát hiện CĨ tổn thương.
 Độ chính xác = (tổng dương tính thật và âm
tính thật/ tổng số khớp) x 100

Nhóm 2, có 100 bệnh nhân với 100 khớp gối. Độ
tuổi trung bình 34,6 (19-59 tuổi) Trong đó có 74 bệnh
nhân được phẫu thuật tái tạo dây chằng chéo trước
và/hoặc dây chằng chéo sau, 26 bệnh nhân phẫu
thuật cắt lọc thối hóa khớp gối, lấy chuột khớp, cắt
bao hoạt dịch, nếp hoạt dịch cánh bánh chè…

 Độ nhạy = (dương tính thật/ tổng dương tính
thật và âm tính giả ) x 100.
Độ nhạy đánh giá khả năng phát hiện bệnh lý.
 Độ đặc hiệu = (âm tính thật/ tổng âm tính thật
và dương tính giả) x100.
Độ đặc hiệu đánh giá độ chính xác của một
nghiệm pháp, độ đặc hiệu của 1 nghiệm pháp càng
cao chứng tỏ càng ít trường hợp bị dương tính giả.

Kết quả đánh giá tổn thương trên lâm sàng và
MRI.
* Nhóm 1 (n=100)


Bảng 1. Kết quả kiểm tra trên nội soi (phân loại tổn thương theo Dandy J. )
Sụn chêm trong

Sụn chêm ngoài

Tổng

Hình thái tổn
thương

ST

SS

T

TB

ST

SS

T

TB

Rách ngang

0


2

2

0

0

2

3

0

9

Rách dọc

0

20

8

6

1

12


4

4

55

Rách hình vạt

0

5

4

0

0

3

3

0

15

Rách chiều dày

0


2

0

0

0

3

0

0

5

Rách phức tạp

1

1

1

2

1

1


1

0

8

Rách thoái hóa

0

1

1

2

0

1

1

2

8

1

31


16

10

2

22

12

6

Tổng

58

42

100

(ST: sừng trước, SS: sừng sau, T: thân, TB: tồn bộ)
Trong 100 trường hợp được chẩn đốn rách sụn
chêm trên nội soi, có 42 trường hợp rách sụn chêm
ngồi, 58 trường hợp rách sụn chêm trong. Vị trí chủ
yếu ở sừng sau, với 53 trường hợp, chỉ có 3 trường
hợp vị trí rách sụn chêm ở sừng trước. Đa số hình

92


thái tổn thương rách dọc theo thân sụn chêm, với
55 trường hợp, trong 55 trường hợp này, có 10 kiểu
rách quai xách (rách dọc theo chiều dài tồn bộ sụn
chêm). Có 8 trường hợp rạch phức tạp, 8 trường hợp
rách theo kiểu thối hóa khớp.


Bảng 2. Kết quả trên lâm sàng
Lâm sàng

Dương tính thật

Âm tính giả

Độ nhạy(%)

Đau

76

24

76%

Bohler test (+)

55

45


53%

Mc Murray test (+)

57

43

57%

Appley test (+)

61

39

61%

Steimann test (+)

51

49

51%

Quan sát bảng 2 chúng tơi thấy, đa số bệnh nhân tổn thương sụn chêm khớp có triệu chứng đau khe khớp, trong đó
chỉ có 8 bệnh nhân có triệu chứng kẹt khớp hoặc hạn chế duỗi khớp, tuy nhiên có 24 bệnh nhân khơng có triệu chứng
đau khớp tại thời điểm khám bệnh. Độ nhạy của các nghiệm pháp lâm sàng trong khoảng 51%-61%.
Bảng 3. Kết quả trên cộng hưởng từ, theo phân loại của Quinn và cộng sự (1991)


Sụn chêm
trong
Sụn chêm
ngoài

Sừng trước

Sừng sau

Thân

Toàn bộ

Tổng

Độ III

0

26

12

6

44

Độ IV


1

2

2

4

9

Độ III

1

17

8

4

30

Độ IV

1

2

2


2

7

Dựa trên hình ảnh tổn thương MRI, chúng tơi chỉ lựa chọn những tổn thương độ III, IV, như vậy trong 100 trường
hợp khảo sát, có 90 trường hợp được chẩn đốn rách sụn chêm, trong đó có 53 sụn chêm trong và 37 sụn chêm ngồi. Có
10 trường hợp khơng phát hiện tổn thương trên MRI. Trong 10 trường hợp này, sau khi đối chiếu với kết quả nội soi, có
6 trường hợp ở sừng sau sụn chêm, 1 trường hợp ở sừng trước và 3 trường hợp ở thân. Như vậy trên MRI có 90 trường
hợp dương tính thật và 10 trường hợp âm tính giả, với độ nhạy là 90%.
* Nhóm 2 (n=100).
Bảng 4. Kết quả trên lâm sàng
Lâm sàng



Không

Độ đặc hiệu

Độ chính xác

Đau*

35

65

65%

70,5%


Bohler test (+)

15

85

85%

70%

Mc Murray test (+)

13

87

87%

82%

Appley test (+)

25

75

75%

78%


Steimann test (+)

18

82

82%

65,5%

Quan sát bảng chúng tơi thấy, trong nhóm 2, mặc dù trên nội soi xác định khơng có tổn thương sụn chêm, nhưng có
35 trường hợp có triệu chứng đau tại khe khớp, các trường hợp test (+) dao động từ 15% đến 25%. Như vậy độ đặc hiệu
của các nghiệm pháp lâm sàng dao động từ 65% đến 87%. Độ chính xác dao động từ 65,5%-82%.
Bảng 5. Kết quả trên cộng hưởng từ, theo phân loại của Quinn và cộng sự (1991).

Sụn chêm
trong
Sụn chêm
ngoài

Sừng trước

Sừng sau

Thân

Toàn bộ

Tổng


Độ III

0

1

0

0

1

Độ IV

0

0

0

0

0

Độ III

1

5


0

0

6

Độ IV

0

0

0

0

0

Phần 2: Phần nội soi và thay khớp
93


TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013

Chúng tôi không không xem xét tổn thương độ I,
II (theo phân loại trên MRI), vì những tổn thương này
không quan sát được trên nội soi. Trong 100 trường
hợp không quan sát thấy tổn thương trên nội soi, có
7 trường hợp rách sụn chêm độ III trên MRI, trong

đó chủ yếu tại vị trí sừng sau sụn chêm ngoài với 5/7
trường hợp. Như vậy trên MRI, độ đặc hiệu là 93%,
độ chính xác là 91,5%.

III. BÀN LUẬN
Về đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, với 100 trường
hợp có tôn thương sụn chêm, có 58 sụn chêm trong.
42 sụn chêm ngoài. Với đa số trường hợp tổn thương
sừng sau, với kiểu rách dọc là chủ yếu.
Theo các nghiên cứu trước đó, như nghiên
cứu của Nguyễn Quôc Dũng, tỷ lệ tổn thương sụn
chêm trong và ngoài là tương đương, nhưng đa số
tổn thương ở sừng sau, chỉ rất ít tổn thương sừng
trước (1) , Schurz M. và cộng sự nghiên cứu 400
bệnh nhân, có đa số trường hợp tổn thương sụn
chêm trong, và ở sừng sau. Các nghiên cứu khác của.
Madhusudhan TR. [2], Michael G.F, [3] Numphung
Numkarunarunrote [4] cũng cho kết luận tương tự.
… Giải thích tình trạng sụn chêm trong thường rách
nhiều hơn sụn chêm ngoài, Micheal G.F [3] cho rằng
có lẽ do sụn chêm trong ít di động hơn và chịu nhiều
lực đè nén hơn sụn chêm ngoài. Vị trí rách chủ yếu
ở sừng sau và thân, chỉ khoảng 2% rách sừng trước,
cũng do sừng trước ít chịu lực hơn thân và sừng sau.
Về độ nhạy và độ đặc hiệu của các nghiệm
pháp pháp lâm sàng và MRI
Với các nghiệm pháp lâm sàng.
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, độ nhạy
của các nghiệm pháp lâm sàng khá thấp, dao động

từ 51% đến 76%. Độ nhạy của 1 nghiệm pháp nói
lên khả năng phát hiện bệnh lý của nghiệm pháp
đó. Với tổn thương sụn chêm, do các biểu hiện lâm
sàng đặc trưng không nhiều, đăc biệt khi kết hợp
với tổn thương dây chằng chéo, hoặc khi bệnh nhân
đến muộn các triệu chứng tổn thương của sụn chêm
không có hoặc bị che lấp.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Quốc Dũng [1], độ
nhạy của các nghiệm pháp lâm sàng dao động trong
khoảng 44%-68,2%. Schurz M.[6] và cộng sự kết
luận rằng, thăm khám lâm sàng có giá trị dương tính
thật thấp hơn và âm tính giả cao hơn nhiều so với
MRI. Độ chính xác trung bình của các nghiệm pháp
94

lâm sàng là 55% (với sụn chêm trong) và 64% (với
sụn chêm ngoài), trong khi đó tỷ lệ này trên MRI là
83% cho cả hai sụn chêm. Qua nghiên cứu các tác
giả cũng thấy rằng tỷ lệ bệnh nhân không có triệu
chứng lâm sàng nhưng phát hiện trên MRI dao động
trong khoảng 5,6%-36%. Do vậy, với những chấn
thương khớp gối, dù không có các triệu chứng lâm
sàng của tổn thương sụn chêm, cũng nên cho bệnh
nhân chụp MRI khớp gối. Vì thực tế phẫu thuật viên
có thể tiến hành phẫu thuật dù bệnh nhân chỉ bị chấn
thương nhẹ.
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ dương
tính giả dao động trong khoảng 15-35%, các trường
hợp dương tính giả do các triệu chứng đau trên lâm
sàng của tổn thương dây chằng chéo, chuột khớp,

thoái hóa khớp… dễ lẫn với các triệu chứng của tổn
thương sụn chêm.
Về độ nhạy và độ đặc hiệu của MRI
Trên cộng hưởng từ, độ nhạy trong nhóm nghiên
cứu là 90% và độ đặc hiệu là 93%.. Trong 10 trường
hợp âm tính giả, kiểm tra lại trên nội soi chúng tôi thấy
trên MRI đã bỏ sót 6 trường hợp tổn thương ở sừng
sau (03 tại sụn chêm trong và 03 tại sụn chêm ngoài),
3 trường hợp tổn thương tại thân, và 1 trường hợp tổn
thương tại sừng trước. Trong các tổn thương này, có
7 trường hợp rách dọc, 2 trường hợp rách ngang, 1
trường hợp rách theo hình vạt. Các đường rách này
ngắn và/hoặc hưa hết chiều dày sụn chêm. Khi xem
lại các phim MRI, chúng tôi thấy có 6 trường hợp
dường như có vùng tính hiệu bất thường lan ra bề
mặt sụn chêm, nhưng chỉ xuất hiện trên 1 lát cắt, còn
4 trường hợp không xuất hiện trên MRI. Theo tác giả
Michael G.F [3] định nghĩa, trên MRI chẩn đoán rách
sụn chêm khi có vùng tín hiệu bất thường trong sụn
chêm, lan ra bề mặt, có trên ít nhất một lát cắt , hoặc
có bất thường về hinh thái học của sụn chêm. Nếu tín
hiệu bất thường trên 1 lát cắt, độ nhạy chỉ là 56% với
sụn chêm trong, và 30% với sụn chêm ngoài. Nếu tổn
thương có ở từ 2 lát cắt trở lên thì độ nhạy tăng lên từ
56% tới 94% đối với sụn chêm trong và tăng lên từ
30% tới 90% đối với sụn chêm ngoài. Theo nghiên
cứu của Thomas Magee, David Williams [7], MRI
chẩn đoán tổn thương sụn chêm có độ đặc hiệu là
97% và độ nhạy 96%. Tác giả cho rằng, để chẩn đoán
rách sụn chêm, đường tăng tín hiệu phải tới bề mặt

sụn chêm trên hai lát cắt. Trong nghiên của tác giả có
6 trường hợp âm tính trên MRI, tín hiệu dường như
lan tới bề mặt sụn chêm, nhưng chỉ xuất hiện trên 1


bình diện, kiểm tra nội soi thấy 2 trường hợp rách dạng
xiên, 4 trường hợp rách ngang.
Trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi, có
7 trường hợp dương tính giả. Khi xem xét lại các trường
hợp này, chúng tôi thấy rằng có 5 trường hợp trên MRI
chẩn đoán là rách sừng sau sụn chêm ngoài, nhưng thực
tế đây là vùng giao giữa túi hoạt dịch của gân khoeo, dây
chằng Humphry và sụn chêm. Còn tại sừng trước sụn
chêm ngoài, có thể do dây chằng ngang bám vào sụn chêm
tạo hình ảnh rách sụn chêm trên MRI. Với trường hợp
rách sừng sau sụn chêm trong trên nội soi, trên thực tế có
thể đây là trường hợp âm tính giả của nội soi, bởi vì với
sừng sau sụn chêm trong đôi khi ta không quan sát được
trên nội soi. Tham khảo các nghiên cứu khác, chúng tôi
thấy rằng độ chính xác của MRI khoảng 85% (dao động từ
64%-94%), kết quả phụ thuộc nhiều vào các lớp cắt, trong
khi đó độ chính xác của thăm khám lâm sàng khoảng 70%
(từ 35%-87%), phụ thuộc rất nhiều vào trình độ bác sỹ
thăm khám. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi nằm trong
giới hạn trên.
Như vậy, mặc dù MRI ngày càng trở nên quan trọng
trong chẩn đoán tổn thương sụn chêm, nhưng việc thăm
khám lâm sàng cẩn thận, kết hợp với khai thác chính xác
bệnh sử vẫn là thiết yếu và là bước chẩn đoán đầu tiên. Dựa
vào thăm khám lâm sàng phẫu thuật viên có thể chỉ định

cho bệnh nhân chụp MRI. Khi có kết quả MRI, kết hợp với
thăm khám lâm sàng giúp chúng ta đưa ra chỉ định điều trị
thích hợp.

IV. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 200 bệnh nhân, với 200 khớp
gối được phẫu thuật nội soi, trong đó có 100 khớp
tổn thương rách sụn chêm đơn thuần hoặc kết hợp,
100 khớp không tổn thương sụn chêm chúng tôi
thấy rằng:
Với 100 trường hợp rách sụn chêm, có 42 trường
hợp rách sụn chêm ngoài, 58 trường hợp rách sụn chêm
trong. Vị trí chủ yếu ở sừng sau, với 53 trường hợp, chỉ
có 3 trường hợp vị trí rách sụn chêm ở sừng trước. Đa số
hình thái tổn thương rách dọc theo thân sụn chêm, với 55
trường hợp. Có 8 trường hợp rạch phức tạp, 8 trường hợp
rách theo kiểu thoái hóa khớp.
Kết quả: độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác của MRI
là 90%, 93% và 91.5%, cao hơn kết quả của các nghiệm
pháp lâm sàng với độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác là
51%-71%, 65%-85% và 65,5%-82% (p<0,05).
Vì vậy chúng tôi kiến nghị nên chỉ định chụp MRI cho
tất cả những trường hợp chấn thương khớp gối, nghi ngờ
có tổn thương sụn chêm, dù chỉ là chấn thương nhẹ. Tuy
nhiên, trước hết cần thăm khám lâm sàng cẩn thận, kết
hợp với khai thác chính xác bệnh sử để tăng độ chính xác
của các nghiệm pháp lâm sàng. Khi chỉ định phẫu thuật
cần kết hợp giữa chẩn đoán lâm sàng và cộng hưởng từ.

Tài liệu tham khảo

1.

Nguyễn Quốc Dũng. Nghiên cứu hình thái tổn
thương sụn chêm khớp gối và đánh giá kết quả điều
trị bằng phẫu thuật nội soi. Luận án tiến sỹ y học. Học
viện Quân y. 2012.

2.

Madhusudhan TR. et al. Clinical examination, MRI
and arthroscopy in meniscal and ligamentous knee
Injuries – a prospective study. Journal of Orthopaedic
and Research. 2008: 3-19.

3.

Michael G.F. MR imaging of the meniscus: Review,
current trends, and clinical implications. MRI clinics of
North America. 2007;15:1.

4.

Numphung Numkarunarunrote et al. MRI on
evaluation of Meniscus tear. Asian Biomedicine Vol. 4
No. 2, April 2010; 215-222.

5.

Quinn et al. Meniscal tear dignosed with MRI versus
arthroscopiy: how reliable as standard is arthroscopy?

Radiology 1991; 181-183.

6.

Schurz M. et al. The value of clinical examination and
mri versus intraoperative findings in the diagnosis of
meniscal tear. Scripta medica (BRNO) -81 (1).2008;
3-12,

7.

Thomas Magee, David Williams. 3.0-T MRI of
Menical tears. AJR: 187, August 2006.

Phần 2: Phần nội soi và thay khớp
95



×