ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THÁI HÁN
BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
1
Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012.
Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tƣ liệu - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tƣ liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
2
MỤC LỤC CỦA LUẬ
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ
CỔ ĐÔNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PH
CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG CÔ
PHẦN
Khái quát về công ty cổ phần
Sự hình thành công ty cổ phần trong
Khái niệm, đặc điểm của công ty cổ
Khái quát về bảo vệ cổ đông trong cô
Khái quát về cổ đông
Khái niệm, sự cần thiết của việc bảo
ty cổ phần
Vai trò của việc bảo vệ cổ đông trong
Quyền của cổ đông
Công khai hóa các giao dịch tư lợi và
Công khai thông tin về công ty cổ ph
Trách nhiệm của Hội đồng quản trị v
Kiểm soát nội bộ
Chương 2: CƠ CHẾ BẢO VỆ CỔ
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN Ở V
VÀ SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT
NƢỚC TRÊN THẾ GIỚ
Thực trạng bảo vệ cổ đông thiểu số t
Tình trạng vi phạm các quyền cơ bản
Sự lạm quyền của cổ đông nhà nước
phần hóa
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.2.
1.2.1.
1.2.2
1.2.3.
1.3.
1.4.
1.5.
1.6.
1.7.
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.1.4.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.3.
Sự vi phạm quyền của cổ đông thiểu
Bất cập trong cách thức thực hiện qu
Thực tiễn quản lý và điều hành công
Họp đại hội đồng cổ đông
Quyền và nghĩa vụ của cổ đông trên
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
Bảo vệ cổ đông thiểu số theo pháp lu
4
2.4.
2.5.
2.6.
2.7.
Bảo vệ cổ đông thiểu số theo pháp lu
Bảo vệ cổ đông thiểu số theo pháp lu
Bảo vệ cổ đông theo nguyên tắc quả
Một số nghiên cứu tham khảo áp dụ
Chương 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN
DỰNG VÀ BẢO VỆ Q
THIỂU SỐ TRONG
Giải pháp bảo vệ cổ đông thiểu số tr
Xây dựng hành lang pháp lý để bảo
Xây dựng và thực hiện hoạt động gi
Cổ đông thiểu số tự bảo vệ mình
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện p
đông thiểu số trong công ty cổ phần
Kiến nghị sửa đổi Luật Doanh nghiệ
Kiến nghị nhằm bảo vệ tốt quyền củ
công ty cổ phần
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM K
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, với sự sụp đổ của các công ty cổ phần như
Worldcom, Enron và gần đây, do sự khủng hoảng của thị trường tài chính dẫn
đến phá sản hàng loạt công ty cổ phần lớn trên thế giới như ngân hàng Lehman
Brothers, tập đoàn cho vay tài chính Fannie Mae và Freddie Mac, tập đoàn sản
xuất ô tô lớn nhất của Mỹ General Motors, đã làm ảnh hưởng niềm tin của công
chúng vào mô hình công ty cổ phần cũng như thị trường tài chính. Dư luận tạo ra
áp lực lớn buộc các chính phủ phải cải tổ luật pháp nhằm mục tiêu bảo vệ có
hiệu quả hơn lợi ích của cổ đông trong công ty cổ phần.
Dù chưa có những bài học tầm cỡ như vậy, các vụ việc xâm phạm
quyền và lợi ích của nhà đầu tư, cổ đông ở Việt Nam diễn ra một cách phổ
biến cũng là điều đáng báo động. Những hệ quả tức thời đối với cá nhân
người đầu tư có thể không lớn, nhưng tác động tiêu cực đến sự phát triển của
thị trường chứng khoán như làm suy giảm khả năng huy động vốn cổ đông rất
đáng được nhà quản lý kinh tế cũng như các doanh nghiệp lưu tâm.
Trong bối cảnh các công ty cổ phần ngày càng phát triển nhanh về số
lượng, thị trường chứng khoán đang trên đà phát triển thì vấn đề thiết lập các
thể chế và thiết chế hữu hiệu để bảo vệ tốt quyền và lợi ích của nhà đầu tư
càng trở nên cấp thiết.
Vì vậy, tôi chọn đề tài "Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ
phần ở Việt Nam" cho luận văn thạc sĩ luật học với mong muốn tiếp cận pháp
luật doanh nghiệp, luật đầu tư, cổ phần hóa, pháp luật chứng khoán… từ góc
độ bảo vệ các quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số. Trong quá trình tìm hiểu
các vấn đề có liên quan, đề tài cũng đưa ra một số giải pháp nhằm tiếp tục
hoàn thiện các quy định về bảo vệ cổ đông thiểu số trong pháp luật Việt Nam.
6
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tiếp cận và trình bày các vấn đề chủ yếu sau:
Các vấn đề cơ bản về công ty cổ phần, cổ đông và bảo vệ cổ
đông;
-
Quy định pháp luật Việt Nam nhằm bảo vệ cổ đông thiểu số trong
công ty cổ phần hiện nay;
Cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt
Nam;
-
Bảo vệ cổ đông thiểu số theo pháp luật của một số quốc gia trên
thế giới;
-
Giải pháp và kiến nghị về bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số trong
công ty cổ phần ở Việt Nam.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để tiếp cận nghiên cứu đề tài này một cách hệ thống và hiệu quả , tác
giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích , tổng hợp, suy
luận logic, so sánh đối chiếu, thống kê và dùng sự kiện để chứng minh nhận
định dựa trên nền tảng tư duy của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử theo Chủ nghĩa khoa học Mac - Lê Nin
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quyền của cổ đông và sự cần thiết
phải bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần.
Chương 2: Cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở
Việt Nam và so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới.
7
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm xây dựng và bảo vệ quyền lợi
của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG
VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1.1. Sự hình thành công ty cổ phần trong lịch sử
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh có nguồn gốc từ xa
xưa, xuất phát từ những tổ chức kinh doanh thương mại ở Địa Trung Hải 3000
năm trước công nguyên. Nhưng phải đến thế kỷ XVI, các công ty được coi là
tổ tiên của công ty cổ phần hiện đại mới ra đời. Đó là các công ty được chính
quyền cấp phép để độc quyền buôn bán trên một vùng lãnh thổ, điển hình là
Công ty Đông Ấn của Anh (thành lập năm 1600) buôn bán ở Ấn Độ, Công ty
Muscovy ở Nga và Hudson’s Bay ở Mỹ [3, tr. 35]. Các công ty này tiếp tục
thuộc tính trách nhiệm hữu hạn dành cho các thành viên đã được hình thành
từ thời Trung cổ, hơn nữa đã có thể bán cổ phiếu trên thị trường tự do.
Giờ đây, hình thức công ty cổ phần được sử dụng rộng rãi khi khởi sự
kinh doanh, từ các xí nghiệp nhỏ đến các công ty thuộc sở hữu của hàng chục
ngàn cổ đông hoạt động trong những ngành nghề kinh doanh khác nhau trên
khắp các châu lục của thế giới.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của công ty cổ phần
Ở
các nước theo hệ thống pháp luật Anh Mỹ, có hai loại công ty là công
ty đóng và công ty mở hay công ty đại chúng. Về cơ bản, loại hình công ty mở
tương tự như loại hình công ty cổ phần theo luật của các nước châu Âu lục
8
địa. Ở Thái Lan, Xingapo, công ty cổ phần được biết đến với cái tên "Công ty
trách nhiệm hữu hạn công cộng" ở Philippin là "Công ty cổ phần thường".
Dù cho tên gọi có khác nhau ở nước này nước kia, công ty cổ phần có
những đặc điểm cơ bản sau:
(i)Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân độc lập;
(ii)
Người góp vốn vào công ty (cổ đông) chịu trách nhiệm
hữu hạn
(iii)
Phần vốn góp vào công ty (cổ phần) về cơ bản được tự
do chuyển
nhượng; và
(iv)
Công ty được quản lý tập trung.
a) Tư cách pháp nhân độc lập
Công ty cổ phần là một thực thể có tư cách pháp nhân độc lập. Ở Mỹ,
pháp nhân được định nghĩa là "một thực thể, không phải con người tự nhiên,
nhưng có thể hoạt động, có thể đi kiện hoặc bị kiện". Luật Việt Nam dùng
cụm từ "nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập".
Công ty cổ phần tách bạch khỏi những người đã góp vốn thành lập nên nó.
Một khi cổ đông đã góp tài sản vào công ty, công ty trở thành chủ sở hữu đối
với tài sản, cổ đông không còn quyền sở hữu đối với tài sản đó nữa.
Tư cách pháp nhân độc lập còn thể hiện ở khả năng tồn tại liên tục của
công ty không phụ thuộc vào sự chuyển nhượng vốn của cổ đông. Cho nên
công ty cổ phần có thể tồn tại lâu dài, trên thế giới có nhiều công ty đã hoạt
động hàng trăm năm nay.
b) Trách nhiệm hữu hạn của cổ đông
Ý
niệm "trách nhiệm hữu hạn" đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử. Khi
mà những thương nhân ở Venise, ý gom tiền để kinh doanh vận chuyển hàng
hóa bằng đường thủy thì khi thuyền đắm, họ chỉ mất đi số tiền đã bỏ vào
9
chuyển hàng ấy mà thôi, còn tiền để ở nhà thì không hề hấn gì. Nhưng phải
cần một thời gian rất dài sau đó, khái niệm trách nhiệm hữu hạn mới được
pháp luật ghi nhận. Luật cho phép những người góp vốn vào công ty cổ phần
hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn tức cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ
của công ty trong phạm vi số vốn đã góp. Họ không phải lấy tài sản không
đem vào kinh doanh để trả nợ. Đó là cách pháp luật khuyến khích người dân
tham gia kinh doanh để phát triển kinh tế.
c) Tự do chuyển nhượng cổ phần
Trừ một số hạn chế luật định, cổ đông được tự do mua bán, chuyển
nhượng cổ phần của mình cho bất kỳ ai vào bất kỳ lúc nào mà không phụ
thuộc vào sự đồng ý của công ty. Bất kỳ lúc nào cổ đông cũng có thể đẩy rủi
ro sang cho người khác mà không lo sợ tiền của mình bị "đóng băng" trong
công ty cho đến khi công ty giải thể, nhờ vậy cổ đông có thể đa dạng hóa việc
đầu tư của họ.
Đây là một đặc trưng riêng của công ty cổ phần. Trong công ty trách
nhiệm hữu hạn, việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người ngoài công ty
không được tự do bởi yếu tố nhân thân của các thành viên có vai trò quan
trọng hơn vốn góp trong việc thành lập công ty. Vì thế nếu công ty trách
nhiệm hữu hạn "đóng" với sự gia nhập của thành viên mới, thì công ty cổ
phần hoàn toàn "mở" luật không giới hạn số lượng tối đa cổ đông.
Khả năng tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ đông còn tạo ra một
sức ép lành mạnh cho bộ máy quản lý, điều hành của công ty phải hoạt động
hiệu quả nếu không muốn bị thay thế.
d) Quản lý tập trung và thống nhất
Nếu hàng trăm, nghìn cổ đông cùng có quyền quản lý như thành viên
trong công ty trách nhiệm hữu hạn thì quả là không có hiệu quả về mặt kinh tế
cũng như không khả thi. Hơn nữa, đa số cổ đông chỉ mong đợi hưởng cổ tức
10
hoặc hưởng lãi vốn (từ việc bán cổ phiếu khi giá tăng) chứ ít quan tâm đến
quản lý kinh doanh và cũng không có khả năng quản lý. Vì thế, các cổ đông
cần một đội ngũ chuyên nghiệp để quản lý công ty. Đồng thời cũng cần có cơ
chế để kiểm soát hoạt động của bộ máy đó đi đúng quỹ đạo hướng đến mục
tiêu tối đa hóa của cải của cổ đông và công ty.
Công ty cổ phần còn có đặc trưng riêng là có thể phát hành chứng
khoán (cổ phiếu) để huy động vốn. Lịch sử hình thành và phát triển của công
ty cổ phần cho ta thấy đây là phương thức huy động vốn cao nhất của loài
người. Với các đặc điểm ưu thế kể trên, công ty cổ phần đang và sẽ trở thành
loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất trong thế giới hiện đại.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1.2.1. Khái quát về cổ đông
a) Khái niệm cổ đông, quyền cổ đông
Cổ đông là người đã góp vốn vào công ty cổ phần bằng cách mua cổ
phần của công ty. Khi đã đưa tài sản vào công ty, quyền sở hữu tài sản của cổ
đông được chuyển sang cho công ty. Đổi lại, họ trở thành các đồng sở hữu
chủ của công ty. Cổ đông có quyền lợi đối với công ty tương ứng với phần
vốn góp của mình.
Hiện có một số học thuyết về quyền của cổ đông trong công ty cổ
phần. Thuyết cổ điển cho rằng các quyền của cổ đông có cội nguồn từ khế
ước. Một thuyết khác coi công ty cổ phần là một quốc gia thu nhỏ, do đó
quyền của cổ đông có thể đem so với những quyền cơ bản của công dân mà
Nhà nước phải đảm bảo. Các quyền cơ bản gồm quyền mang tính "chính trị"
(quyền quyết định những vấn đề quan trọng của công ty) và quyền mang tính
tài sản (ví dụ quyền hưởng cổ tức)
Người Mỹ lại quan niệm mối quan hệ giữa công ty và cổ đông là quan
hệ giữa "người thụ thác" và "người hưởng lợi". Quyển cổ đông xuất phát từ
11
quyền thụ hưởng lợi ích từ tài sản đã ký thác vào công ty mà không cần phải
nắm quyền sở hữu tài sản [3, tr. 376].
b) Các loại cổ đông
Có nhiều cách phân loại cổ đông. Sau đây là một số cách phân loại
phổ biến và có nhiều ý nghĩa hơn cả.
* Cổ đông phổ thông, cổ đông ưu đãi
Công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần khác nhau, mỗi loại cổ phần tạo
cho người sở hữu nó (cổ đông) các quyền và nghĩa vụ nhất định, kéo theo sự
khác nhau trong cơ chế bảo vệ quyền cổ đông. Luật các nước trên thế giới
thường phân loại cổ đông thành cổ đông phổ thông và cổ đông ưu đãi.
Cổ đông phổ thông là loại cổ đông không thể thiếu và cũng là loại phổ
biến nhất trong công ty cổ phần. Cổ đông phổ thông có đầy đủ các quyền cơ
bản của chủ sở hữu công ty như: quyền tham dự và biểu quyết tại cuộc họp cổ
đông, quyền nhận cổ tức, quyền chuyển nhượng cổ phần.
So với cổ đông phổ thông, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi được hưởng
một số ưu đãi (quyền hoặc lợi ích) đồng thời chịu những hạn chế nhất định về
quyền. Việc ấn định các quyền lợi cụ thể cho cổ phần ưu đãi thường do các
công ty tự đề ra, sau được luật ghi nhận. Thông thường, gồm có các loại cổ
phần ưu đãi biểu phiếu, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại. Ngoài
ra thỏa thuận thành lập và điều lệ công ty có thể quy định thêm các loại cổ
phần ưu đãi khác hoặc kết hợp các loại cổ phần ưu đãi với nhau. Chẳng hạn
cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết có số phiếu biểu quyết nhiều hơn
cổ đông phổ thông nhưng lại chịu hạn chế là không được chuyển nhượng cổ
phần cho người khác. Cổ đông ưu đãi cổ tức thì được trả cổ tức cao hơn cổ
đông thường nhưng lại không được quyền biểu quyết. Tuy nhiên cổ đông ưu
đãi vẫn có quyền biểu quyết trong một số trường hợp nhất định. Theo luật
Mỹ, các trường hợp này là: (i) khi có đề nghị giải thể công ty, (ii)
12
khi có đề nghị thay đổi các quyền lợi dành cho cổ phần ưu đãi, khi cổ tức bị
trả chậm [3, tr. 181].
* Cổ đông đa số, cổ đông thiểu số
Căn cứ vào lượng cổ phần mà cổ đông sở hữu, sẽ có cổ đông nhiều
nắm nhiều, cổ đông nắm ít cổ phần. Do nguyên tắc quyết định theo đa số
trong chế độ hoạt động của Đại hội đồng cổ đông, cổ đông có nhiều cổ phần
trở thành đa số, còn người có ít cổ phần trở thành thiểu số khi biểu quyết. Vì
vậy, cổ đông đa số có khả năng nhiều ưu thế hơn cổ đông thiểu số trong việc
tiếp cận thông tin, kiểm soát hoạt động của công ty.
* Cổ đông tổ chức, cổ đông cá nhân
Trong một công ty có phát hành chứng khoán trên thị trường, có hai
loại cổ đông là cổ đông tổ chức và cổ đông cá nhân. Cổ đông có tổ chức
thường là ngân hàng, các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán. Khác với
cổ đông cá nhân có xu hướng bán cổ phiếu ngay khi giá lên, việc chuyển
nhượng cổ phần cổ đông tổ chức thường ít xảy ra hơn. Chỉ có hai quốc gia là
Anh và Mỹ có cấu trúc cổ đông đa phần là cá nhân, còn lại cổ đông có tổ chức
vẫn là cổ đông đa số chi phối các công ty cổ phần ở các nước phát triển cũng
như đang phát triển.
1.2.2. Khái niệm, sự cần thiết của việc bảo vệ cổ đông trong công
ty cổ phần
Một trong các mục tiêu của luật doanh nghiệp là bảo vệ lợi ích của cổ
đông bằng việc buộc các nhà quản lý phải hành động vì lợi ích tốt nhất cho cổ
đông, đồng thời ngăn chặn khả năng các cổ đông đa số lợi dụng vị thế tước
đoạt lợi ích hợp pháp của cổ đông thiểu số.
Không chỉ là mối quan tâm của các nhà lập pháp, bảo đảm thực thi các
quyền của tất cả cổ đông cũng là mục tiêu hướng tới của quản trị công ty.
13
Quản trị công ty được hiểu là hệ thống các quy chế phân định rõ quyền hạn giữa
các cơ quan trong công ty, giữa cổ đông, Hội đồng quản trị, ban giám đốc và các
bên có liên quan khác. Qua đó, công ty thực hiện được mục tiêu phát triển hiệu
quả trong khi vẫn tôn trọng lợi ích của các bên liên quan và xã hội.
Một hệ thống pháp luật bảo vệ tốt cổ đông trong công ty cổ phần phải
đảm bảo hai yếu tố:
(a) Các quy định của pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của cổ
đông; (b) Cơ chế thực thi hiệu quả các quy định đó.
Những quy định bảo đảm quyền của cổ đông không chỉ tồn tại trong
luật doanh nghiệp mà còn có thể tìm thấy trong luật lệ về chứng khoán, kiểm
toán… Hơn thế, nếu thiếu sự đảm bảo thực thi hiệu quả từ tòa án, cơ quan
đăng ký kinh doanh, ủy ban chứng khoán và các thiết chế trung gian như luật
sư, kiểm toán thì chẳng khác gì "luật trên giấy".
Từ lâu, các nền kinh tế của các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ cổ
đông. Ở các nền kinh tế đang phát triển, bảo vệ cổ đông cũng là một trọng
tâm, thậm chí là "gánh nặng" đối với luật công ty, nơi mà hệ thống pháp luật
cũng như cơ chế thực thi luật còn chưa hoàn thiện.
Luật pháp phải thiết kế quy tắc và cơ chế bảo vệ cổ đông vì những căn
nguyên sau:
(a)Sự lạm quyền của người quản lý công ty
Sự tách bạch giữa sở hữu và quản lý là một dấu hiệu đặc trưng của
công ty cổ phần. Các cơ hội kinh doanh có thể bỏ lỡ nếu lúc nào các quyết
định cũng cần sự phê chuẩn của hàng chục ngàn hay hàng triệu con người - cổ
đông rải rác khắp nơi. Do vậy, các cổ đông phải trao quyền lực cho một đội
ngũ quản lý chuyên nghiệp "dùng tiền của mình để kinh doanh", những người
14
này có thể có hoặc không có cổ phần trong công ty. Tuy nhiên, không phải lúc
nào người quản lý (bao gồm Hội đồng quản trị, ban giám đốc và các chức
danh quản lý khác) cũng hành động vì mục tiêu tối đa hóa của cải cho các cổ
đông. Các xung đột về lợi ích giữa cổ đông và người quản lý luôn hiện hữu,
xuất phát từ mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý.
Người quản lý có thể tiến hành các giao dịch gây phương hại đến lợi
ích của công ty và cổ đông, thậm chí chiếm đoạt lợi ích của cổ đông. Chẳng
hạn như: dùng tài sản của công ty để mưu lợi riêng thông qua việc trả lương
quá cao, mua tài sản của công ty với giá hời, vay công ty với lãi suất thấp hơn
lãi suất thị trường… Vì lẽ đó, cổ đông cần được trao các công cụ nhằm kiểm
soát người quản lý để đảm bảo họ hành động vì lợi ích của công ty và cổ
đông. Luật pháp các nước, ít hay nhiều, đều thiết lập các nguyên tắc pháp lý,
các cơ chế bầu, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, trách nhiệm của Hội
đồng quản trị, giám sát các giao dịch dễ gây rủi ro cho công ty và cổ đông.
(b)Sự áp đảo của cổ đông kiểm soát với cổ đông thiểu số
Trong công ty cổ phần, quyền của các cổ đông tương ứng với số vốn
đã góp vào công ty. Do vậy, cổ đông góp nhiều vốn (tức có nhiều cổ phần, cụ
thể là cổ phần có quyền biểu quyết) sẽ có nhiều ưu thế hơn đối với hoạt động
quản lý công ty. Với nguyên tắc thông qua các quyết định quản lý thông
thường khi có quá nửa (1/2) số cổ phần biểu quyết tại đại hội cổ đông chấp
thuận, cổ đông nắm ít cổ phần có quyền biểu quyết chịu lép vế, nếu không
muốn nói là bị loại ra khỏi cuộc sống của Đại hội đồng cổ đông. Quyền đối
với hoạt động quản lý công ty thuộc về số ít các cổ đông lớn. Một mặt khi
nhóm nhỏ cổ đông chi phối hoạt động của công ty, họ sẽ có động cơ để tối đa
hóa giá trị công ty phục vụ lợi ích của chính mình. Mặt khác lợi ích từ hoạt
động kinh doanh của công ty có khả năng bị phân phối không công bằng cho
15
đa số các cổ đông nhỏ, sự lạm quyền của nhóm nhỏ cổ đông chi phối có khả
năng gây hại cho những cổ đông còn lại.
Mặt khác, trong tương quan so sánh với các chủ thể có mối liên hệ với
công ty như chủ nợ, người lao động, người cung cấp nguyên vật liệu, cổ đông
với tư cách là người góp vốn kinh doanh luôn chịu rủi ro nhiều hơn. Thế
nhưng, lợi ích của cổ đông khó có thể được bảo vệ thích đáng chỉ bởi các thỏa
thuận hợp đồng. Điều này luận giải vì sao luật pháp cần quy định cho đối
tượng này những quyền nhất định để kiểm soát hoạt động của công ty.
Như vậy, trong công ty cổ phần, đối tượng cần được bảo vệ không
phải là người quản lý công ty vì họ có quyền và thông tin, và có lẽ cũng
không phải cổ đông lớn có khả năng chi phối hoạt động công ty, mà chính là
cổ đông thiểu số, riêng lẻ.
1.2.3. Vai trò của việc bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần
a) Vai trò đối với công ty và nhà đầu tư
Khi pháp luật bảo vệ cổ đông có hiệu quả, các nhà đầu tư có nhiều
động lực hơn bỏ vốn vào công ty cổ phần. Đối với các công ty thu hút vốn cổ
phần khả năng huy động vốn sẽ gia tăng một khi nhà đầu tư yên tâm rằng
đồng vốn đầu tư của mình được bảo toàn và phát triển, các quyền và lợi ích
được bảo đảm.
Quản trị công ty tốt cần đảm bảo các quyền cơ bản của cổ đông cũng
như đối xử bình đẳng giữa các cổ đông. Sự thành công của các công ty có hệ
thống quản trị nội bộ chú trọng bảo vệ cổ đông như các công ty của Mỹ so với
các công ty khác của Đức, Nhật trong những thập kỷ gần đây là minh chứng
cho lợi ích lâu dài của việc bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần. Ngược lại,
sự sụp đổ của Enron, Worldcom là do sự kém công khai, minh bạch về tài
16
chính, kiểm toán chính là ví dụ sinh động cho hậu quả của việc bảo vệ cổ
đông kém tác động lên sinh mệnh công ty như thế nào.
b) Vai trò đối với nền kinh tế
Bảo vệ cổ đông hiệu quả có tác động tích cực lên toàn bộ nền kinh tế.
Thứ nhất, nó thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng quy mô của thị trường chứng khoán
trong nền kinh tế có mối liên hệ nhất định với mức độ nhà đầu tư được bảo
vệ. Trọng tâm của pháp luật và thể chế cho thị trường chứng khoán, suy cho
cùng là nhằm bảo vệ có hiệu quả lợi ích của cổ đông thiểu số trước những
luồng thông tin bất cân xứng. Không phải ngẫu nhiên, hai quốc gia có mô
hình thị trường chứng khoán phát triển với cổ đông phân tán rộng trong dân
cư là Anh và Hoa Kỳ cũng chính là những quốc gia có hệ thống pháp luật
được đánh giá là bảo vệ cổ đông ở mức cao.
Thứ hai, bảo vệ cổ đông tốt góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh
tế, bởi nó khuyến khích việc chuyển tiết kiệm trong dân cư thành nguồn vốn
đầu tư. Nguồn vốn được chuyển đến những người sử dụng có hiệu quả, nhờ
vậy việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực trở nên hiệu quả hơn.
Như vậy, các công ty, nhà đầu tư và các nhà hoạch định chính sách
chia sẻ những lợi ích chung trong việc bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần.
1.3. QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG
Trong công ty cổ phần các cổ đông sở hữu các loại cổ phiếu khác nhau
sẽ có những quyền năng khác nhau.
1. Quyền của cổ đông phổ thông
17
a)
Tham dự và biểu quyết trong các Đại hội đồng cổ đông và thực hiện
quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện được ủy quyền; mỗi cổ
phần phổ thông có một phiếu biểu quyết;
b) Được nhận cổ tức với mức theo quyết định của Đại hội đồng cổ
đông;
c)
Được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ
phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty;
d) Được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông khác
và
cho người không phải là cổ đông, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều
84 của Luật doanh nghiệp;
đ) Xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong Danh sách cổ đông
có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác;
e)
Xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, sổ biên
bản họp Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông;
g)
Khi công ty giải thể hoặc phá sản, được nhận một phần tài sản còn
lại tương ứng với số cổ phần vốn góp vào công ty;
h) Các quyền khác quy định tại Luật này và Điều lệ công ty.
2.
Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ
thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn
quy định tại Điều lệ công ty có các quyền sau đây:
a) Đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát (nếu có);
b)
Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng
quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế
toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát;
c)
Yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều này;
18
d)
Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến
quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. Yêu cầu phải
bằng văn bản; phải có họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng
minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác đối với cổ
đông là cá nhân; tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập
hoặc số đăng ký kinh doanh đối với cổ đông là tổ chức; số lượng cổ phần và
thời điểm đăng ký cổ phần của từng cổ đông, tổng số cổ phần của cả nhóm cổ
đông và tỷ lệ sở hữu trong tổng số cổ phần của công ty; vấn đề cần kiểm tra,
mục đích kiểm tra;
đ) Các quyền khác theo quy định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ
công ty.
3.
Cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều này có quyền
yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp sau đây:
a)
Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa
vụ của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao;
b)
Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị đã vượt quá sáu tháng mà Hội
đồng quản trị mới chưa được bầu thay thế;
c) Các trường hợp khác theo quy định của Điều lệ công ty.
Yêu cầu triệu tập họp Hội đồng cổ đông phải được lập bằng văn bản
và phải có họ, tên, địa chỉ thường trú, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu
hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác đối với cổ đông là cá nhân; tên, địa
chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh
đối với cổ đông là tổ chức; số cổ phần và thời điểm đăng ký cổ phần của từng
cổ đông, tổng số cổ phần của cả nhóm cổ đông và tỷ lệ sở hữu trong tổng số
cổ phần của công ty, căn cứ và lý do yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ
đông. Kèm theo yêu cầu phải có các tài liệu, chứng cứ về các vi phạm của Hội
đồng quản trị, mức độ vi phạm hoặc về quyết định vượt quá thẩm quyền.
19
4.
Trong trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác thì việc
đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát quy định tại điểm a
khoản 2 Điều này được thực hiện như sau:
a)
Các cổ đông phổ thông tự nguyện tập hợp thành nhóm thỏa mãn các
điều kiện quy định để đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát
phải thông báo về việc họp nhóm cho các cổ đông dự họp biết chậm nhất ngay
khi khai mạc Đại hội đồng cổ đông;
b)
Căn cứ số lượng thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, cổ
đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều này được quyền đề cử
một hoặc một số người theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông làm ứng cử
viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Trường hợp số ứng cử viên được cổ
đông hoặc nhóm cổ đông đề cử thấp hơn số ứng cử viên mà họ được quyền đề
cử theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông thì số ứng cử viên còn lại do Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát và các cổ đông khác đề cử. (Điều 79 luật doanh
nghiệp)
Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp còn quy định cụ thể các quyền khác như:
Mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông (Điều 90); thẩm quyền triệu tập
họp Đại hội đồng cổ đông (Điều 97); quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông
(Điều 101); yêu cầu hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông (Điều 107);
công khai các lợi ích liên quan và công khai thông tin về công ty cổ phần
(Điều 118, Điều 129).
Cổ đông ưu đãi không được hưởng đầy đủ các quyền trên. Cổ đông ưu
đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác
(Điều 81). Cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn lại đều không có quyền
dự họp Đại hội đồng cổ đông, không có quyền biểu quyết và cũng không có
quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát (Điều 82, Điều 83).
a) Quyền chuyển nhượng cổ phần
20
Như đã phân tích quyền tự do chuyển nhượng cổ phần được xem xét ở
hai khía cạnh là có quyền chuyển nhượng cho bất kỳ ai vào bất cứ lúc nào và
không cần thủ tục phê chuẩn của công ty.
Luật Doanh nghiệp về cơ bản đã thừa nhận quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của cổ đông tại Điều 79 trừ hai ngoại lệ cổ phần ưu đãi biểu
quyết và cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập.
Về quyền tự do chuyển nhượng cổ phần, ta xem xét hai ngoại lệ kể
trên. Luật Doanh nghiệp cấm người sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết chuyển
nhượng cho người khác. Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu
biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Các công ty thường giành loại
cổ phần này cho những cổ đông đặc biệt, gắn liền với nhân thân nhằm đưa ra
những ý kiến có số phiếu cao hơn khi quyết định các vấn đề của Đại hội đồng
cổ đông.
Luật buộc các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20%
số cổ phần phổ thông được quyền chào bán. Việc chuyển nhượng số cổ phần
này bị hạn chế về mặt chủ thể và thủ tục: chỉ được chuyển nhượng cho người
không phải cổ đông (tức người ngoài công ty) nếu được Đại hội đồng cổ đông
chấp thuận (Điều 84). Thời hạn của hạn chế này là 3 năm đầu từ ngày công ty
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Vai trò của công ty trong việc ghi nhận sự chuyển nhượng cổ phần.
Luật Doanh nghiệp quy định: Cổ phần được coi là đã bán khi được thanh toán
đủ và những thông tin về người mua được quy định tại khoản 2 Điều 86 của
luật này được ghi đúng, ghi đủ vào sổ đăng ký cổ đông; kể từ thời điểm đó,
người mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty.
Đối với các cổ phần tự do chuyển nhượng, việc chuyển nhượng được
thực hiện bằng văn bản theo cách thông thường hoặc bằng cách trao tay cổ
phiếu. Giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận
21
chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký. Bên chuyển nhượng vẫn là
người sở hữu cổ phần có liên quan cho đến khi tên của người nhận chuyển
nhượng được đăng ký vào sổ đăng ký cổ đông. Trường hợp chỉ chuyển
nhượng một số cổ phần trong cổ phiếu có ghi tên thì cổ phiếu cũ bị hủy bỏ và
công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng và số
cổ phần còn lại (Điều 87).
Công ty chỉ có vai trò chứng nhận việc chuyển nhượng cổ phần và ghi
vào Sổ đăng ký cổ đông, chứ không phải là phê chuẩn giao dịch chuyển
nhượng. Rõ ràng, theo quy định này của Luật, hiệu lực pháp lý của việc
chuyển nhượng phụ thuộc vào việc đăng ký các thông tin vào Sổ đăng ký cổ
đông, chứ dường như chưa phát sinh từ thời điểm các bên hoàn thành việc
chuyển giao quyền sở hữu cổ phần một cách hợp pháp.
Về nguyên tắc, các thông tin trong Sổ đăng ký cổ đông đóng vai trò
như căn cứ chứng minh quyền sở hữu cổ phần chứ không phải là điều kiện
cho việc chuyển nhượng. Điều luật này có lẽ đã vô tình "tiếp tay" cho các vụ
việc vi phạm quyền cổ đông trên thực tế như: công ty cố tình trì hoãn việc
đăng ký người nhận chuyển nhượng, hay hiện tượng chuyển nhượng "chui" vì
công ty từ chối đăng ký.
Điểm yếu của Luật chính là ghi nhận quyền chuyển nhượng của cổ
đông nhưng chưa đặt ra nghĩa vụ của công ty phải đăng ký cổ đông mới một
cách kịp thời. Khiếm khuyết này tạo ra rủi ro cho các bên trong giao dịch
chuyển nhượng cổ phần, đặc biệt là bên nhận chuyển nhượng bởi quyền sở
hữu cổ phần của người này không được công ty bảo đảm. Hậu quả sâu xa hơn
là các nhà đầu tư khó có thể biết chính xác ai là người đang nắm cổ phần, điều
này làm tăng chi phí nhận diện giao dịch mua bán cổ phần.
Đối với các cổ đông thiểu số sẽ gặp phải những khó khăn để biết được
ai đang là những cổ đông thực tế trong công ty và đang nắm giữ cổ phần liên
tục trong thời gian ít nhất là sáu tháng để cùng nhau tập hợp lại thành những
22
nhóm cổ đông nắm giữ trên 10% vốn điều lệ của công ty với mong muốn có
được những kiến nghị trong cuộc họp Đại hội đồng cổ đông hay đề cử người
vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát để bảo vệ quyền lợi cho mình.
b) Quyền tiếp cận thông tin
Quyền được nắm bắt những thông tin về công ty một cách đầy đủ là
cơ sở để cổ đông thực hiện các quyền cơ bản khác như quyền biểu quyết tại
cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông, quyền bầu và miễn nhiệm Hội đồng quản
trị và cả quyền chuyển nhượng cổ phần. Luật Doanh nghiệp quy định cổ đông
được xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong danh sách cổ đông có
quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác; xem xét,
tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, sổ biên bản Đại hội đồng cổ
đông và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông.
Đối với cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần
phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ
hơn quy định tại Điều lệ công ty được xem xét và trích lục sổ biên bản và các
nghị quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm theo
mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát.
Các cổ đông chỉ được tiếp cận thông tin ở mức rất "khiêm tốn". Không
được xem sổ sách kế toán của công ty, có chăng là một bản báo cáo tài chính
thường niên với nội dung không rõ ràng khác nào "bịt mắt" cổ đông trước
thực trạng tài chính của công ty. Khó có thể tưởng tượng cổ đông thực hiện
quyền quyết định các vấn đề tài chính tại Đại hội đồng cổ đông như thế nào,
có lẽ không thể tránh khỏi tình trạng của cổ đông nhỏ "bảo sao nghe vậy".
Một loại tài liệu quá đỗi thông thường là các quyết định của Đại hội
đồng cổ đông cũng chỉ được thông báo cho cổ đông có quyền dự họp. Quả là
23