Tải bản đầy đủ (.docx) (128 trang)

Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.28 KB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

GIÁP VĂN THẮNG

B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI
CñA NG¦êI BÞ T¹M GI÷, BÞ CAN Lµ NG¦êI CH¦A THµNH NI£N

TRONG GIAI §O¹N §IÒU TRA Vô ¸N H×NH Sù

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

GIÁP VĂN THẮNG

B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI
CñA NG¦êI BÞ T¹M GI÷, BÞ CAN Lµ NG¦êI CH¦A THµNH NI£N

TRONG GIAI §O¹N §IÒU TRA Vô ¸N H×NH Sù
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. CHU THỊ TRANG VÂN


HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu thống kê, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính thực tiễn, chính xác, trung thực và tin cậy. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác, tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo
chương trình và thực hiện tất cả các nghĩa vụ về tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Giáp Văn Thắng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA............7

1.1.

KHÁI NIỆM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM
GIỮ, BỊ CAN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ.......................................7

1.1.1. Khái quát về giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự..........................7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra....................... 10
1.2.

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM
GIỮ, BỊ CAN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA................................................................... 18

1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra....................... 18
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can
là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra..............................21
1.3.

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN Ở MỘT SỐ NƯỚC...................................................28


Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 35
2.1.


NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA

35

2.1.1. Những quy định về bảo đảm quyền con người của người bị tạm
giữ, bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra
trước năm 2003

35

2.1.2. Quy định về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra ở Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003
2.2.

38

THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ NHỮNG VƯỚNG, MẮC BẤT
CẬP TRONG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIÊU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

58

2.2.1. Thực trạng người chưa thành niên phạm tội từ giai đoạn 2010 – 2015
58
2.2.2. Thực tiễn thực hiện việc bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị
can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra


59

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM
GIỮ, BỊ CAN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
3.1.

75

QUAN ĐIỂM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẢM BẢO QUYỀN

CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA

75

3.1.1. Quan điểm quốc tế về bảo đảm quyền của người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 75


3.1.2. Quan điểm cuả Đảng, Nhà Nước về bảo đảm quyền con người
của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra 77
3.2.

KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO

QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA


79

3.2.1. Bổ sung những vấn đề mang tính nguyên tắc.....................................80
3.2.2. Sửa đổi các quy định về đảm bảo quyền con người của người
chưa thành niên trong giai đoạn điều tra
3.3.

82

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẢM BẢO

QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA

98

3.3.1. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra

98

3.3.2. Xây dựng mô hình điều tra thân thiện với NCTN............................101
KẾT LUẬN..................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................111


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự


BLTTH:

Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

LHQ:

Liên hợp quốc

NCTN:

Người chưa thành niên

NCTNPT:

Người chưa thành niên phạm tội

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TTHS:


Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Bảng 2.1:
Bảng 2.2:

Bảng 2.3:


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài
người, là một trong những giá trị tinh thần quý báu và cao cả nhất của nền văn
minh nhân loại trong thời đại hiện nay . Ở Việt Nam , bảo đảm quyền con
người đã được Đảng vàNhànước ta quan tâm, chú trọng. Điều này được thể
hiêṇ ởthành quả v ề xây dựng lý luận về bảo vệ quyền con người cũng như
thực tiễn bảo đảm quyền con người.
Đối tượng người chưa thành niên (nói chung) và trẻ em (nói riêng), bộ
phận chiếm tỷ lệ khá lớn, là những chủ thể đặc biệt, có những đặc điểm riêng
về tâm sinh lý và sự phát triển, do chưa biết cách tự bảo vệ mình khi đứng
trước những sự kiện pháp lý có liên quan, nên cần phải có những bảo đảm
pháp lý đầy đủ, cần thiết và đáp ứng phù hợp. Nhận thức được tầm quan trọng
này, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều hoạt động thiết
thực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên.
Liên quan đến lĩnh vực tư pháp hình sự, trong thời gian qua, NCTNPT
đang có xu hướng gia tăng về số lượng và mức độ nguy hiểm của hành vi,
theo VKSND tối cao "tỷ lệ tội phạm vị thành niên bị VKSND truy tố đã tăng
lên; tỷ lệ tăng bình quân 10% hàng năm". Do đó, khi phải đối mặt với những
sự kiện pháp lý, NCTN cần một sự bảo đảm vững chắc và hữu hiệu từ phía
những quy định của pháp luật TTHS. Yêu cầu này đòi hỏi, bên cạnh các biện
pháp nhằm bảo đảm và bảo vệ NCTN trong xã hội, thì Nhà nước, các cơ quan
tiến hành tố tụng cần có những điều chỉnh kịp thời, thích hợp về chính sách
hình sự cũng như thủ tục tố tụng dành cho đối tượng này để bảo đảm quyền,
lợi ích chính đáng của họ khi tham gia tố tụng. Điều này không ngoài mục
đích bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự; Phù hợp với xu thế nhân
đạo hóa của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong nhà nước pháp quyền.

1


Hiện tại Việt Nam chưa có hệ thống tư pháp dành riêng cho NCTN theo

đúng ý nghĩa của thuật ngữ này. Về thể chế, chúng ta mới chỉ có Chương
XXXII (từ Điều 301 đến Điều 310) BLTTHS quy định về thủ tục tố tụng đối
với NCTN. Tuy nhiên, các quy định này chưa đủ chi tiết, cụ thể để các cán bộ
tiến hành tố tụng bảo đảm hệ thống được vận hành phù hợp với các chuẩn
mực quốc tế. Điều này đồng nghĩa với việc quyền, lợi ích của con người
(trong đó có thể có NCTN) chưa thực sự được bảo vệ. Đặc biệt trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự, quyền con người của người chưa thành niên chưa
thực sự được bảo vệ, đây là giai đoạn các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng
thường xuyên nhất các biện pháp cưỡng chế tố tụng và các biện pháp điều tra
để giải quyết vụ án. Các hoạt động này có nguy cơ cao trong việc tác động tới
quyền con người của NCTN phạm tội. Việc bảo đảm quyền con người của
NCTN phạm tội trong giai đoạn điều tra là một việc làm đầu tiên và rất cần
thiết trong cơ chế bảo vệ NCTN phạm tội.
Chính vì vậy, tác giả chọn việc nghiên cứu đề tài "Bảo đảm quyền con
người của người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền con người nói chung được các tổ chức Quốc tế, các nước trên
thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng quan tâm nghiên cứu.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo vệ
quyền con người nói chung gồm có: Sách chuyên khảo “Quyền con người Tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học” - GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên,
Nxb KHXH, Hà Nội, 2010 (3 tập, 1010 tr), “Quyền con người” (Giáo trình
giảng dạy sau đại học) - GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011
(487 tr), Sách chuyên khảo: “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ Quyền con người” GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (431 tr), Giáo trình “Lý

2


luận và pháp luật về Quyền con người”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2009, Nxb CTQG (670 tr); Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự và tố tụng

hình sự ở Việt Nam, Trần Quang Tiệp, NXB Chính trị Quốc gia 2004; Đảm bảo
quyền bào chữa của người bị buộc tội, Phạm Hồng Hải, NXB CAND năm 2004;
Quyền con người trong quản lý tư pháp - Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về
quyền con người và hội luật sư quốc tế - Nxb CAND, 2009.

*

Nhóm nghiên cứu về quyền của trẻ em, trong đó có Quyền và lợi

ích hợp pháp của NCTN
Có một số công trình tiêu biểu: Quyền, lợi ích của phụ nữ và trẻ em
trong quan hệ hôn nhân và gia đình, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1999; Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam, Hoàng Thế Liên, NXB
Giáo dục 1996; Vì quyền trẻ em và sự bình đẳng của phụ nữ, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Quyền của trẻ em và phương tiện thông tin
đại chúng, NXB Chính trị quốc gia, 2000; Thúc đẩy các phương pháp tiếp cận
dựa trên quyền trẻ em, kinh nghiệm và sáng kiến từ các nước châu Á, NXB
Chính trị quốc gia năm 2006; Quyền trẻ em (Sách chuyên đề nghiên cứu và
giảng dạy và thực hiện quyền trẻ em), Trung tâm nghiên cứu quyền con người
năm 2000; Vì quyền trẻ em và sự bình đẳng của phụ nữ, Viện Thông tin khoa
học xã hội 1999; Quyền và bổn phận của trẻ em - những vấn đề đặt ra cho xã
hội hiện nay, Đặng Cảnh Khanh, Tạp chí Cộng sản số 16/2003.
Các công trình nghiên cứu trên đây đã nghiên cứu quyền của NCTN (Trẻ
em) dưới giác độ là một bộ phận của quyền con người với những nội dung, tính
chất đặc điểm cụ thể; Trong đó đã triển khai các vấn đề về bảo vệ chăm sóc trẻ
em; Đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về bảo vệ quyền trẻ em; Hỗ trợ nâng
cao năng lực nghiên cứu và tổ chức thực hiện quyền trẻ em; Tư vấn cho các cấp
xây dựng cơ chế quản lý Nhà nước về thực hiện quyền trẻ em. Đặc biệt có đề cập
đến các cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền trẻ em nói chung.


3


Trong các nghiên cứu này, vấn đề quyền của NCTN trong TTHS đặc
biệt cụ thể là giai đoạn điều tra vụ án hình sự vẫn chưa được đề cập trực tiếp.
Tuy nhiên, những nghiên cứu trên đây là cơ sở đáng tin cậy để tiếp tục nghiên
cứu vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS, đây
được coi là một phương thức bảo vệ riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn giải quyết toàn diện, đầy đủ sâu sắc và có hệ thống những vấn
đề lý luận về quyền con người của NCTN trong điều tra vụ án hình sự; Thông
qua việc phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự
liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền con người của NCTN và đề ra các giải
pháp. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự;
Nâng cao nhận thức của các chủ thể tiến hành tố tụng, cũng như toàn xã hội
trong việc bảo đảm tốt hơn quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, đề tài hướng tới
các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ hệ thống con người của NCTN trong pháp luật quốc tế
và pháp luật Việt Nam;
Hai là, làm rõ những quy định và yêu cầu của pháp luật tố tụng hình sự
Quốc tế trong bảo đảm quyền con người của NCTN;
Ba là, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam trong bảo đảm quyền con người của NCTN, cũng như những
tồn tại trong thực tiễn áp dụng của hệ thống tư pháp hình sự trong việc bảo
đảm quyền con người của họ;
Bốn là, kiến giải hướng tới hoàn thiện các quy định của pháp luật thực


4


định và hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng đặc thù nhằm bảo đảm quyền
con người của NCTN.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Căn cứ trên mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, đối tượng mà đề tài tập trung
nghiên cứu là những vấn đề sau:
-

Hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực bảo

đảm quyền con người của NCTN;
-

Nghiên cứu về cơ chế bảo đảm quyền con người của NCTN phạm tội

theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn điều tra.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu về quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong
phạm vi các quy định của Việt Nam, bao gồm: Các quan điểm của Đảng, Nhà
nước về vấn đề quyền con người, quyền của NCTN, quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN trong TTHS; Về vai trò, nhiệm vụ bảo đảm quyền con người
(trong đó có quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN) của pháp luật TTHS trong
nhà nước pháp quyền…; Những quy định của TTHS về vấn đề bảo đảm
quyền con người của NCTN, cũng như các vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn
áp dụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án liên
quan đến NCTN.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp cụ thể như: Phân tích tổng hợp, so sánh.

5


6. Ý nghĩa và các đóng góp mới của đề tài
6.1. Ý nghĩa
-

Ý nghĩa về lý luận:Kết quả nghiên cứu của luận án làm giàu thêm lý

luận về quyền của NCTN nói chung và quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN
trong tố tụng hình sự nói riêng.
-

Ý nghĩa về thực tiễn: Với việc đưa ra nhận thức đầy đủ, toàn diện, có

hệ thống lý luận về quyền của NCTN trong TTHS và phân tích thực trạng của
vấn đề này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS, đem đến sự nhận thức
đúng đắn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm mục đích cuối cùng là
bảo đảm quyền con người của NCTN trong thực tế.
6.2. Những đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, nghiên cứu, đề xuất một số khái niệm về "Quyền con người
của NCTN trong giai đoạn điều tra" và "Bảo đảm quyền con người của NCTN
trong giai đoạn điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam";

Thứ hai, đánh giá đầy đủ, hoàn chỉnh qua đó làm rõ những bất cập,
thiếu sót, vướng mắc đối với các quy định của BLTTHS 2003 trong việc bảo
vệ quyền con người của NCTN cũng như thực tiễn áp dụng;
Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng bổ sung những quy định thể
chế; thiết chế TTHS; Gia đình - xã hội đặc thù cho NCTN nhằm tăng cường
hiệu quả bảo đảm quyền con người của NCTN vi phạm pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu gồm 3 chương:

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
1.1.
KHÁI NIỆM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ
CAN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ
ÁN HÌNH SỰ

1.1.1. Khái quát về giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự
Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn
và do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác,
khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án được gọi là tố tụng hình sự.
Theo định nghĩa của giáo trình Luật tố tụng hình sự Viện Nam, Khoa
luật - Đại học quốc gia Hà Nội thì: "Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan

nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện,
nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật" [9-tr.17].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi
giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và
tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định.
Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu:
Là bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất
định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng
có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm
bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh,

7


khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật
tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [7].
BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai
đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; Giai đoạn điều tra vụ án hình
sự và truy tố; Giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình
sự. Đối với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không
phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự
đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị.
Giai đoạn điều tra chiếm một vị trí quan trọng trong TTHS. Theo quan
điểm thống nhất hiện nay, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai
của quá trình tố tụng hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ
chương VIII đến chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi
có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ
tài liệu và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số

trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ
điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ
án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng
được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án.
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra
được Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể
cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4
tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm
trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20
tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra
nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết,

8


thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp
của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc
xét xử của Tòa án, mọi quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người
thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở
giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là cơ quan tiến
hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy
định để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác
có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến
nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm
vụ trên được thực hiện bởi các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tất cả các hoạt động tố tụng được
thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các quy

định của Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh
chóng, khách quan và đúng pháp luật.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là:
Một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ
quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp
do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm,
người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho
việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định
nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các
biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan [9-tr.313;314].
Đặc điểm: Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên,
có thể rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá

9


trình tố tụng hình sự có thời hạn xác định bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành
tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ
hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra
quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các cơ quan
có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để
chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ
án bao gồm cả tình tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để
kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều chỉ
là CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều
tra. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu thập

mới được coi là những chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình
sự. Còn các tài liệu có liên quan đến vụ án do các hoạt động khác cung cấp
như hoạt động trinh sát thì phải được CQĐT kiểm tra và thẩm định lại thì mới
được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm.
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là mọi
biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp đó tùy
thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó là: Hỏi
cung bị can; Lấy lời khai người làm chứng; Lấy lời khai người bị hại; Tạm giam;
Cấm đi khỏi nơi cư trú; Khám xét khẩn cấp; Bắt tạm giam v.v... Các biện pháp
được áp dụng phải theo đúng quy định của Luật tố tụng hình sự.

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quyền con người của người bị tạm
giữ, bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra
Quyền con người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự có những đặc điểm chung của quyền con người trong giai

10


đoạn điều tra nhưng cũng có những đặc điểm riêng cơ bản thể hiện ở đối
tượng của quyền. Đó là:
Thứ nhất, đối tượng của quyền con người trong giai đoạn điều tra là
người chưa thành niên từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Quyền của người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự có đối tượng đặc thù là người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra, từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi khi tham gia tố tụng
với tư cách người bị bắt, bị tạm giữ hoặc là bị can.
-

Người chưa thành niên: Theo cách gọi thông thường thì một chu kỳ


sống của con người được chia thành nhiều giai đoạn, lứa tuổi khác nhau như:
Nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, trung niên và cao niên; Còn theo thuật ngữ
pháp lý thì các giai đoạn, lứa tuổi chia thành: NCTN (trong đó có trẻ em) và
người đã thành niên.Ở mỗi quốc gia, thuật ngữ "trẻ em" và “NCTN” được
hiểu và quy định khác nhau phụ thuộc vào những đặc điểm riêng về sự phát
triển sinh học, tâm sinh lý cũng như quan điểm của mỗi nước về chăm sóc,
bảo vệ và giáo dục đối với trẻ em: BLHS Liên bang Nga 1996 quy định, trẻ
em được hiểu là NCTN và là người chưa đủ 18 tuổi; Thái Lan quy định
NCTN là người dưới 17 tuổi…
Về phương diện quốc tế, tại Điều 1 Công ước quyền trẻ em thông qua
ngày 20/11/1989 quy định: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có
nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em
đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [13, Điều 1]. Quy tắc tối thiểu phổ biến
của Liên Hợp Quốc (LHQ) về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do được LHQ
thông qua ngày 14/12/1992 quy định NCTN là người dưới 18 tuổi.
Ở Việt Nam,trong nhiều năm trước đây, NCTN được gọi là “vị thành
niên” nhưng từ khi chúng ta có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, thuật
ngữ "vị thành niên" được đổi thành NCTN nhằm phân biệt với người thành

11


niên. Trong khoa học pháp lý và trong các văn bản pháp luật, thuật ngữ NCTN,
trong đó có NCTN được sử dụng với ý nghĩa là một người đang ở độ tuổi dưới
18 tuổi. Theo từ điển Tiếng Việt: "Vị thành niên là người chưa đến tuổi được
pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hay là người
chưa đủ 18 tuổi" [44]. Cũng theo từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Nxb
Đà Nẵng năm 2002) thì: "NCTN là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về
thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân"

[44]. Định nghĩa này phù hợp với tinh thần của Công ước quyền trẻ em đã nêu
trên, tuy nhiên, lại đồng nhất hai thuật ngữ NCTN và Trẻ em.

Theo pháp luật Việt Nam, từ những kinh nghiệm được thừa nhận trong
quá khứ, dựa trên những thành tựu do các ngành khoa học khác mang lại cũng
như tiếp thu các văn bản pháp luật quốc tế mà các nhà làm luật đã đưa ra khái
niệm về NCTN, tuỳ theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng ngành luật. Trong
Hiến Pháp năm 1992, BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003, Bộ luật Lao
động, Bộ luật Dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy
phạm pháp luật khác, đều quy định tuổi của NCTN là dưới 18 tuổi và quy
định riêng những chế định pháp luật đối với NCTN trong từng lĩnh vực cụ thể.
Điều 18 Bộ luật dân sự quy định: "Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người
thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là NCTN" và Bộ luật lao động sửa
đổi, bổ sung năm 2002 cũng quy định: "Người lao động chưa thành niên là
người dưới 18 tuổi". Bên cạnh đó, Điều 1 Luật Giáo dục, chăm sóc và bảo vệ
trẻ em quy định rõ: "Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam
dưới 16 tuổi" [31]. Như vậy, có thể thống nhất một quan điểm là NCTN là
người dưới 18 tuổi.
-

Người chưa thành niên phạm tội là thuật ngữ được sử dụng trong

trong luật hình sự, để chỉ người phải chịu trách nhiệm hình sự có độ tuổi từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Điều 12

12


BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung), NCTNPT được phân chia thành hai nhóm, mỗi
nhóm có đặc điểm riêng: a. Từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi (thuộc nhóm đối

tượng được quy định là trẻ em), đặc điểm của nhóm này là: Vừa vượt qua giai
đoạn trẻ con, gần gia đình và sống phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình; b. Nhóm
thứ hai, từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nhóm này có đặc điểm đang ở giai
đoạn sắp bước vào tuổi thành niên, nhận thức xã hội khá hơn nhóm thứ nhất
nhưng vẫn chưa tách khỏi gia đình, kinh tế còn phụ thuộc vào gia đình.
Như vậy, có thể nói rằng khái niệm người chưa thành niên phạm tội trong
pháp luật Việt Nam không đồng nhất với khái niệm "người chưa thành niên" và
khái niệm trẻ em. Trẻ em là người dưới 16 tuổi, NCTN là người dưới 18 tuổi,
còn người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.

-

Người chưa thành niên trong tố tụng hình sự.

Người chưa thành niên trong TTHS, trước hết, đó là người có độ tuổi từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tương ứng với qui định về người chưa thành niên
phạm tội trong luật hình sự do những người này thực hiện hành vi có dấu hiệu
tội phạm, có thể bị xử lý bằng biện pháp hình sự nên mới bị áp dụng các biện
pháp của TTHS để ngăn chặn tội phạm hoặc điều tra thu thập chứng cứ. Thứ
hai, những người trong độ tuổi nêu trên đã, đang hoặc sẽ thực hiện hành vi
phạm tội cần phải điều tra thu thập chứng cứ để chứng minh; Thư ba, khi
tham gia tố tụng họ có những quyền và nghĩa vụ pháp lý theo qui định của
luật tố tụng hình sự ở vai trò tương ứng, chẳng hạn: Họ là người bị tạm giữ thì
có các quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ theo qui định của luật TTHS;
Thứ tư, bên cạnh các quyền và nghĩa vụ pháp lý chung của những người tham
gia tố tụng tương ứng họ còn có các quyền và nghĩa vụ chỉ áp dụng riêng đối
với người chưa thành niên theo qui định của pháp luật.
Từ những phân tích có thể hiểu người bị bắt, bị tạm giữ, bị can là
NCTN trong giai đoạn điều tra như sau: Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can là


13


NCTN trong TTHS là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, chưa phát triển
hoàn thiện về thể chất và tinh thần, bên cạnh các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của người tham gia tố tụng tương ứng họ còn có các quyền và nghĩa vụ riêng
theo qui định của pháp luật khi tham gia tố tụng hình sự ở giai đoạn điều tra.
Như vậy, đối tượng bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong tố
tụng hình sự là những người từ 14 đến dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, với đặc điểm
là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra nên phạm vi giới hạn của đối
tượng bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên lúc này chính là
những người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra đó là người bị bắt, bị
tạm giữ và bị can. Đặc điểm này cho thấy phạm vi nghiên cứu không đề cập
đến đối tượng người chưa thành niên là người bị hại, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan, người làm chứng trong tố tụng hình sự. Mà đề tài chỉ nghiên cứu
về quyền của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra tức là người đang
bị tình nghi thực hiện tội phạm.
Thứ hai,quyền con người của người chưa thành niên trong TTHS là
những quyền con người nói chung trong tố tụng hình sự được quy định ở
trong các văn bản tố tụng và thực tiễn thực hiện các văn bản đó ở Việt Nam.
Đó là các quyền cơ bản của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Đồng thời các quyền
này được thực hiện bởi các chủ thể tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án... nhằm đảm bảo các yêu cầu của quyền con người được áp dụng
đối với người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra.
Thứ ba, quyền con người của người chưa thành niên trong TTHS ở giai
đoạn điều tra có những đặc điểm riêng, thể hiện tính chất riêng của người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự. Chính vì vậy quyền con người của
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự có những quyền
riêng như: a. quyền cơ bản của NCTN được luật pháp quốc tế quy định thông


14


qua các nguyên tắc sau: Trong bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện nào, sự an toàn của
NCTN phải được đặt lên hàng đầu; Không bị phân biệt đối xử - tất cả các em
đều được đối xử công bằng, không thiên vị, bất kể giới tính, độ tuổi, dân tộc,
tôn giáo…; NCTN phải được đối xử một cách lịch sự, tôn trọng phẩm giá và
chuyên nghiệp; Trước khi xét xử, NCTN luôn luôn được suy đoán vô tội;
NCTN được đối xử theo những quy định đã nêu trong hệ thống pháp luật của
quốc gia; b. Quyền cơ bản của NCTN phạm tội trong giai đoạn điều tra: Tất
cả những tiếp xúc giữa cán bộ thực thi pháp luật(2) và NCTN phải mang tính
thân thiện, nhạy cảm, phải diễn ra trong một môi trường phù hợp, hỗ trợ và
đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của lứa tuổi; Trong quá trình giao tiếp với
NCTN, phải sử dụng ngôn ngữ phù hợp và dễ hiểu với các em; Cấm các biện
pháp điều tra tùy tiện(3), trong mọi trường hợp, quyền riêng tư của các em
phải được bảo vệ; Những thông tin cá nhân và mang tính nhạy cảm liên quan
đến NCTN phải được xử lý cẩn thận và được bảo đảm bí mật; Trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, cán bộ thực thi pháp luật cũng phải tôn trọng và bảo vệ phẩm
giá của con người, nêu cao các nguyên tắc nhân quyền cho tất cả mọi người,
trong đó có NCTN; NCTN có quyền ghi lại một cách chi tiết, đầy đủ tất cả
những lời khai khi cán bộ thực thi pháp luật lấy lời khai hoặc hỏi cung; NCTN
có quyền được bảo vệ khỏi vũ lực và các hình thức lạm dụng của các cơ quan
công quyền trong quá trình điều tra; Trong bất kỳ trường hợp nào, cán bộ điều
tra đều phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật; Cần tránh những trì hoãn không
cần thiết khi xử lý các vụ liên quan đến NCTN phạm tội; Việc giam giữ
NCTN phạm tội cần phải cân nhắc kỹ lưỡng nếu mục đích chỉ là để phục vụ
công việc của cán bộ điều tra; Các cán bộ thực thi pháp luật cần sử dụng
quyền tự quyết trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng trong đó có giai
đoạn điều tra; NCTN có quyền trình bày quan điểm của mình và những quan

điểm này phải được tôn trọng, xem xét một cách thận trọng;

15


NCTN có quyền mong muốn rằng các hoạt động điều tra sẽ được tiến hành
theo đúng luật pháp và với lý do thích hợp; c. Quyền cơ bản của NCTN khi bị
bắt giữ hoặc bị giam giữ: Mọi người, trong đó có NCTN đều có quyền được
tự do và được an toàn, trong đó có tự do đi lại; NCTN có quyền không bị bắt
giữ và bị giam giữ tùy tiện; NCTN bị bắt giữ cần phải được thông báo vào
thời điểm bị bắt và thông báo về lý do bắt giữ; Không NCTN nào có thể bị
tước quyền tự do trừ những trường hợp phù hợp với những thủ tục đã quy
định trong pháp luật của quốc gia; Khi bị giam giữ, NCTN phải được giam
riêng với người đã thành niên; Những NCTN bị giam giữ phải được gặp mặt
và có liên lạc với gia đình mình; NCTN có quyền được thông tin kịp thời về
tội danh bị cáo buộc; Giam giữ chỉ được sử dụng như là biện pháp cuối cùng,
giam giữ trong thời gian chờ xét xử chỉ được coi là ngoại lệ chứ không được
coi là nguyên tắc; NCTN có quyền được thông báo kịp thời, có sự hiện diện
và tham gia của cha mẹ (hoặc người lớn giám hộ) khi bị giam giữ hoặc bị bắt
giữ, trong các lần lấy lời khai hoặc hỏi cung; Cung cấp tham vấn pháp lý một
cách kịp thời cho tất cả những người bị giam giữ hoặc bị bắt giữ; NCTN có
quyền giữ im lặng và không bị buộc tội trong quá trình lấy lời khai và hỏi
cung; NCTN có quyền được chăm sóc y tế kịp thời khi cần thiết, có bác sĩ nữ
chăm sóc cho NCTN nữ; Khi bị giam giữ, NCTN phải được chăm sóc, bảo vệ
và hỗ trợ cần thiết, tùy vào độ tuổi, giới tính và tính cách của các em; Khi bị
giam giữ, quyền riêng tư của NCTN phải được tôn trọng và bảo mật; Việc sử
dụng vũ lực hoặc các biện pháp giới hạn khác đối với NCTN chỉ là ngoại lệ,
chỉ được sử dụng khi tất cả các biện pháp kiểm soát khác đã thất bại. Nếu có
sử dụng thì chỉ trong khoảng thời gian ngắn nhất; d. Quyền của NCTN khi bị
xét xử và tuyên án: Giam giữ chỉ là biện pháp cuối cùng và nếu có chỉ áp

dụng trong một khoảng thời gian ngắn nhất; NCTN có quyền giữ im lặng và
quyền được chuyển đến những dịch vụ hỗ trợ phù hợp; NCTN có quyền được

16


bảo vệ khỏi sự đối xử và trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, của các cơ quan
chính quyền và các cơ quan khác; NCTN có quyền mong muốn rằng quyền tự
quyết sẽ được sử dụng khi kết án, trong đó có các biện pháp thay thế; Áp
dụng xử lý theo hướng không giam giữ để tránh các thủ tục xét xử chính thức
và chuyển sang các chương trình hoà nhập cộng đồng phù hợp; e. Quyền của
NCTN khi bị tước quyền tự do: NCTN bị tước quyền tự do có quyền sử dụng
những phương tiện và dịch vụ đáp ứng các yêu cầu về sức khỏe và phẩm giá
con người; NCTN có quyền được cung cấp đầy đủ thực phẩm, nước uống
sạch, chỗ ngủ sạch sẽ, quần áo phù hợp với thời tiết cũng như việc phòng
bệnh và chữa bệnh; NCTN được tiếp cận với các chương trình, hoạt động vui
chơi giải trí có ý nghĩa cho việc phục hồi, tái hòa nhập và phát triển của họ;
NCTN có quyền hưởng sự giáo dục và được đào tạo nghề để chuẩn bị cho
mình có việc làm trong tương lai; Cán bộ ở các cơ sở quản lý giáo dục tập
trung cần được đào tạo về việc đối xử với NCTN sao cho phù hợp. Nghiêm
cấm việc sử dụng vũ lực hoặc các hình thức trừng phạt, truy bức, nhục hình;
đồng thời có cơ chế bảo vệ NCTN tránh khỏi mọi hình thức lạm dụng hoặc
bóc lột; NCTN cần được hỗ trợ khi các em trở về với gia đình và xã hội, được
ưu tiên đi học và tìm việc làm sau khi chấp hành xong biện pháp giáo dục.
Nên áp dụng việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại
tại các cơ sở quản lý giáo dục tập trung, hỗ trợ và giám sát NCTN ở cộng
đồng sau khi chấp hành xong biện pháp này. Chính quyền các cấp phải cung
cấp và đảm bảo các dịch vụ hỗ trợ cho NCTN khi các em trở về cộng đồng và
giảm bớt các định kiến đối với các em.Đại diện của các cơ quan cung cấp các
dịch vụ này cần được tiếp cận với NCTN khi các em bị giam giữ nhằm hỗ trợ

các em khi trở về cộng đồng.
Nội dung các quyền của NCTN trong TTHS cũng mang đầy đủ các
quyền của người tham gia tố tụng tùy theo các giai đoạn tố tụng. Khi người

17


×