Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Chế định án treo trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh thanh hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.59 KB, 98 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

H VN HNG

CHế ĐịNH áN TREO TRONG LUậT HìNH Sự VIệT
NAM (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

H VN HNG

CHế ĐịNH áN TREO TRONG LUậT HìNH Sự VIệT
NAM (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: GS.TSKH Lấ VN CM

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa luận tốt nghiệp đảm
bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học
và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa LuậtĐại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hà Văn Hƣng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH ÁN
TREO TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1.

7

Khái quát về án treo........................................................................... 7


1.1.1. Khái niệm và mục đích của án treo.......................................................7
1.1.2. Các đặc điểm của án treo....................................................................10
1.1.3. Bản chất pháp lý của chế định án treo................................................11
1.1.4. Ý nghĩa, vai trò của án treo trong công tác đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm 14
1.2.

So sánh án treo với hình phạt cải tạo không giam giữ..................16

1.3.

Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới về án treo và các
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù

18

1.3.1. Án treo trong pháp luật hình sự của CHLB Đức................................ 18
1.3.2. Án treo trong PLHS của Trung Quốc................................................. 28
Kết luận chƣơng 1.........................................................................................30
CHƢƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ ÁN TREO
2.1.

31

Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật
hình sự Việt Nam về án treo 31

2.1.1. Quy định về án treo trong pháp luật hình sự Việt Nam trước
pháp điển hóa lần thứ nhất năm 1985 31



2.1.2. Quy định về án treo trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn
từ 1985 đến năm 1999

35

2.1.3. Quy định về án treo trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm
1999 đến trước năm 2015
2.2.

44

Quy định về án treo trong Bộ luật hình sự Việt Nam 2015...........52

2.2.1. Căn cứ để người bị phạt tù hưởng án treo quy định tại bộ luật
hình sự năm 2015 55
2.2.2. Thời gian, điều kiện thử thách của án treo, hậu quả và trách
nhiệm pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử thách

55

Kết luận chƣơng 2.........................................................................................57
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG, NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN
THIÊṆ PHÁP LUÂṬ HÌNH S Ự VIỆT NAM VÀ BẢO ĐẢM
ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ ÁN TREO
3.1.

58


Thực tiễn áp dụng các quy định về án treo trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa 58

3.1.1. Những kết quả đạt được......................................................................58
3.1.2. Những khó khăn, bất cập khi áp dụng án treo trên thực tiễn..............60
3.1.3. Nguyên nhân của những bất cập.........................................................63
3.2.

Định hƣớng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định về án
treo trong pháp luật hình sự Việt Nam

65

3.2.1. Sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam và
nâng cao hiệu quả áp dụng án treo

65

3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về án treo.............66
3.2.3. Những giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam
về án treo

73

Kết luận chƣơng 3.........................................................................................77
KẾT LUẬN.................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 80


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số hiệu

Bảng 3.1

Bảng 3.2

Tình hì
huyện T

2016

Tình hì
Thanh


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với việc quy định các hình phạt nhằm trừng trị các hành vi phạm
tội, thì luật hình sự còn có các chế định đặc thù thể hiện tính nhân đạo nhằm
cải tạo những người trót lầm lỡ mà nhất thời phạm tội. Án treo là một trong
những chế định quan trọng của luật hình sự thể hiện rõ nét tính nhân đạo này,
là một chế định pháp luật ra đời rất sớm, với tính tích cực của mình nên án
treo hiện nay được quy định rất rộng rãi trong luật hình sự của nhiều nước.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trong pháp luật hình sự thì chế định án treo đã được ghi nhận tuy
còn sơ khai nhưng đã đem lại những kết quả tích cực - tạo điều kiện cho
những người trót lầm lỡ mà phạm tội, có bản chất tốt, phạm tội thuộc trường
hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt…, đồng thời nó phân hóa hàng ngũ bọn
phạm tội phản cách mạng, đem lại điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh
chống những âm mưu phá hoại Nhà nước. Tuy nhiên, cũng do những khó
khăn của thời kỳ này mà chúng ta chưa có một Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố
tụng Hình sự hoàn chỉnh. Chính vì vậy mà chế định án treo được quy định ở
nhiều văn bản khác nhau qua các giai đoạn của thời kỳ này. Cùng với sự đổi
mới của đất nước, sự hòa nhập với khu vực và thế giới, nền kinh tế phát triển
nhanh, hệ thống pháp luật của nước ta nói chung và luật hình sự nói riêng đã
bộc lộ những khuyết điểm cần phải sửa đổi. Đó cũng chính là lý do các Bộ
luật hình sự lần lượt ra đời và sửa đổi từ Bộ luật Hình sự năm 1985 rồi Bộ luật
hình sự 1999 và gần đây nhất là Bộ luật hình sự mới năm 2015 .
Phạt tù cho hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập thể hiện quan

điểm của Đảng, Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật hình sự là nghiêm
minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan hồng, tính ưu việt của chế
định án treo chính là ở sự kết hợp đó. Tuy nhiên thực tiễn vận dụng
1


án treo tại Thanh Hóa trong thời gian qua bên cạnh những mặt tích cực vẫn
còn bộc lộ những hạn chế nhất định trong cả pháp luật thực định và trong quá
trình áp dụng các quy định đó. Chẳng hạn như việc vận dụng các quy định về
điều kiện cho hưởng án treo hiện nay ở một số địa phương còn không chuẩn
xác đó là cho hưởng án treo cả những đối tượng đã có tiền án, tiền sự hoặc
ngược lại những người có nhân thân tốt nhất thời phạm tội đáng được xử treo
nhưng lại xử giam, có nơi có lúc còn xử quá nhẹ dưới mức 3 năm tù để bị cáo
được hưởng án treo đã tạo nên một tiền lệ xấu. Bên cạnh đó việc thi hành,
giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa ở nhiều xã, phường, thị trấn còn chưa chặt chẽ, thậm chí có nơi không
thực hiện việc quản lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Việc
phối hợp giữa Tòa án với cơ quan thực hiện việc giám sát, giáo dục và gia
đình người được hưởng án treo còn lỏng lẻo, mang tính hình thức dẫn tới việc
quản lý, giám sát, giáo dục chưa hiệu quả do vậy vẫn còn trường hợp người
được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách.
Từ những phân tích trên đây thì việc nghiên cứu một cách sâu rộng và
toàn diện về án treo cũng như thực tiễn tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa là cần thiết
góp phần hoàn thiện hơn các quy định về án treo. Với ý nghĩa đó, tác giả đã
lựa chọn và nghiên cứu “Chế định án treo trong Luật hình sự Việt Nam (trên
cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa)” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Án treo là một chế định đặc biệt của pháp luật hình sự và việc áp dụng
chế định này có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chính sách nhân đạo của

Nhà nước đối với người phạm tội. Vì vậy đề tài cũng đã được rất nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ và mức độ khác nhau:


cấp độ giáo trình: 1) Giáo trình Luật hình sự của Khoa Luật - Đại học

Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2009; 2) Giáo trình Luật
2


hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân
2011... Trong các giáo trình Luật hình sự này chế định án treo mới chỉ cập
nhật ở mức độ cơ bản. Một số cuốn sách chuyên khảo như: 1) Phạm Thị Học,
"Án treo trong luật hình sự Việt Nam", NXB Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 1996, 2) Lê Văn Luật ,"Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam",
NXB Tư pháp , Hà Nội, năm 2007...Trong các cuốn bình luận khoa học Bộ
luật hình sự và cuốn sách chuyên khảo nêu trên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở
đề cập đến một vài khía cạnh của án treo.
Ở cấp độ bình luận khoa học, phân tích chuyên sâu: 1) Vũ Thế Đoàn,
Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện pháp án treo theo Điều 44
BLHS, Tạp chí TAND số 6/1989; 2) Nguyễn Khắc Công, Một số suy nghĩ về
chế định án treo - Tạp chí TAND số 1/1991; 3) Lê Văn Hưng, Về vấn đề hình
phạt tù nhưng cho hưởng án treo, Tạp chí TAND số 4/1994; 4) Lê Văn Dũng,
Sự cần thiết của việc áp dụng án treo đối với người phạm tội, Tạp chí TAND
số 6/1994; 5) Nguyễn Văn Tùng, Áp dụng hình phạt bổ sung đối với người
được hưởng án treo, Tạp chí TAND số 5/1995; 6) Đoàn Đức Lương, Án treo
và thực tiễn áp dụng, Tạp chí TAND số 5/1996,… 7) Lê Văn Cảm, "Chế định
án tích và mô hình lý luận của nó" ,Tạp chí Nhà nước pháp luật, số 2/2005 ;
8) Phạm Bá Thát, "Một số suy nghĩ về Nghị định 61/2000/NĐ-CP về thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo" Tạp chí Toà án nhân dân, số 3/2001; 9) Trịnh

Quốc Toản "Bàn về án treo từ góc nhìn so sánh " Tạp chí khoa học và Tổ
Quốc số 22/2004 ngày 20/11/2004; 10) Lê Văn Luật, Việc áp dụng các quy
định về án treo và thời gian thử thách của án treo - lý luận và thực tiễn áp
dụng, Tạp chí Kiểm sát số 6/2004; 11) Lê Văn Luật, Một số vấn đề tổng hợp
hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong
thời gian thử thách, Tạp chí Kiểm sát số 03/2005; 12) Đỗ Văn Chỉnh, Án treo
và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2007 và các số 12, 13,
14/2013…Các bài viết này chỉ đề cập đến một số khía cạnh của chế định án
3


treo, chưa có công trình nghiên cứu nào phản ánh một cách đầy đủ và chi tiết
về chế định án treo, chưa có công trình nghiên cứu nào phản ánh một cách
đầy đủ và chi tiết về chế định án treo quy định trong BLHS hiện hành, đặc
biệt là từ khi BLHS năm 1999 ra đời .
Ở cấp độ luận văn: 1) Trương Đức Thuận (2003), Án treo và nâng cao
hiệu quả áp dụng án treo trong xét xử của các Tòa án quân sự, Luận văn Thạc
sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội ; 2) Nguyễn Hữu Nhuận (2008)
"Án treo trong luật hình sự Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học trường ĐH
Luật Hà Nội; 3) Nguyễn Hữu Xương , Án treo và thực tiễn áp dụng ở Bắc
Ninh , Luận văn thạc sĩ luật học , Trường ĐH Luật Hà Nội,…
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn về án treo trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên ở góc độ
nghiên cứu những lý luận cao của án treo trong luật hình sự Việt Nam và thực
tiễn áp dụng tại Thanh Hóa thì chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu. Trên cơ sở các công trình nghiên cứu, bài viết đã có, tác giả mong muốn
nghiên cứu và hoàn thiện một công trình mới nhằm giải quyết được toàn diện
về cả mặt lý luận và thực tiễn áp dụng chế định án treo trong luật Hình sự nói
chung và tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
3.


Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu

Mục đích tổng quát của luận văn là làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận của
án treo trong luật hình sự Việt Nam từ đó xây dựng và đề xuất một số kiến
nghị, giải pháp hoàn thiện chế định án treo trong Bộ luật hình sự cũng như
giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là những quy định pháp luật về
án treo trong Bộ luật hình sự Việt Nam và các văn bản có liên quan đến án treo.

4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu
những nội dung pháp luật liên quan trực tiếp đến chế định án treo. Cụ thể là
4


các quy định pháp luật về án treo cũng như pháp luật liên quan đến chế định
án treo. Thực tiễn áp dụng của các quy định pháp luật hình sự về án treo tại
Thanh Hóa giai đoạn 2011-2016 để đề ra hướng hoàn thiện về pháp luật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích mà đề tài đề ra, trong quá trình nghiên cứu luận
văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử được sử dụng trong
Chương 1 khi nghiên cứu tài liệu liên quan đến những vấn đề lý luận về chế
định án treo trong pháp luật hình sự và so sánh chế định án treo trong luật
hình sự của một số quốc gia trên thế giới.
Phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh được sử dụng khi phân
tích thực trạng các quy định của pháp luật về án treo trong luật hình sự Việt
Nam
Phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá dựa trên số liệu thực

tiễn thu thập được tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 - 2016. Từ đó sử
dụng phương pháp tổng hợp để đề ra hướng hoàn thiện của pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
Đây là một công trình khoa học dưới hình thức là một luận văn thạc sĩ
luật học về án treo trong luật hình sự Việt Nam. Đề tài được nghiên cứu một
cách tương đối sâu sắc và toàn diện nội dung chế định án treo trong luật hình
sự Việt Nam cùng những vấn đề liên quan, từ đó nâng cao nhận thức về án
treo, tạo tiền đề cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Đồng thời định
hướng cho thực hiện chế định án treo nói chung và ở tỉnh Thanh Hóa nói
riêng, từ đó góp phần vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Luận văn bảo vệ thành công sẽ có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, có
thể làm tư liệu tham khảo có giá trị trong việc xây dựng pháp luật hình sự góp
phần khắc phục những khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng và thi hành hình
phạt tù cho hưởng án treo nhằm nâng cao hiệu quả của chế định này.
5


7.

Bố cục luận văn

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo. Luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế định án treo trong Luật Hình sự

Chương 2: Các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về án treo
Chương 3: Thực tiễn áp dụng, những giải pháp hoàn thiện pháp luật
hình sự Việt Nam và bảo đảm áp dụng quy định về án treo

6



CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH ÁN TREO
TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về án treo
1.1.1. Khái niệm và mục đích của án treo
-

Khái niệm án treo

Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Án treo là án tù không phải thi
hành ngay, nhưng sẽ thi hành nếu trong thời gian quy định người bị kết án lại
phạm tội và bị xử án lần nữa" [17, tr.56] . Quan điểm này chưa nêu rõ được
bản chất pháp lý của án treo.
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Án treo là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt không quá ba
năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ,
nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù” [45, tr.372]
Theo GS.TSKH Lê Cảm quan niệm ngắn gọn và đầy đủ "Án treo là
một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách
nhất định đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có
đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định" [15, tr. 230]
Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường đại học Luật Hà
Nội thì “…Theo BLHS hiện nay, án treo được hiểu là biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện…án treo thể hiện tính nhân đạo của luật hình
sự Việt Nam, có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao
động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như gia đình
đồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc
phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên” [21, tr.117]

Từ các quan điểm đã phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm khái
quát nhất về án treo như sau: Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình
7


phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt tù không quá ba
năm, nếu người phạm tội có nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, xét
thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội, Toà án sẽ miễn
chấp hành hình phạt tù và ấn định một thời gian thử thách nhất định từ một
năm đến năm năm; nếu trong thời gian thử thách người bị kết án không phạm
tội mới thì họ sẽ vĩnh viễn không phải chấp hành hình phạt của bản án cho
hưởng án treo đó.
Án treo có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo để
hoàn lương, với sự giúp đỡ tích cực của chính quyền địa phương nơi cư trú
hoặc cơ quan công tác, gia đình, người thân, bạn bè và xã hội. Án treo là một
trong những biểu hiện cụ thể của phương châm “trừng trị kết hợp với giáo
dục” và thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của
Nhà nước ta. Áp dụng đúng đắn các quy định về án treo sẽ có tác dụng tốt là
không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà cũng đạt
được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, hoà
nhập với cộng đồng, giác ngộ được ý thức chấp hành chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nuớc, tuân thủ quy tắc cuộc sống XHCN.
-

Mục đích của án treo

Việc áp dụng án treo là cần thiết, nó không những thể hiện được những
nguyên tắc công bằng, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa
hình phạt mà còn thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể hiện
rõ phương châm trừng trị kết hợp với cải tạo giáo dục, thể hiện sự khoan hồng

và nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Người phạm tội được
hưởng án treo không phải chấp hành hình phạt tù trong trại giam, không bị
mất tự do, họ vẫn được làm ăn sinh sốn trong cộng đồng xã hội.
Tuy nhiên, trong thời gian thử thách người phạm tội bị hạn chế một
phần quyền tự do của mình so với những người bình thường khác, đó là phải
chịu sự quản lý, giám sát, giáo dục của gia đình và cơ quan, tổ chức nơi người
8


đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú và họ luôn
bị răn đe là nếu phạm tội mới thì họ sẽ không được hưởng án treo nữa mà phải
chấp hành hình phạt tù của bản án trước tổng hợp với hình phạt của bản án
mới. Án treo vẫn đảm bảo tính răn đe nhưng lại có tác dụng khuyến khích
người phạm tội vì nếu họ cải tạo tốt, không vi phạm điều kiện thử thách thì sẽ
không phải chấp hành hình phạt tù. Vì người được hưởng án treo được tự giáo
dục, cải tạo ngay trong môi trường xã hội nơi họ vẫn sinh sống và lao động
nên nó thu hút đông đảo thành viên trong xã hội tham gia theo dõi, giúp đỡ,
giáo dục và cải tạo người phạm tội, góp phần xã hội hóa quá trình cải tạo
người phạm tội. Điều này có hiệu quả rất cao, giúp người bị kết án thêm tin
yêu vào cuộc sống, khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp vốn có của chính mình.
Việc xã hội hóa quá trình cải tạo người phạm tội cũng chính là góp phần nâng
cao ý thức pháp luật và trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Trong luật hình
sự, hình phạt tù có tính nghiêm khắc, răn đe cao và mang tính giáo dục, cải
biến quan niệm, lối sống của phạm nhân một cách sâu sắc. Tuy nhiên, việc áp
dụng nó không phải là tối ưu trong mọi trường hợp, nhất là trong điều kiện cơ
sở vật chất trại giam còn hạn chế, chật hẹp và điều kiện cải tạo, giáo dục
người phạm tội trong trại giam nhiều nơi chưa được thực hiện tốt. Qua thực
tiễn cho thấy thì tỷ lệ người bị phạt tù chiếm một tỷ lệ rất lớn trong số các loại
hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với các bị cáo bởi lẽ đây cũng là một trong
những loại hình phạt rất nghiêm khắc mà Tòa án vận dụng. Nếu tất cả các án

phạt tù này đều được đưa đi thi hành tại các trại cải tạo thì sẽ là một gánh
nặng rất lớn đối với nhà nước về vấn đề con người quản lý giáo dục, về cơ sở
vật chất là rất tốn kém. Hơn nữa, theo kết quả điều tra xã hội học và phạm tội
học thì trong một số trường hợp người phạm tội vào chấp hành hình phạt tù
trong trại giam đã chịu ảnh hưởng xấu của những phạm nhân khác nên hình
thành những nhân cách xấu hơn trước khi vào tù và khi ra tù họ trở thành
những người còn hung tợn và dễ dàng phạm tội hơn.
9


1.1.2. Các đặc điểm của án treo
Án treo có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, án treo là biện pháp giáo dục trong trường hợp không cần
cách ly người phạm tội khỏi cộng đồng khi bị xử phạt tù tương đối nhẹ đồng
thời là một chế định pháp lý độc lập thể hiện nguyên tắc nhân đạo và phương
châm xử lý trong chính sách hình sự của Nhà nước ta "nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục".
Thứ hai, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Người chịu hình phạt tù có thời hạn có thể được hưởng án treo khi đáp ứng
được một số điều kiện do pháp luật hình sự quy định. Cũng có ý kiến cho rằng
án treo là một loại hình phạt do có mối quan hệ mật thiết với hình phạt tù có
thời hạn. Tuy nhiên án treo không phải là hình phạt mà chỉ là biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều đó có nghĩa là người được hưởng
án treo là người phạm tội phải chịu hình phạt tù có thời hạn nhưng được miễn
việc chấp hành hình phạt tù tại trại giam. Việc cho người phạm tội hưởng án
treo là cho phép họ tự cải tạo mà không phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội
dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa
phương để họ tích cực cải tạo và tránh được những hình vi sai trái.
Thứ ba, người được hưởng án treo phải tự cải tạo, dưới sự giám sát,
giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương trong một thời

gian thử thách nhất định do Tòa án ấn định. Thời gian thử thách là khoảng
thời gian nhất định do Tòa án ấn định để kiểm tra, đánh giá việc tự cải tạo của
người phạm tội. Pháp luật quy định về thời gian thử thách đối với người phạm
tội từ một năm đến năm năm. Thời gian thử thách được Tòa án xác định dựa
trên cơ sở mức hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu. Trong trường
hợp người phạm tội không phạm tội mới trong thời gian thử thách và thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thì không phải chấp hành hình phạt đã tuyên.
Ngược lại, đối với người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử
10


thách thì Tòa án quyết định buộc chấp hành hình phạt của bản án trước và
tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Bản chất pháp lý của chế định án treo
Chế định án treo được ra đời từ rất sớm trên thế giới, ở các nước khác
nhau thì chế định án treo được quy định mỗi cách khác nhau. Luật hình sự của
Anh và Mỹ coi án treo là trường hợp hoãn tuyên án kèm theo biện pháp bảo
lĩnh hoặc biện pháp bảo đảm bằng tiền. Luật hình sự của Pháp và Bỉ và một số
nước khác coi án treo là việc hoãn hoặc miễn chấp hành hình phạt. Các nước
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây, đa số coi án treo là biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù có điều kiện; nhưng cũng có nước coi án treo là hình
phạt chính, như Nước Cộng hoà dân chủ Đức [5, tr.8] .
Tại Điều 10 sắc lệnh số 21/SL ngày 14/2/1946 của Chủ tịch nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa quy định: “Khi phạt tù, Toà án có thể cho tội nhân
được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ
tạm đình chỉ việc thi hành án. Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, Tội
nhân không bị Toà án làm tội một lần nữa về một tội mới thì bản án đã tuyên
19 năm sẽ bị huỷ đi, coi như không có. Nếu trong năm năm ấy, tội nhân lại bị
kết án một lần nữa trước một Toà án thì bản án treo sẽ đem thi hành” [10,
tr.9]. Mặc dù Sắc lệnh quy định là “…Bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ thi hành

án…”, nhưng trong thực tế, nó được áp dụng như là biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện. Nghĩa là trong 5 năm kể từ ngày tuyên án, nếu
người được hưởng án treo không bị kết án một lần nữa thì bản án đã tuyên
cho hưởng án treo sẽ bị huỷ đi coi như không có, và dĩ nhiên là họ sẽ vĩnh
viễn không phải chấp hành hình phạt tù trong bản án cho hưởng án treo đó.
Mười năm sau, tại Điều 12 Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 thì chế định án
treo được bổ sung thêm, cụ thể là: “Đối với những kẻ phạm tội…bị phạt
không quá 2 năm tù thì trong những trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính
phủ quy định, Toà án có thể cho bị cáo hưởng án treo” [12, tr.8].
11


Thông tư số 2308/NCPL ngày 1/12/1961 của TANDTC về việc áp dụng
chế độ án treo thì khái niệm “án treo là một biện pháp hoãn hình có điều kiện,
áp dụng chủ yếu đối với những kẻ phạm tội nhẹ, bản chất không nguy hiểm,
xét không thực cần thiết phải bắt thi hành ngay án phạt tù, nhằm mục đích
khuyến khích họ tự nguyện lao động cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã
hội, đồng thời cảnh cáo họ nếu còn tiếp tục phạm tội trong thời gian thử thách,
thì tuỳ trường hợp, sẽ buộc phải chấp hành án cũ trong mức độ cần thiết.
Ngược lại, nếu trong thời gian thử thách, họ không phạm tội gì mới, án trước
sẽ được xoá bỏ” [78, tr.121].
Có thời kỳ án treo được coi là hình thức xử lý nhẹ hơn hình phạt tù
giam (Thông tư liên ngành số 19/TATC ngày 2-10-1974). Cụ thể Thông tư số
19/TATC ngày 2/10/1974 của TANDTC hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc
thẩm hình sự, trong đó có hướng dẫn về án treo. Thông tư quy định: “…So
sánh hậu quả phổ biến về mặt pháp lý cũng như hậu quả về mọi mặt khác của
án tù giam và án tù treo (người bị án treo không bị cách ly khỏi xã hội, vẫn
sống trong môi trường bình thường hàng ngày của họ mà cũng không bị một
sự hạn chế gì, tất cả các quyền lợi của người công dân, người bị án treo đều
được hưởng, nếu họ là công nhân viên chức, họ không bị buộc phải thôi việc,

họ cũng chỉ bị án tích trong thời gian thử thách dài nhất là 5 năm) thì án treo
phải được xem là hình thức xử lý nhẹ hơn tù giam. Như vậy chuyển án tù treo
sang án tù giam dù thời gian ngắn hơn cũng 20 tháng là tăng nặng hình phạt.
Ngược lại, chuyển án tù giam sang án tù treo, dù thời gian dài hơn cũng là
giảm nhẹ hình phạt” [79, tr.123].
Theo sự hướng dẫn này, thì án treo không đồng nghĩa là một loại hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong hệ thống hình phạt của Pháp luật
hình sự, mà theo chúng tôi án treo chỉ được coi là một hình thức xử lý nhẹ
hơn tù giam. Tuy nhiên, sự hướng dẫn này chưa thật chính xác vì như vậy sẽ
dẫn đến trường hợp vì có ý định trước cho hưởng án treo nên đáng xử phạt bị
12


cáo 2 năm tù thì nâng lên 3 năm tù để cho hưởng án treo hoặc đáng xử phạt bị
cáo 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo nhưng vì có ý định trước không cho
hưởng án treo nên hạ xuống 2 năm tù giam. Từ các quy định về án treo của
các nước khác nhau, hoặc của Việt Nam trong các thời kỳ khác nhau thì đã có
những quan niệm khác nhau về án treo.
Như vậy, bản chất pháp lý của án treo trong luật hình sự Việt Nam hiện
hành thể hiện ở một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều
kiện.
Thứ hai, trong bản án treo đó, Toà án đã tuyên cho bị cáo một mức án
(chỉ duy nhất là loại hình phạt tù) tương xứng với tính chất và mức độ hành vi
phạm tội của bị cáo, cũng như nhân thân của bị cáo. Sau đó, xét thấy bị cáo là
người có thể tự lao động cải tạo tại cộng đồng xã hội, nơi bị cáo đang công tác
hoặc sinh sống để hoàn lương mà không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời
sống xã hội, cũng có thể tin tưởng là bị cáo sẽ không tiếp tục gây nguy hiểm
cho xã hội (không phạm tội mới); cơ sở của niềm tin này là căn cứ vào mức
hình phạt mà bị cáo phải chịu đối với tội phạm mà bị cáo gây ra, nhân thân

của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng...các điều kiện này
đã thể hiện bản chất của bị cáo, khả năng tự lao động cải tạo của bị cáo và làm
niềm tin cho Hội đồng xét xử để cân nhắc cho hưởng án treo (miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện).
Thứ ba, Người bị án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách nhất định
từ một năm đến năm năm và bao giờ thời gian thử thách cũng phải lớn hơn
mức hình phạt tù.Trong thời gian thử thách, người bị án treo phải chịu sự
giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức được Toà án giao trách nhiệm giám
sát, giáo dục.
Thứ tư, trong thời gian thử thách, nếu người bị án treo phạm tội mới thì
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xoá bỏ, người bị án treo sẽ bị buộc
13


phải chấp hành hình phạt tù trong bản án cho hưởng án treo trước đó, cộng
với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện.
Thứ năm, bản chất của án treo không phải là một hình phạt trong hệ
thống các hình phạt quy định tại Điều 28, Chương V BLHS năm 1999, nó
không nhẹ hơn hình phạt tù mà hình phạt tù Toà án đã tuyên trong bản án treo
đó đang “treo lơ lửng” từ khi tuyên bản án treo cho đến khi hết thời gian thử
thách. Nếu trong thời gian thử thách mà bị cáo không chịu lao động cải tạo để
trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội mà có hành vi phạm tội mới
thì bị cáo bị buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án treo đó. Ngược lại,
nếu trong thời gian thử thách của án treo, họ không phạm tội mới thì hình phạt
trong bản án treo đó được vĩnh viễn không chấp hành (xoá bỏ).
Tóm lại, bản chất pháp lý của án treo trong Luật hình sự Việt Nam hiện
hành là “Là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được
Toà án áp dụng đối với người phạm tội bị xử phạt tù có thời hạn không quá ba
năm, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và Toà án xét thấy không
cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù. Toà án ấn định thời gian thử thách

đối với họ từ 1 đến 5 năm.
1.1.4. Ý nghĩa, vai trò của án treo trong công tác đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm
Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện,
được áp dụng đối với người bị phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân
thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần thiết
phải cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội, Toà án sẽ miễn chấp hành hình phạt tù
và ấn định một thời gian thử thách nhất định, nếu trong thời gian thử thách
người bị kết án không phạm tội mới thì họ sẽ vĩnh viễn không phải chấp hành
hình phạt của bản án cho hưởng án treo đó. Án treo có tác dụng khuyến khích
người bị kết án tự lao động cải tạo để hoàn lương ngay tại môi trường sống
bình thường của họ, nơi cơ quan công tác hoặc nơi mà người bị kết án cư trú,
14


học tập, làm ăn, sinh sống với sự giúp đỡ tích cực của chính quyền địa
phương nơi cư trú hoặc cơ quan công tác, gia đình, người thân, bạn bè và xã
hội. Án treo là một trong những biểu hiện cụ thể của phương châm “trừng trị
kết hợp với giáo dục” và thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính
sách hình sự của Nhà nước ta. Áp dụng biện pháp án treo sẽ có tác dụng tốt là
không buộc người bị kết án phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà cũng đạt
được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người công dân bình thường, có
ích cho xã hội. Điều này sẽ có ảnh hưởng tích cực đến cuộc đời của họ cũng
như gia đình và xã hội nơi họ sinh sống và làm việc.Việc thi hành hình phạt tù
nhưng cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo
làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi
trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức,
đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi người được hưởng án treo làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú và
gia đình của họ. Người được hưởng án treo phải chịu thử thách dưới sự giám

sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình của người đó
[18, tr.17].
Áp dụng đúng đắn các quy định về án treo thì sẽ có lợi ích đáng kể về
kinh tế, cụ thể là Nhà nước ta sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí tương đối
lớn nếu không bắt người bị kết án chấp hành hình phạt tù mà cho họ hưởng án
treo, chịu sự giám sát, giáo dục tại địa phương nơi cư trú. Đó là các khoản chi
phí cho việc cải tạo họ trong các trại giam...; Ngoài ra, nó tạo điều kiện cho
người được hưởng án treo và gia đình của họ ổn định được cuộc sống gia đình
về mọi mặt vì họ không bị cách ly khỏi đời sống xã hội, cách ly khỏi gia đình
nên họ sẽ có cơ hội lao động cải tạo và làm lại cuộc đời, để chuộc lại những
lỗi lầm mà họ mắc phải. Người phạm tội khi được Toà án cho hưởng án treo
thì dĩ nhiên họ rất phấn khởi và hạnh phúc, họ được quay lại môi trường sống
của mình để làm lại cuộc đời, giảm bớt được mặc cảm tội
15


lỗi của mình và đặc biệt là họ thấy được chính sách nhân đạo và khoan hồng
của Nhà nước ta đối với những người có nhân thân tốt nhưng bị lầm lỡ, có
thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Án treo còn có tác dụng
giáo dục, răn đe những người xung quanh nơi người được hưởng án treo làm
việc hoặc cư trú, bản án mà Toà án dành cho người được hưởng án treo cũng
như những bất lợi khác do hành vi phạm tội của họ mang lại đối với bản thân
họ là một bài học cảnh tỉnh, nhắc nhở và cảnh giác đối với những người xung
quanh, họ lấy đó làm bài học để cố gắng kìm chế những bản năng xấu trong
con người họ khi có điều kiện phạm tội đến với họ, khí đó ý thức tuân thủ
pháp luật của họ được nâng lên. Đây cũng là một ý nghĩa giáo dục của biện
pháp án treo đối với xã hội.Ngoài ra, án treo còn thu hút một bộ phận nhân
dân tham gia trong việc giúp đỡ, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo
trong thời gian thử thách, không phân biệt, xa lấn người phạm tội mà tìm cách
gần gũi giúp đỡ họ để họ có điều kiện lao động cải tạo để hoàn lương và sớm

hoà nhập với cộng đồng, trở lại làm một công dân bình thường với đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của người công dân.
Như vậy, án treo có một vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng, nó vừa thể
hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo của Nhà nước ta, đồng thời là một
biện pháp hữu hiệu không thể thiếu trong chính sách hình sự của nhà nuớc, nó
vừa mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, vừa đem lại những hiệu quả cao
trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội, đảm bảo được sự ổn định của đời sống
chính trị, văn hoá, kinh tế - xã hội của đất nước
1.2. So sánh án treo với hình phạt cải tạo không giam giữ
Cải tạo không giam giữ là hình phạt không buộc người bị kết án phải
cách li khỏi xã hội, mà được giao cho cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội giám
sát, giáo dục nhằm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân tham gia vào
việc cải tạo, giáo dục người phạm tội.
16


Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù nếu đáp ứng đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật với điều kiện phải qua một thời gian
thử thách.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự thì thấy chế định án treo
và hình phạt cải tạo không giam giữ có một số điểm giống nhau là:
-

Không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội.

Người bị kết án đều được giao cho cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội

nơi người đó làm việc hoặc thường trú để giám sát giáo dục.
Người bị kết án đều có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ

sung.
-

Người bị kết án đều được đương nhiên xóa án trong thời hạn nhất

định kể từ ngày chấp hành xong bản án.
Tuy nhiên, án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ cũng có những
điểm khác nhau căn bản như:
-

Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt chính được quy định cụ

thể Bộ luật hình sự còn "án treo" là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện
trong quy định của Bộ luật hình sự.
-

Phạm vi và điều kiện áp dụng án treo và hình phạt cải tạo không giam

giữ có khác nhau như:
+ Cải tạo không giam giữ chỉ áp dụng cho trường hợp là phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng tức là tội có khung hình phạt cao
nhất đến ba năm tù và đến bảy năm tù (theo Điều 8 Bộ luật hình sự), còn đối
với án treo không quy định cụ thể được áp dụng đối với loại tội phạm nào (ít
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng). Điều này cho thấy
phạm vi áp dụng cho người được hưởng án treo rộng hơn nhiều so với hình
phạt cải tạo không giam giữ.
+ Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng cho người
phạm tội bị xử phạt từ sáu tháng đến ba năm (Điều 31 Bộ luật hình sự), nhưng
đối với người được hưởng án treo thì phạm vi áp dụng đến ba năm tù mà hình
17



phạt tù quy định từ ba tháng trở lên do đó hình phạt đối với người được hưởng
án treo là từ ba tháng đến ba năm như vậy có thể nói là ngắn hơn nhưng họ lại
phải chịu thời gian thử thách mà thời gian này tối thiểu là một năm và tối đa là
5 năm.
+

Điều kiện để người được hưởng án treo tuy có nhiều điểm giống với

loại hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng điều kiện cho việc áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ rõ ràng đòi hỏi phải cao hơn so với điều kiện của
người được hưởng án treo bởi lẽ hình phạt cải tạo không giam giữ nhẹ hơn so
với hình phạt tù khi áp dụng.
-

Xét về hậu quả pháp lý người bị phạt tù cho hưởng án treo nếu trong thời

gian thử thách mà phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình
phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định
của pháp luật vì vậy đối với người bị kết án coi như chưa chấp hành hình phạt
của bản án trước. Nhưng đối với hình phạt cải tạo không giam giữ vì không có
thời gian thử thách nếu trong thời gian chấp hành hình phạt này nếu họ phạm tội
mới thì họ chỉ phải chuyển phần hình phạt cải tạo không giam giữ chưa chấp
hành tính từ thời điểm họ phạm tội mới thành hình phạt cải tạo không giam giữ
hoặc hình phạt tù để quyết định hình phạt chung theo nguyên tắc cứ ba ngày cải
tạo không giam giữ bằng một ngày tù (Điều 50 Bộ luật hình sự).

-


Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải chịu một số nghĩa vụ

theo quy định của pháp luật và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20%
để sung quỹ nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt Tòa án có thể cho
miễn việc khấu trừ thu nhập, còn đối với người được hưởng án treo không bị
ràng buộc bởi quy định này vì vậy họ không bị khấu trừ thu nhập.
1.3. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới về án treo và các
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
1.3.1. Án treo trong pháp luật hình sự của CHLB Đức
Tùy thuộc vào hoàn cảnh địa lý, sự phát triển về kinh tế xã hội, ý thức
18


×