Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.78 KB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ NGÂN

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC

DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ NGÂN

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC

DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Nguyễn Hoàng Anh

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Ngân


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Số lƣợng, loại hình doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế giai
đoạn 2005-2014.................................................................................................................................. 64

i


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC BẢNG............................................................................................................................ i
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH............................................................................. 8
1.1 DU LỊCH, BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA DU LỊCH..................................8
1.1.1 Khái niệm, bản chất du lịch............................................................................ 8
1.1.2 Vai trò của du lịch......................................................................................... 11
1.2 PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH.............................................. 13
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật trong lĩnh vực du lịch.........................13
1.2.2. Nội dung, hình thức của pháp luật trong lĩnh vực du lịch.......................... 17
1.2.3. Vai trò của pháp luật trong lĩnh vực du lịch................................................ 20
1.3. KHÁI NIỆM, YÊU CẦU, ĐIỀU KIỆN VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH MỨC
ĐỘ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH...................23
1.3.1. Khái niệm, yêu cầu và điều kiện hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du
lịch.......................................................................................................................... 23
1.3.2. Tiêu chí xác định mức độ hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch......26
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH .. 33

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................................... 33
2.1. KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP
LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH................................................................ 33
2.1.1. Giai đoạn từ 1960 đến trước 1986............................................................... 33
2.1.2. Giai đoạn từ 1986 đến trước 1999............................................................... 35

ii


2.1.3. Giai đoạn từ 1999 đến trước 2005............................................................... 40
2.1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Luật Du lịch 2005 đến nay............................... 43
2.2. ĐÁNH GIÁ PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH HIỆN NAY....51
2.2.1. Đánh giá chung............................................................................................ 51
2.2.2. Đánh giá pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở một số nội dung cơ bản........58

2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA HẠN CHẾ, BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................. 81
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................. 84
3.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU
LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................................................................... 84
3.1.1. Đáp ứng yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý nhà nước bằng
pháp luật................................................................................................................. 84
3.1.2. Đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước và xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa....................................................................... 86
3.1.3. Đáp ứng yêu cầu hội nhập của pháp luật trong lĩnh vực du lịch Việt Nam
với khu vực và thế giới........................................................................................... 88
3.1.4. Đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới
................................................................................................................................ 89
3.2. MỤC TIÊU VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................91
3.2.1. Mục tiêu........................................................................................................ 91
3.2.2. Phương hướng............................................................................................. 92
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................. 95
3.3.1. Hoàn thiện hình thức của pháp luật trong lĩnh vực du lịch.......................95
3.3.2. Hoàn thiện nội dung của pháp luật trong lĩnh vực du lịch......................... 96
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 107
iii


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 109

iv



MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Ngày nay, du lịch là một nhu cầu không thể thiếu của con người trong thế giới hiện
đại và trở thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu của kinh tế thế giới. Đối
với nhiều quốc gia, du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất trong hoạt động
ngoại thương. Hội đồng Lữ hành và Du lịch quốc tế (World Travel and Tourism
Council –WTTC) đã công bố du lịch là ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả
ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Du lịch đã trở thành vấn đề mang
tính toàn cầu, nhiều nước lấy tiêu chí du lịch của dân cư như là một chỉ tiêu để đánh
giá chất lượng cuộc sống. Theo dự báo của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO)
lượng khách du lịch quốc tế trên toàn cầu sẽ đạt 1,6 tỷ lượt vào năm 2020, trong đó
Đông Á – Thái Bình Dương là khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới với tỷ lệ
6,5% hàng năm trong giai đoạn từ 1995-2020 [49]. Đây là cơ hội cho Việt Nam thúc
đẩy ngành du lịch phát triển mạnh trong giai đoạn mới.
Với đường bờ biển dài, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nền văn hóa đậm đà bản
sắc dân tộc và truyền thống lịch sử lâu đời Việt Nam được đánh giá là nước có nhiều
tiềm năng to lớn để phát triển du lịch. Với vai trò là ngành kinh tế tổng hợp quan
trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội đất nước, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có
tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu
cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng, phục hồi sức khỏe của nhân dân và khách du
lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng
ta luôn chú trọng phát triển du lịch. Ngay khi thực hiện công cuộc Đổi mới, Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội đến năm 2000 do Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng thông qua ngày 27/6/1991 chủ trương “Khai thác sự hấp

dẫn của thiên nhiên, di sản văn hóa phong phú và các lợi thế khác của đất nước,
mở rộng hợp tác với nước ngoài để phát triển mạnh du lịch” [21, tr 166].

1


Đồng thời, du lịch được coi là một trong các ngành mũi nhọn “Trong quá trình thực
hiện chiến lược sẽ xác định rõ thêm những sản phẩm mũi nhọn trong các ngành và
lĩnh vực nêu trên và tùy theo khả năng mới về vốn, công nghệ và thị trường mà một
số ngành và sản phẩm khác có thể trở thành mũi nhọn như điện tử - tin học, vật liệu
mới, du lịch,…” [21, tr 167]. Trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng và phát triển
ngành dịch vụ du lịch đã được Đảng và Nhà nước tập trung chỉ đạo tại Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI như sau: “Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm
lượng tri thức và công nghệ cao như du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông,
công nghệ thông tin, y tế. Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ
khu vực và quốc tế. Mở rộng thị trường nội địa, phát triển mạnh thương mại trong
nước; đa dạng hóa thị trường ngoài nước… Đa dạng hóa sản phẩm và các loại
hình dịch vụ, nâng cao chất lượng để đạt tiêu chuẩn quốc tế” [26, tr 116]. Việc này
cũng đồng nghĩa với việc phải xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đối với ngành
dịch vụ du lịch, để du lịch thực sự phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Sau 55 năm (1960-2015) xây dựng và phát triển, ngành du lịch nước ta có sự
phát triển mạnh mẽ và đạt được những kết quả to lớn: khách quốc tế đến du lịch ở
Việt Nam tăng hơn 30 lần, khách du lịch nội địa tăng gấp 35 lần so với năm 1990;
doanh thu từ du lịch năm 2000 là 17,4 ngàn tỷ đồng, năm 2013 là 200 ngàn tỷ đồng
tăng 11,5 lần và năm 2014 con số này là 230 ngàn tỷ đồng tăng 15% so với năm
2013; thị trường du lịch không ngừng được mở rộng, việc xây dựng và quảng bá
hình ảnh đất nước, con người Việt Nam năng động, thân thiện và hòa bình ngày
càng thành công trong lòng bạn bè quốc tế; những thành tựu đó góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, giải quyết nhiều việc làm cho người lao

động, từng bước xóa đói giảm nghèo. [4]
Tuy nhiên, ngành du lịch nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế: so với các nước
trong khu vực lượng khách quốc tế đến với Việt Nam còn thấp (giữ khoảng cách
khá xa so với một số nước trong khu vực: năm 2013, lượng khách quốc tế đến Việt
Nam là 7.572 ngàn lượt, trong khi khách quốc tế đến Malaysia là 10.810 ngàn lượt,
2


Singapore là 12.470 ngàn lượt, Thái Lan là 16.420 ngàn lượt); đóng góp của ngành
du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta chưa thực sự vượt trội so
với các ngành khác; kết cấu hạ tầng còn lạc hậu; chất lượng sản phẩm và dịch vụ du
lịch còn chưa đáp ứng tiêu chuẩn khu vực và quốc tế…[4]. Có rất nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trên (do nền tảng kinh tế, do nhân tố con người, do tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu…), nhưng trong đó có những nguyên nhân
trực tiếp đến từ khuôn khổ pháp luật hiện hành. Hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật về du lịch (Luật Du lịch năm 2005; Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày
01/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch
được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 180/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 92/2007/NĐ-CP; Nghị định số
158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo; Thông tư số
88/2008/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch về lưu trú du lịch…) đã trở
thành công cụ hữu ích cho Chính phủ, các cấp, các địa phương tăng cường công tác
quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên, sau 10 năm thực hiện, Luật Du
lịch 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập
nhất định cần được sửa đổi, bổ sung: một số nội dung trong Luật Du lịch 2005 chưa
hợp lý hoặc một số điều khoản được quy định trong Luật chỉ mang tính ước vọng,
không có tính khả thi nên không thể triển khai thực hiện; có những quy định trong

Luật Du lịch sau nhiều năm vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện; có nhiều vấn
đề phát sinh trong thực tế mà chưa có quy định pháp luật điều chỉnh; bên cạnh đó
nhiều quy định pháp luật du lịch chưa đồng bộ, thống nhất với các quy định pháp
luật khác có liên quan… Trong một chừng mực nhất định, các quy định pháp luật
hiện hành về du lịch vừa thiếu lại vừa thừa, tính hệ thống không cao gây khó khăn
cho việc thực thi, chậm đi vào cuộc sống. Thực trạng này đặt ra yêu cầu khách quan
trong việc hoàn thiện các quy định pháp luật về du lịch.

3


Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch không chỉ xuất phát từ thực trạng
của pháp luật về du lịch mà còn là yêu cầu về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam được nêu lên tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm
2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020: “Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và
hiệu lực của pháp luật…”.[6]
Bởi vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu luận văn của mình là “Hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện nay”. Việc nghiên cứu đề tài này tạo ra cơ
sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du
lịch, góp phần tăng cường quản lý nhà nước về du lịch, từng bước đưa du lịch thực
sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
2.

Tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài


Trong những năm qua, để phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ cũng như nhu
cầu học tập, nghiên cứu một số cá nhân, tổ chức làm trong lĩnh vực du lịch đã có
những đề tài, luận văn nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực này, như:
“Phát triển sản phẩm du lịch dựa trên giá trị văn hóa các dân tộc ở Tây Nguyên”
(Chủ nhiệm đề tài - Nguyễn Đệ, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh,
đề tài nghiên cứu cấp Bộ, 1/2014 – 12/2015); đề tài “Giải pháp phát triển thương
hiệu du lịch Việt Nam” (Chủ nhiệm đề tài – Đỗ Cẩm Thơ, Viện nghiên cứu Phát
triển du lịch, đề tài nghiên cứu cấp Bộ, 1/2013 – 12/2013); “Nghiên cứu hoạt động
du lịch có trách nhiệm ở Việt Nam” (Chủ nhiệm đề tài – Hà Văn Siêu, Viện nghiên
cứu Phát triển du lịch, đề tài nghiên cứu cấp Bộ, 1/2012 – 12/2013); “Thực trạng và
một số giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch” (Chủ

4


nhiệm đề tài – Nguyễn Thị Bích Vân, Tổng cục Du lịch, 2001); một số luận văn
thạc sĩ như: “Thực trạng công tác đào tạo nhân lực du lịch tại các trường du lịch
trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch” (Đoàn Thị Thắm, luận văn thạc sĩ Du
lịch, 2013); “Tài nguyên du lịch biển Việt Nam cho phát triển du lịch nghỉ
dưỡng”(Mai Hiên, luận văn thạc sĩ Du lịch học, 2007); “Quản lý nhà nước về cơ sở
lưu trú du lịch ở Việt Nam trong xu thế hội nhập”(Lê Ngọc Tuấn, luận văn thạc sĩ
Du lịch, 2009); “Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam hiện
nay”(Trần Quang Hảo, luận văn thạc sĩ Du lịch, 2009)…
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết đăng trên Báo Du lịch, Tạp chí Du lịch,… các tài
liệu hội thảo cấp ngành, cấp quốc gia về du lịch như: Hội thảo tháng 7/2015 do Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch – Ban Kinh tế Trung ương – Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam tổ chức với chủ đề “Phát triển du lịch Việt Nam trong thời
kỳ mới”; Hội thảo quốc gia tháng 6/2010 do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch – Báo
Nhân dân tổ chức với chủ đề “Phát triển du lịch Việt Nam trong bối cảnh tích cực,
chủ động hội nhập quốc tế” nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành Du lịch Việt

Nam (9/7/1960 – 9/7/2010); Hội thảo tháng 4/2015 do Dự án EU tổ chức với chủ đề
“Du lịch có trách nhiệm và Di sản văn hóa”…
Các đề tài, luận văn, bài viết nói trên nhìn chung đã đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau về chuyên môn trong lĩnh vực du lịch và đã có những đóng góp nhất định
về mặt lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên để đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện
những quy định của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực du lịch, từ đó tìm ra những
mâu thuẫn, vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng và đưa các quy định pháp
luật vào cuộc sống, tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc kiến nghị sửa đổi Luật
Du lịch 2005 thì hiện nay ở Việt Nam còn là vấn đề mới mẻ. Việc nghiên cứu, hoàn
thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực du lịch hiện nay là một yêu cầu cấp thiết
đặt ra nhằm tăng cường chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về du lịch,
góp phần thúc đẩy ngành du lịch Việt Nam phát triển ổn định, bền vững, giàu tính
cạnh tranh trong thời kỳ mới.
5


3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống pháp luật hiện hành trong lĩnh vực
du lịch ở Việt Nam. Qua nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực du lịch và thực trạng hệ thống pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực
du lịch, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở
Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật hiện
hành trong lĩnh vực du lịch để tìm ra các đặc điểm, hạn chế cụ thể nhằm xác định
các giải pháp cơ bản để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện
nay. Luận văn phân tích và khái quát các yêu cầu cụ thể về các lĩnh vực cụ thể trong
lĩnh vực du lịch để làm nổi bật vấn đề quan tâm chủ yếu: hoàn thiện pháp luật trong

lĩnh vực du lịch đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ bản và toàn diện về quản lý, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
-

Mục tiêu: Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm

đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật trong lĩnh vực du lịch hiện hành, để xác định
phương hướng, nội dung hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam
hiện nay.
-

Nhiệm vụ: Đề phù hợp với mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết

những nhiệm vụ sau đây:
Một là: Xây dựng cơ sở lý luận về pháp luật về du lịch và hoàn thiện pháp
luật về du lịch; đề xuất các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về du lịch.
Hai là: Phân tích, đánh giá các ưu điểm và hạn chế của pháp luật về du lịch
trong thời gian qua.
Ba là: Trên cơ sở lý luận đã được xây dựng qua những đặc điểm và hạn chế
của pháp luật về du lịch đã được chỉ ra để đề xuất những phương hướng và giải
pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện nay.

6


5.
-

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu


Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lên nin và tư tưởng

Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước
và pháp luật, đặc biệt là các quan điểm của Đảng ta về du lịch: Văn kiện Đảng toàn
tập, Tập 51, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam…Hiến pháp Việt Nam năm 1992,
năm 2013 và Luật Du lịch 2005.
-

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã vận dụng các phương pháp

khoa học như: phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp xã hội học để làm rõ những vấn đề bất cập giữa lý luận và thực tiễn công tác
soạn thảo, xây dựng hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực du lịch để phân tích,
đánh giá khách quan những ưu điểm, hạn chế cần khắc phục của hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về du lịch.
Luận văn kết hợp giữa phương pháp thống kê, phương pháp phân tích so
sánh, phương pháp khảo sát đánh giá và nhiều phương pháp khác có liên quan để
thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch
Chương 2. Thực trạng pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện nay

Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở
Việt Nam hiện nay

7



CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH

1.1 DU LỊCH, BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA DU LỊCH
1.1.1 Khái niệm, bản chất du lịch
Từ giữa thế kỷ 19, du lịch bắt đầu phát triển mạnh và ngày nay đã trở thành
một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến. Du lịch từ lâu đã trở thành một vấn đề mang
tính toàn cầu. Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một trong những
tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc sống và thuật ngữ “Du lịch” đã trở nên rất thông
dụng.
Thuật ngữ “Du lịch” trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp
với nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được La Tinh hóa thành “tornus” và sau
đó thành “tourisme” (Tiếng Pháp) và “tourism” (Tiếng Anh).[38]


Việt Nam, thuật ngữ “Du lịch” được dịch thông qua tiếng Hán. “Du” có

nghĩa là chơi, “Lịch” có nghĩa là từng trải.
Tuy nhiên người Trung Quốc lại gọi là “Du lãm” với nghĩa là đi chơi để
nâng cao nhận thức.
Ngày nay, trên thế giới có rất nhiều khái niệm khác nhau về du lịch. Như một
chuyên gia nghiên cứu về du lịch đã nhận định, đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả thì
có bấy nhiêu định nghĩa. Khái niệm “Du lịch” được hiểu rất khác nhau tại các quốc gia
khác nhau; giữa những nhà nghiên cứu khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
Vào năm 1941, ông W.Hunziker và Kraff (Thụy Sỹ) đưa ra định nghĩa: Du lịch
là tổng hợp những hiện tượng, mối quan hệ nảy sinh từ việc di chuyển và dừng lại của
con người tại nơi không phải là nơi cư trú thường xuyên của họ; hơn nữa, họ không ở
lại đó vĩnh viễn và không có bất kỳ hoạt động nào để có thu nhập tại nơi đến.


Tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc họp về du lịch ở Roma năm 1963, với mục
đích quốc tế hóa, các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: Du lịch là

8


tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các
cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên
của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là
nơi làm việc của họ.
Dưới con mắt của Guer Freuler trong cuốn nhập môn khoa học du lịch: Du lịch
với ý nghĩa hiện đại của từ này là một hiện tượng của thời đại của chúng ta dựa trên sự
tăng trưởng về nhu cầu khôi phục sức khoẻ và sự thay đổi của môi trường xung quanh,
dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp của thiên nhiên.

Theo nhà kinh tế Kalíiotis, du lịch là sự di chuyển tạm thời của cá nhân hay
tập thể từ nơi này đến nơi khác nhằm thoa mãn nhu cấu tinh thần, đạo đức, do đó
tạo nên các hoạt động kinh tế.
Theo quan điếm của Robert W.Mc.Intosh, Charles R.Goeldner, J.R Brent
Ritcie, du lịch là tổng hợp các mối quan hệ nảy sinh từ tác động qua lại giữa khách
du lịch, nhà cung ứng, chính quyền và cộng đồng chủ nhà trong quá trình thu hút và
đón tiếp khách du lịch.
Với cách tiếp cận tổng hợp ấy, các thành phần tham gia vào hoạt động du lịch
bao gồm: khách du lịch; các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách du
lịch; chính quyền sở tại; cộng đồng dân cư địa phương.
Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch Thế giới: “Du lịch là một hiện tượng
văn hóa, xã hội và kinh tế đòi hỏi sự di chuyển của con người đến những quốc gia
hay những địa điểm khác bên ngoài khu vực sinh sống thường ngày của họ vì mục
tiêu cá nhân hoặc mục tiêu công việc/nghề nghiệp. Những người này được gọi là

khách viếng thăm (có thể là khách du lịch hoặc khách thăm quan, người cư trú hoặc
không cư trú) và du lịch liên quan đến những hoạt động của họ, một trong số đó đòi
hỏi có chi tiêu du lịch”.[46, tr 25]
Tại Việt Nam, mặc dù du lịch là một lĩnh vực khá mới mẻ nhưng các nhà
nghiên cứu của Việt Nam cũng đưa ra các khái niệm xét trên nhiều góc độ nghiên
cứu khác nhau.
9


Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, du lịch được hiểu trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con
người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh,
di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét
ở góc độ cầu, góc độ người đi du lịch.
Thứ hai, du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều
mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ
đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu
nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu
quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ. Theo
nghĩa này, du lịch được xem xét ở góc độ một ngành kinh tế.[27, tr 156]
Điều 4 Luật Du lịch Việt Nam (được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 7, Khóa XI năm 2005) giải thích khái niệm
du lịch như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.[35]
Các định nghĩa trên đều nêu lên được bản chất của du lịch, đó là:
Là hoạt động của con người rời khỏi nơi cú trú thường xuyên của mình (trừ
trường hợp di chuyển đi cư trú chính trị, tìm việc làm hoặc xâm lược).
Đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, tham quan, tìm hiểu các danh lam thắng
cảnh, di tích lịch sử.

Không mang mục đích về kinh tế vì có thể thăm dò để làm kinh tế về sau.
Vậy du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người, ngoài nơi
cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, tìm hiểu
giải trí trong một khoảng thời gian nhất định và không mang mục đích kinh tế.

10


1.1.2 Vai trò của du lịch
Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc và
có tính chất liên ngành, liên vùng, xã hội hóa cao. Phát triển du lịch liên quan và
phụ thuộc vào tất cả các ngành, lĩnh vực đời sống xã hội. Du lịch chỉ có thể phát
triển trên nền tảng văn hóa mà ở đó mọi mặt đời sống xã hội đã cơ bản hội đủ các
điều kiện cần thiết về sức hấp dẫn của tài nguyên và mức độ thuận lợi, tiện nghi của
dịch vụ do các ngành liên quan cung cấp. Ngược lại, du lịch phát triển sẽ kích thích
nhu cầu và là đòn bẩy, động lực thúc đẩy các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội khác
phát triển. Có thể nói, du lịch ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường.
a.

Vai trò kinh tế

Được coi là “ngành kinh tế mũi nhọn” [23], vai trò của du lịch thể hiện trước
hết ở phương diện kinh tế.
Du lịch phát triển sẽ góp phần đẩy mạnh sự dịch chuyển cơ cấu ngành kin tế,
cơ cấu lao động, cơ cấu về mặt lãnh thổ. Như vậy, du lịch được coi là cơ sở quan
trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, và đây cũng chính là nguồn thu ngoại tệ lớn
của nhiều nước.
Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp mà sản phẩm của nó dựa trên
và bao hàm các sản phẩm có chất lượng của nhiều ngành kinh tế khác như ngành

giao thông vận tải (đặc biệt là vận tải hành khách); ngành thương mại( kinh doanh
ăn uống); bưu chính viễn thông; ngành bảo tồn di sản thiên nhiên, di sản văn hóa,
sáng tạo sản phẩm du lịch (thủ công truyền thống); tài chính – ngân hàng, xây
dựng… Ngành dịch vụ du lịch kéo theo hàng loạt các ngành khác phát triển, tăng
thu nhập cho quốc gia, cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Nói cách khác, du lịch
là ngành kinh tế dịch vụ có tính lan tỏa cao.
b.

Vai trò xã hội

Du lịch góp phần tạo công ăn việc làm cho người dân, giảm bớt nạn thất
nghiệp, nâng cao mức sống và làm cho đời sống tinh thần của con người trở lên
phong phú, giảm bớt tệ nạn xã hội.

11


Du lịch có vai trò trong việc giữ gìn, bảo vệ, phục hồi sức khỏe cho nhân
dân, trong một chừng mực nào đó nó còn có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi
thọ và tăng khả năng lao động cho con người. Các công trình nghiên cứu về sinh
học khẳng định rằng nhờ chế độ nghỉ ngơi và du lịch tối ưu, bệnh tật của cư dân
trung bình giảm 30%, bệnh đường hô hấp giảm 40%, bệnh đường tiêu hóa giảm
20%, bệnh thần kinh giảm 30%. Một số khu vực điều dưỡng khẳng định, nước
khoáng ở đó có thể chữa được các vết loét, u nhọt…
Thông qua hoạt động du lịch, người dân và khách du lịch hiểu thêm về truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, các danh lam thắng cảnh của đất nước… từ đó góp phần
giáo dục tinh thần dân tộc, khơi dậy lòng tự hào dân tộc trong mỗi người.
Cũng thông qua du lịch, người dân ở những địa phương, vùng miền, quốc gia
khác nhau được giao lưu, tiếp xúc với nhau, tăng cường đoàn kết dân tộc. Đồng thời
có sự trao đổi, học hỏi lẫn nhau giữa du khách với cư dân địa phương, góp phần

nâng cao dân trí cũng như vốn hiểu biết, kinh nghiệm sống của cả người dân bản địa
lẫn khách du lịch.
Phát triển du lịch cũng góp phần vào việc khôi phục, phát triển văn hóa dân
tộc. Nhu cầu nâng cao nhận thức văn hóa trong chuyến đi của du khách đã thúc đẩy
các nhà cung ứng chú ý đến việc khôi phục và duy trì các di tích, các lễ hội văn hóa,
các làng nghề thủ công truyền thống.
c.

Vai trò chính trị

Du lịch góp phần củng cố hòa bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế và
mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Thông qua du lịch và hoạt động quảng bá du
lịch, chúng ta có thể giới thiệu cho các nước khác trên thế giới về hình ảnh, sức hấp
dẫn của đất nước mình.
Năm 1967, du lịch được coi là “giấy thông hành của hòa bình”. Thông qua
du lịch quốc tế, con người thể hiện nguyện vọng của mình là được sống, lao động
trong hòa bình, hữu nghị.

12


d.

Vai trò môi trường sinh thái

Vai trò sinh thái của du lịch thể hiện ở việc tạo nên môi trường sống ổn định
về mặt sinh thái, du lịch sẽ là nhân tố kích thích bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi
trường tự nhiên xung quanh, bởi chính môi trường này có tác động rất lớn đến sức
khỏe và các hoạt động khác của con người.
Việc làm quen với các danh thắng và môi trường tự nhiên bao quanh có ý

nghĩa không nhỏ đối với khách du lịch, tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu sắc các tri
thức về tự nhiên, hình thành thói quen bảo vệ, giữ gìn tự nhiên.
1.2 PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật trong lĩnh vực du lịch
Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan, đặc biệt quan trọng nhưng
cũng vô cùng phức tạp chính vì vậy mà từ xưa đến nay đã có không ít những quan
niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Trên bình diện phổ quát, căn bản nhất và
vận dụng vào điều kiện kinh tế xã hội đương đại, có thể nêu định nghĩa pháp luật
như sau: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ
sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được bảo đảm thực hiện bằng
nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã
hội vì sự phát triển bền vững của xã hội”.[33, tr 288]
Pháp luật là hiện tượng của kiến trúc thượng tầng, vừa phản ánh trình độ phát
triển kinh tế - xã hội vừa có giá trị bảo đảm, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Pháp luật là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý và điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật và ngược lại pháp luật chỉ có
thể phát huy hiệu lực, hiệu quả của mình nếu được bảo đảm bằng sức mạnh của bộ
máy nhà nước “Ý chí đó nếu có của Nhà nước thì phải được biểu hiện dưới hình
thức một đạo luật do chính quyền đặt ra, nếu không thì hai tiếng ý chí chỉ là sự
rung động không khí do những âm thanh trống rỗng gây nên” [31, tr 51]. Vì lẽ đó,
pháp luật luôn thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực nhà nước.
13


Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật là công cụ cho sự
phát triển xã hội. Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì dân thì
pháp luật phải là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Pháp luật là cơ sở để xây
dựng “xã hội công dân” và là giá trị không thể thiếu trong nhà nước pháp quyền.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định: “Nhà

nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật” [23, tr 131,
132]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng khẳng định:
“Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là
thống nhất có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể,
khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật…” [25, tr 125] . Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định : “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta
thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo…Nâng
cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa”. [26, tr 126]
Từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước luôn coi
việc không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật là mối quan tâm lớn, thường xuyên
và quan trọng của đất nước. Điều này thể hiện trong hầu hết các văn kiện của Đảng,
đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI,
Nghị quyết số 48 – NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005…
Thực hiện chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Đảng, Quốc hội, Chính phủ và cơ quan nhà nước quản lý về du lịch đã và đang nỗ
lực xây dựng pháp luật trong lĩnh vực du lịch một cách đầy đủ và hiệu quả. Tuy
14


nhiên cần phải nhấn mạnh rằng, hệ thống các văn bản pháp luật trong lĩnh vực du
lịch hiện nay vừa thiếu lại vừa thừa, chưa cụ thể và tính hệ thống chưa cao, tác động
của nó trong quá trình triển khai còn nhiều hạn chế cần được sửa đổi, bổ sung và

hoàn thiện.
Về cơ sở lý luận, cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về pháp
luật du lịch. Tuy nhiên, quy phạm pháp luật trong lĩnh vực du lịch cũng giống như
các quy phạm pháp luật khác đều có tính bắt buộc chung, là khuôn mẫu để mọi chủ
thể tuân thủ và là tiêu chí đánh giá về hành vi của con người, do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận và được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống
cho đến khi bị thay đổi hoặc hủy bỏ. Điểm khác là quy phạm pháp luật trong lĩnh
vực du lịch chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và
hoạt động du lịch. Để tiếp cận khái niệm pháp luật trong lĩnh vực du lịch, xuất phát
từ đối tượng điều chỉnh có thể nêu một quan niệm chung như sau:
Pháp luật trong lĩnh vực du lịch là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động du lịch, bao gồm các quy định
về: tài nguyên du lịch; quy hoạch phát triển du lịch; khu du lịch, điểm du lịch, tuyến
du lịch và đô thị du lịch; khách du lịch; kinh doanh du lịch; hướng dẫn du lịch; xúc
tiến du lịch; hợp tác quốc tế về du lịch; thanh tra du lịch, giải quyết yêu cầu, kiến
nghị của khách du lịch.
Pháp luật trong lĩnh vực du lịch mang những đặc điểm chung của pháp luật
và những đặc điểm đặc thù, đó là:
-

Pháp luật trong lĩnh vực du lịch thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính

sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đường lối, chính sách của Đảng luôn giữ vai trò chỉ đạo trong mối quan hệ
với pháp luật. Điều này thể hiện ở sự chỉ đạo về quan điểm, phương hướng xây
dựng pháp luật, chỉ đạo nội dung pháp luật và việc tổ chức, thực hiện pháp luật.
Pháp luật về du lịch luôn phản ánh và thể chế đường lối, chính sách của Đảng thành
15



các quy định thống nhất áp dụng trên quy mô toàn xã hội. Trong quá trình xây dựng,
hoàn thiện cũng như tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch phải căn cứ vào quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, đặc biệt là quan điểm coi “du lịch là ngành
kinh tế mũi nhọn” (thể hiện trong văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng lần VII, VIII,
IX và tiếp tục khẳng định trong Đại hội Đảng lần X, XI) để thể chế hóa thành các
quy phạm pháp luật phù hợp và tổ chức thực hiện hiệu quả. Tuy nhiên, pháp luật về
du lịch cũng có tính độc lập tương đối của, nó có tác động trở lại đối với đường lối,
chính sách của Đảng. Nếu sử dụng tốt công cụ pháp luật thì chủ trương, đương lối,
chính sách của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống. Thông qua pháp luật đường lối,
chính sách, quan điểm của Đảng được triển khai và thực hiện nhanh chóng, cụ thể
trên quy mô rộng lớn nhất.
-

Pháp luật trong lĩnh vực du lịch là hệ thống các quy tắc xử sự có tính

thống nhất nội tại cao và có quan hệ chặt chẽ pháp luật trong các lĩnh vực khác
Tính hệ thống của pháp luật về du lịch thể hiện sự đa dạng của các quy phạm
pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong những thời điểm
nhất định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý, điều
hành, tổ chức hoạt động du lịch.
Pháp luật về du lịch có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với pháp luật trong các
lĩnh vực khác như: hành chính, tài chính, khoa học công nghệ, quyền và nghĩa vụ
của công dân, hình sự, dân sự…
Tuy nhiên pháp luật về du lịch cũng có đặc điểm riêng, mang tính đặc thù so
với pháp luật trong các lĩnh vực khác:
-

Pháp luật trong lĩnh vực du lịch là tổng thể các quy phạm pháp luật phản


ánh đặc thù của ngành du lịch (ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên vùng, liên ngành
và xã hội hóa rất cao), bao gồm các quy định của pháp luật về: tài nguyên du lịch;
quy hoạch phát triển du lịch; khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch và đô thị du
lịch; khách du lịch; kinh doanh du lịch; hướng dẫn du lịch; xúc tiến du lịch; hợp tác
quốc tế về du lịch; thanh tra du lịch, giải quyết yêu cầu, kiến nghị của khách du lịch
16


được quy định tại Luật Du lịch 2005 và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ngoài ra còn có các quy định liên quan đến lĩnh vực du lịch nằm rải rác trong các
văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác như: Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Giao thông vận tải, các quy định của pháp
luật về xuất nhập cảnh…
-

Pháp luật trong lĩnh vực du lịch quy định hoạt động thực hiện quyền lực

nhà nước trong việc bảo đảm hiệu lực thực tế của các quy định pháp luật về du lịch
bằng các biện pháp pháp luật, bảo đảm cho các quy định này được thực thi trên thực
tế.
-

Nguồn của pháp luật trong lĩnh vực du lịch rất phong phú, đa dạng, các quy

định của pháp luật về du lịch không chỉ thể thiện trong các văn bản pháp luật du lịch
mà còn thể hiện ngay trong các văn bản pháp luật khác có liên quan: Luật Đầu tư,
Luật Doanh nghiệp, Luật bảo vệ môi trường…
1.2.2. Nội dung, hình thức của pháp luật trong lĩnh vực du lịch
a.


Nội dung của pháp luật trong lĩnh vực du lịch

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về du lịch hiện hành đề cập đến nhiều
vấn đề cơ bản về hoạt động du lịch, trong đó Luật Du lịch dành 9 chương quy định
cụ thể các vấn đề này (tài nguyên du lịch, quy hoạch du lịch…). Trên cơ sở các quy
định chung đó và các quy định tại các văn bản có liên quan, các cơ quan thẩm quyền
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định cụ thể về những vấn đề này. Nội dung
pháp luật về du lịch ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
-

Quy định về tài nguyên du lịch và chế độ quản lý, bảo vệ và khai thác tài

nguyên du lịch.
Các quy định của pháp luật về du lịch phân chia các loại tài nguyên du lịch
thành; điều tra tài nguyên du lịch; nguyên tắc bảo vệ, tôn tạo và phát triển tài
nguyên du lịch; trách nhiệm quản lý, bảo vệ, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch.
Đặc biệt, trong trường hợp tài nguyên du lịch được sử dụng cho nhiều mục đích
kinh tế khác nhau, pháp luật du lịch quy định sự phối hợp giữa các ngành, các cơ

17


quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc sử dụng tài nguyên để bảo đảm
không làm giảm độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch.
-

Quy định về quy hoạch phát triển du lịch

Quy định các loại quy hoạch phát triển du lịch; nguyên tắc xây dựng, nội
dung quy hoạch phát triển du lịch; thẩm quyền lập, phê duyệt, quyết định quy hoạch

phát triển du lịch; quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển du lịch.
Quy định về khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch và đô thị du lịch
Về khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch: quy định cụ thể điều kiện, thẩm
quyền, thủ tục công nhận và công bố khu, điểm, tuyến du lịch theo các cấp độ quốc
gia và địa phương. Các điều kiện công nhận khu du lịch được xây dựng căn cứ vào
kinh nghiệm các nước và thực tiễn phát triển các khu du lịch ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, còn quy định cụ thể về vấn đề tổ chức quản lý đối với khu du lịch, điểm
du lịch, tuyến du lịch, trong đó xác định các chủ thể quản lý và nội dung quản lý,
tạo điều kiện để công tác quản lý hoạt động tại các khu, tuyến, điểm du lịch đi vào
nền nếp, góp phần khắc phục tình trạng lộn xộn trong hoạt động kinh doanh dịch vụ,
hàng hóa, không bảo đảm trật tự trị an, vệ sinh môi trường tại một số khu, tuyến,
điểm du lịch hiện nay.
Về đô thị du lịch: quy định về điều kiện, thủ tục, thẩm quyền công nhận đô
thị du lịch và một số cơ chế nhằm phát triển và quản lý đô thị du lịch. Mục đích
nhằm phát triển thương hiệu du lịch ở một số đô thị có lợi thế phát triển du lịch,
đồng thời tạo ra cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc phát triển và quản lý ở các đô thị
du lịch theo hướng bền vững.
-

Quy định về khách du lịch

Ngoài các quy định về quyền và nghĩa vụ của khách du lịch, để đảm bảo an
toàn cho khách du lịch cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết để phòng ngừa rủi ro, bảo đảm
an toàn cho khách du lịch. Trong trường hợp khẩn cấp, cơ quan nhà nước có thẩm

18



×