Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự hiện nay ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.24 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN VŨ TOÀN

NGƢỜI ĐẠI DIỆN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN VŨ TOÀN

NGƢỜI ĐẠI DIỆN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình

HÀ NỘI - 2013


2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo
độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn ch-a từng đ-ợc
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Vũ Toàn

3


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

DIỆN TRONG TỐ TỤNG DÂ


1.1.

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của n
luật tố tụng dân sự
Khái niệm người đại diện trong pháp
Đặc điểm của người đại diện trong p
Vai trò của người đại diện trong pháp
Sự khác nhau giữa người đại diện và
ích hợp pháp của đương sự
Phân loại người đại diện trong pháp l
Sơ lược các quy định của pháp luật v
pháp luật tố tụng dân sự từ năm 1945
Giai đoạn năm 1945 đến năm 1989
Giai đoạn năm 1989 đến nay
Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH

1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.1.4.
1.2.
1.3.
1.3.1.
1.3.2.

HÀNH VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆ

2.1.


Căn cứ phát sinh đại diện và những t
làm người đại diện trong pháp luật tố
Căn cứ phát sinh đại diện trong tố tụn
Những trường hợp không được làm n
luật tố tụng dân sự
Quyền và nghĩa vụ của người đại diệ
dân sự
Quyền và nghĩa vụ của người đại diệ
tụng dân sự

2.1.1.
2.1.2.
2.2.
2.2.1.

4


2.2.2.

Quyền và nghĩa vụ của người đại d
trong tố tụng dân sự
Quyền và nghĩa vụ của người đại d
tụng dân sự
Chấm dứt và hậu quả pháp lý của v
đương sự trong tố tụng dân sự
Căn cứ chấm dứt đại diện của đươ
Hậu quả của việc chấm dứt đại diệ
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN


2.2.3.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.

LUẬT VỀ NGƢỜI ĐẠI D

TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ M

3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.1.4.
3.1.5.
3.1.6.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5

Thực tiễn thực hiện các quy định c
diện trong pháp luật tố tụng dân sự
Đánh giá chung việc thực hiện các
người đại diện trong tố tụng dân sự
Thực tiễn thực hiện các quy định c
địa vị pháp lý của người đại diện tr

Thực tiễn thực hiện các quy định c
người đại diện trong tố tụng dân sự
Thực tiễn thực hiện các quy định c
nghĩa vụ người đại diện trong pháp
Thực tiễn thực hiện quy định của p
làm người đại diện trong pháp luật
Thực tiễn thực hiện các quy định c
đại diện của đương sự trong tố tụn
Những nguyên nhân hạn chế và m
cao vai trò của người đại diện tron
Những nguyên nhân hạn chế trong
định của pháp luật về người đại diệ
Một số kiến nghị nhằm nâng cao v
của đương sự trong tố tụng dân sự
87
89


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

PLTTGQCVADS


: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự

6


MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài

Người đại diện là một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam. Và với xu thế phát triển của xã hội văn minh, đại diện luôn là
một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống xã hội cũng như trong môi trường
pháp lý.
Trong những năm vừa qua, từ hoạt động của mình, người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự đã và đang khẳng định được vị thế, vai trò của
mình trong tố tụng, ngày càng chứng tỏ là một trong những thành phần khó có
thể thiếu trong tố tụng dân sự.
Kế thừa có chọn lọc các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế năm 1994, Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995... chế định người
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định và ngày một hoàn
thiện hơn trong BLDS năm 2004. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những quy định
được pháp luật ghi nhận một cách chung nhất, khái quát nhất về địa vị pháp lý
cùng những vấn đề có liên quan đến người đại diện của đương sự trong tố
tụng dân sự mà lại thiếu những văn bản giải thích, hướng dẫn thi hành. Trong
thực tiễn tố tụng đã phát sinh rất nhiều bất cập liên quan đến Người đại diện:
xác định sai địa vị pháp lý của người đại diện, thực hiện đại diện qua nhiều

cấp hoặc lúng túng trong việc một số trường hợp cụ thể… dẫn đến ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình tố tụng, đến quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia
tố tụng dân sự. Đây có phải là do các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
chưa đầy đủ hay là do ý thức, sự hiểu biết về pháp luật của các chủ thể tham
gia tố tụng, các cơ quan, người tiến hành tố tụng?!
Năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,

7


định hướng đến năm 2020 và nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Hai nghị quyết này đã xác định nhiều định hướng
quan trọng, toàn diện đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật và chương
trình cải cách tư pháp. Cụ thể là Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004
đã được Quốc hội sửa đổi một số điều vào năm 2011. Trong năm 2012, Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành một số nghị quyết:
nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP, nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP, nghị
quyết số 06/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTDS đã được sửa đổi bổ sung, trong đó có nhiều quy định có liên quan
đến người đại diện.
Xuất phát từ thực trạng trên cho thấy việc tìm hiểu, nghiên cứu để
hoàn thiện các quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự
đã trở thành một nhu cầu cấp bách và liên tục nhằm đáp ứng hữu ích cho các
yêu cầu của thực tiễn khách quan... Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài "Người đại
diện trong pháp luật tố tụng dân sự hiện nay ở Việt Nam" làm luận văn thạc
sĩ luật học.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài


Trong lĩnh vực tố tụng dân sự đã có nhiều tác giả, nhiều công trình
nghiên cứu về người tham gia tố tụng dân sự. Tuy nhiên không có nhiều công
trình nghiên cứu về người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự như luận án
tiến sĩ luật học: "Bảo đảm bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự" của
Nguyễn Công Bình, một số bài viết: "Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi
của đương sự trong vụ án dân sự", của Nguyễn Công Bình, đăng trên Tạp chí
Luật học số 6/1998; "Đại diện theo ủy quyền, từ pháp luật nội dung đến tố tụng
dân sự", của Nguyễn Minh Hằng, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
5/2005; "Quyền người đại diện của đương sự được quy định tại Điều 243 Bộ
luật tố tụng dân sự", của TS. Nguyễn Văn Dũng, đăng trên Tạp chí Nghề luật, số
04/2006; "Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương sự

8


trong tố tụng dân sự", của tác giả Hoàng Thu Yến, đăng trên Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 5/2006; "Bố mẹ có quyền đại diện cho người con bị tâm
thần khởi kiện xin li hôn hay không", của Tưởng Duy Lượng, đăng trên Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 6/2006; "Người mù không có người đại diện có quyền
khởi kiện dân sự", của Từ Văn Thiết, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số
18/2006; "Một số suy nghĩ về đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự",
của Tưởng Duy Lượng, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp luật, số 01(38),
2007; "Chế định đại diện theo qui định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc
độ Luật so sánh", của Ngô Huy Cương, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 4/2009...
Những công trình nghiên cứu này cũng chỉ đề cập một cách khái quát,
chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện đối với chế định
người đại diện pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam.
3.


Mục đích nghiên cứu của đề tài

Nghiên cứu đề tài "Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự hiện
nay ở Việt Nam" nhằm những mục tiêu chủ yếu sau đây:
-

Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận của người đại diện trong tố

tụng dân sự như khái niệm, đặc điểm, lịch sử hình thành; vai trò, giá trị pháp
lý và thực tiễn trong đời sống pháp lý cũng như nền kinh tế thị trường.
-

Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành, thực

tiễn hoạt động của người đại diện trong tố tụng dân sự. Trên cơ sở, đánh giá
những ưu điểm cũng như chỉ ra những mặt hạn chế của của pháp luật Việt
Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
người đại diện trong tố tụng dân sự.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Dựa trên cơ sở mục đích nghiên cứu của đề tài, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu được xác định như sau:

9


-


Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về người đại diện trong tố

tụng dân sự như khái niệm, đặc điểm, vai trò... của người đại diện trong tố
tụng dân sự.
-

Nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về

người đại diện trong tố tụng như quy định của BLDS năm 2004, các quy định
của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi năm 2011) và các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan về những vấn đề liên quan đến người đại diện, những trường
hợp không được làm người đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện,
hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện...
-

Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện các quy định của pháp luật hiện

hành về người đại diện trong tố tụng dân sự tại các Tòa án trong những năm qua.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nhà nước pháp
quyền; cơ sở lý luận khoa học của các ngành luật có liên quan: khoa học luật
dân sự, khoa học luật hình sự.
Đồng thời việc nghiên cứu luận văn cũng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích thư

viện, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, đánh giá và tổng kết kinh
nghiệm.
6.

Những kết quả đạt đƣợc của luận văn

Luận văn về đề tài "Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự
hiện nay ở Việt Nam" cho ta cái nhìn đẩy đủ hơn về khái niệm, đặc điểm, vai
trò người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, qua đó phản ánh đẩy đủ
bản chất của quan hệ "đại diện" trong pháp luật tố tụng dân sự.
Luận văn phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành
cũng như thực tiễn phát sinh. Qua đó, đề xuất một số giải giải pháp nhằm

10


hoàn thiện những quy định của pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân
sự. Những đóng góp của luận văn có giá trị không chỉ giúp cho hoạt động
thực thi pháp luật mà còn trong nghiên cứu khoa học; những kiến nghị, đề
xuất của luận văn là cơ sở để ban hành những văn bản pháp luật có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về người đại diện trong tố
tụng dân sự.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về người
đại diện trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về người
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự và một số kiến nghị.


11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm ngƣời đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự
Thuật ngữ "Tố tụng dân sự" được hiểu là trình tự, thủ tục hoạt động do
pháp luật quy định cho việc xem xét, giải quyết và thi hành các vụ việc dân
sự. Trong tố tụng dân sự, các chủ thể tham gia tố tụng bao gồm đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người đại diện của
đương sự, người làm chứng, người phiên dịch, người giám định... Trong đó,
người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự là một chủ thể cơ bản, đóng một
vai trò hết sức quan trọng trong tố tụng dân sự.
Tố tụng dân sự là trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, các vụ
án dân sự tại Tòa án; trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Hoạt động tố tụng dân sự được thực hiện bởi hai loại chủ thể khác
nhau, đó là người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Nếu thiếu một
trong hai loại chủ thể nêu trên thì sẽ không hình thành quan hệ tố tụng.
Pháp luật tố tụng dân sự chia người tham gia tố tụng thành hai nhóm:
-

Nhóm thứ nhất là đương sự, là nhóm không thể thiếu trong hoạt

động tố tụng, có quyền lợi, nghĩa vụ gắn liền với việc giải quyết vụ án;
-


Nhóm thứ hai là những người tham gia tố tụng khác, bao gồm những

người có liên quan đến hoạt động tố tụng và họ không phải là những người có
quyền lợi, nghĩa vụ gắn với việc giải quyết vụ án.
Để tìm hiểu rõ khái niệm người đại diện trong tố tụng dân sự thì trước
hết phải bắt đầu hiểu đại diện là gì? Người được đại diện là ai?

12


"Đương sự" là một khái niệm cơ bản khi tiếp cận dưới nhiều góc độ.
Đã có nhiều khái niệm về đương sự được đưa ra nhưng theo Từ điển Tiếng
Việt thì "đương sự là người, là đối tượng trực tiếp của một việc đang giải
quyết" [24, tr. 346], còn theo Từ điển Từ và ngữ Hán Việt thì đương sự là
người có liên quan trực tiếp đến một việc. Trong khoa học pháp lý thì đương
sự được hiểu "là người có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong một việc
khiếu nại hoặc một vụ án " [7, tr. 165].
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, đương sự được hiểu là người tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách và được liệt kê
cụ thể tại khoản 1 Điều 56 BLTTDS. Theo quy định này, "đương sự trong vụ
án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan" [25].
Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, các chủ thể thường tự mình
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ. Tuy vậy, trong một số trường hợp,
người khác có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ và từ đó đã
hình thành quan hệ đại diện. Những người thực hiện quyền, nghĩa vụ của các
chủ thể trong các quan hệ pháp luật được gọi là người đại diện. Theo quy định
tại Điều 139 BLDS năm 2005, "đại diện là việc một người (sau đây gọi là

người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người
được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện"
[26]. Như vậy, đại diện được hiểu là một quan hệ pháp luật, một mối liên hệ
pháp lý. Đó là mối liên hệ giữa người đại diện với người được đại diện. Chủ
thể của quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện.
Trong tố tụng dân sự, người nhân danh người khác - người được đại
diện - tham gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ
được gọi là người đại diện. Người đại diện trong tố tụng dân sự có thể là cá
nhân hoặc cũng có thể là pháp nhân nhưng phải là người có năng lực hành vi

13


tố tụng dân sự. Người đại diện thực hiện hành vi nhân văn được người đại
diện nên cần phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó. Giới hạn này
được gọi là phạm vi thẩm quyền đại diện. Phạm vi thẩm quyền đại diện là giới
hạn quyền, nghĩa vụ theo đó người đại diện nhân danh người được đại diện
tham gia tố tụng dân sự. Theo quy định này, người đại diện luôn nhân danh
(người khác) và vì lợi ích của người khác tham gia tố tụng dân sự trong phạm
vi đại diện.
Người được đại diện trong tố tụng dân sự là đương sự, có thể là
nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan. Họ là
người ủy quyền, tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ đại diện trong phạm
vi thẩm quyền đại diện. Đương sự được đại diện có thể là cá nhân không có
năng lực hành vi tố tụng dân sự chưa đủ hoặc bị hạn chế năng lực hành vi tố
tụng dân sự nên theo quy định của pháp luật phải có người đại diện. Cá nhân
có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có thể ủy quyền cho người khác là
đại diện theo ủy quyền của mình. Các chủ thể khác là pháp nhân, hộ gia đình,
tổ hợp tác đều hoạt động thông qua hành vi của những người nhất định có
thẩm quyền đại diện cho chủ thể đó.

Mặt khác, người đại diện theo pháp luật được quy định trong Bộ luật
dân sự cũng là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường
hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật. Cá nhân, cơ quan,
tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng
được coi là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người được bảo
vệ (khoản 2 Điều 73 BLTTDS).
Quan hệ đại diện có thể xác lập theo quy định của pháp luật quyết
định của cơ quan có thẩm quyền hoặc cũng có thể xác định dựa theo ý chí của
các chủ thể tham gia nên Điều 73 BLTTDS đã chia người được đại diện thành
người đại diện theo pháp luật (cha, mẹ đối với con chưa thành niên, người
giám hộ đối với người được giám hộ...) và người đại diện theo ủy quyền.

14


Từ những vấn đề trên có thể đưa ra kết luận: Người đại diện trong
pháp luật tố tụng dân sự là người do pháp luật quy định hay được đương sự ủy
quyền mà tham gia tố tụng dân sự thay mặt đương sự thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự mà mình
đại diện trước tòa án.
1.1.2. Đặc điểm của ngƣời đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự
Đầu tiên, người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự được hình
thành trên cơ sở quan hệ "đại diện". Đại diện trong tố tụng dân sự được hiểu
là một quan hệ pháp luật, một mối liên hệ pháp lý trong tố tụng dân sự. Quan
hệ đại diện đó có thể được xác lập theo quy định của pháp luật, theo quyết
định của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo sự ủy quyền. Đó là mối liên hệ
giữa người đại diện với đương sự được đại diện. Người đại diện là người nhân
danh người được đại diện tham gia vào quan hệ tố tụng dân sự vì quyền và lợi
ích hợp pháp của người được đại diện. Đương sự được đại diện có thể là
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan ủy quyền cho

người đại diện tham gia vào các quan hệ tố tụng dân sự, tiếp nhận các hậu quả
pháp lý từ quan hệ đại diện trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Người đại
diện là người có trách nhiệm phải thực hiện những công việc nhất định trong
phạm vi đại diện của mình.
Về chủ thể, thông thường người đại diện của đương sự phải là các cá
nhân. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng dân sự quy định có trường hợp ngoại lệ
như cơ quan tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác cũng là người đại diện của đương sự. Đó là: cơ quan dân số, gia đình, trẻ
em, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình trong trường hợp do
Luật Hôn nhân và gia đình quy định; Công đoàn cấp trên của Công đoàn cơ
sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp càn bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do Luật lao động quy định; cơ

15


quan tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có quyền khởi kiện
vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách. Trong trường hợp này, pháp luật
có qui định trường hợp pháp nhân có quyền khởi kiện nhưng thực tế khi tiến
hành khởi kiện thì người đại diện của pháp nhân ấy phải thay mặt pháp nhân
ký đơn khởi kiện. Như vậy, pháp nhân thì có quyền nhưng thực hiện quyền đó
thì vẫn phải do người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Về mục đích, việc đại diện của người đại diện trong pháp luật tố tụng
dân sự được thực hiện thông qua hành vi nhân danh "thay mặt" đương sự thực
hiện những quyền, nghĩa vụ mà đáng lẽ đương sự mình thực hiện. Hoạt động đó
của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự bao giờ cũng có mục đích:
Một mặt, việc tham gia tố tụng của họ góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự, nhất là trong trường hợp đương sự là người không có, bị hạn chế

hoặc mất năng lực hành vi tố tụng dân sự. Mặt khác, việc tham gia tố tụng của họ
còn có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật của vụ việc dân sự.

Về năng lực hành vi tố tụng dân sự, để thực hiện việc đại diện, người
đại diện của đương sự phải là người có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Năng
lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác
lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng
dân sự có mối quan hệ mật thiết với năng lực hành vi dân sự. Một chủ thể
được xác định là có năng lực hành vi tố tụng dân sự nếu chủ thể đó có năng
lực hành vi dân sự. Những người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì
không thể thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án được. Theo quy định của pháp luật
hiện hành, người có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ là người từ 18
tuổi trở lên. Vì vậy, chỉ có những người này mới có thể trở thành người đại
diện cho đương sự trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
đặc biệt mà pháp luật quy định, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể
là người đại diện theo ủy quyền (khoản 3 Điều 142 BLDS).

16


Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự còn được qui định
trong BLDS, đó là: Quyền dân sự của các cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy
định trong Bộ luật dân sự được pháp luật bảo hộ. Khi các quyền này bị vi
phạm thì những người được hưởng quyền có thể yêu cầu Nhà nước bảo vê.
Đây chính là năng lực pháp luật tố tụng dân sự.
Khoản 1 Điều 57 BLDS năm 2005 định nghĩa: Năng lực pháp luật tố
tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp
luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng
dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình.
Cá nhân có năng lực dân sự từ khi sinh ra, pháp nhân có năng lực từ khi
được thành lập hoặc đăng ký hoạt động. Tuy nhiên, không phải cứ có năng lực
pháp luật dân sự là cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa
vụ dân sự của mình ngay được mà phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định về độ
tuổi, trí tuệ (đối với cá nhân); người đại diện (đối với pháp nhân)...

Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của người đại diện luôn gắn liền với
quyền và nghĩa vụ của người được đại diện, phụ thuộc vào người được đại
diện. Bởi lẽ người đại diện là người "thay mặt" cho đương sự thực hiện những
quyền và nghĩa vụ mà đáng lẽ đương sự phải thực hiện. Chính vì là "thay
mặt" nên người đại diện chỉ có thể thực hiện được những quyền, nghĩa vụ của
đương sự. Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự không tự nhiên có
các quyền, nghĩa vụ khác ngoài quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Đối
với người đại diện theo ủy quyền, họ chỉ được thực hiện các quyền, nghĩa vụ
trong phạm vi ủy quyền.
1.1.3. Vai trò của ngƣời đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự
Theo cách giải thích trong Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà
Nẵng năm 2003 thì khái niệm "vai trò "được hiểu là "tác dụng, chức năng của
một vật, một cá thể, một sự kiện... một cái gì đó" [24, tr. 1095]. Như vậy, nói

17


đến vai trò của người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự là nói đến những
tác động, ảnh hưởng của người đại diện đối với từng cá nhân, tổ chức trong tố
tụng dân sự thông qua hoạt động đại diện của mình..., là nói đến những tác
động, ảnh hưởng của người đại diện đối với quá trình xây dựng và phát triển
tạo lập công bằng xã hội. Vai trò của người đại diện trong pháp luật tố tụng
dân sự thể hiện ở những điểm sau đây:

Một là, việc tham gia tố tụng của họ có tác dụng đối với việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là trong trường hợp họ là người
không có, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Hai là, việc tham gia tố tụng của họ còn có tác dụng nhất định trong
việc là rõ sự thật của vụ việc dân sự.
Bên cạnh đó, hoạt động của họ còn thúc đẩy sự dân chủ, tiến bộ của xã
hội... góp phần hoàn thiện và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Việc xác định đúng đắn vai trò của người đại diện trong pháp luật tố
tụng dân sự là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Các hoạt động
của người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự có tác động không chỉ đến
hoạt động của những người tham gia tố tụng mà đến cả hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng.
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng thì việc đánh giá đúng vai trò của
người đại diện của đương sự sẽ tạo ra sự phối hợp cần thiết giữa Tòa án và
người đại diện trong việc đi tìm ra sự thật, qua đó đảm bảo những quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự mà mình đại diện.
Đối với đương sự, việc xác định đúng vai trò của người đại diện sẽ
giúp cho họ biết được cách thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Qua người đại diện, không những họ bảo vệ được quyền, lợi ích của mình mà
còn nâng cao được lợi ích pháp luật, tôn trọng và tuân thủ pháp luật.
Ngoài ra, chính bản thân người đại diện cũng cần được xác định đúng
vai trò của mình trong tố tụng dân sự. Nếu xác định đúng vị trí, vai trò của

18


mình họ sẽ tự tin hơn, chủ động hơn trong việc thay mặt đương sự thực hiện
những quyền, nghĩa vụ nhất định. Họ sẽ biết mình phải làm gì và làm như thế
nào để thực hiện tốt đúng chức trách của họ - những người bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho đương sự.

1.1.4. Sự khác nhau giữa ngƣời đại diện và ngƣời bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
Trong tố tụng dân sự, ngoài người đại diện của đương sự còn có người
khác được đương sự nhờ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình. Người này được gọi là người bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của đương sự, "người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người
có đủ các điều kiện do pháp luật quy định và được đương sự yêu cầu tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ" [24, tr. 120].
Sở dĩ có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là bởi
vì trong nhiều trường hợp đương sự (hoặc người đại diện của đương sự)
thường không đủ kiến thức, hiểu biết cũng như trình độ chuyên môn về luật
pháp để tự bảo vệ quyền và lợi ích cho mình (hoặc cho người mà họ đại diện)
và họ phải nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích cho mình. Tuy nhiên, trong
hoạt động tố tụng, người đại diện đôi khi không đồng nhất là người bảo vệ
quyền lợi cho đương sự.
Xét về tổng thể thì quy định của pháp luật về người đại diện và người
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tương đối giống nhau như cùng
mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, có một số quyền và
nghĩa vụ tương tự... nhưng bên cạnh đó còn một số điểm khác biệt nhất định.

Thứ nhất, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham
gia tố tụng dân sự độc lập với đương sự.
Tuy cùng tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
đương sự nhưng việc tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

19


pháp của đương sự khác với người đại diện của đương sự. Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng song song cùng

đương sự. Khi tham gia tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có vị trí pháp lý tương đối độc lập với đương sự, không bị ràng
buộc bởi việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự như
người đại diện. Việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự chủ yếu
bằng việc hỗ trợ, giúp đỡ đương sự về nhận thức pháp luật và bằng việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, về chủ thể, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự phải là người có đủ điều kiện do pháp luật quy định.
Theo quy định của BLTTDS thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự cũng không nhất thiết phải là Luật sư. Tuy vậy, khác với
trường hợp người đại diện, pháp luật qu định chặt chẽ điều kiện làm người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà không phải là Luật sư. Họ
phải là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đẩy đủ (18 tuổi trở
lên), chưa bị kết án nhưng đã được xóa án tích, không đang bị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, quản chế
hành chính và không phải là cán bộ, công chức trong các ngành Tòa án, Kiểm
sát, Công an.
Ngoài ra, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cần
"được Tòa án chấp nhận" (Điều 63 BLTTDS). Nếu Tòa án chấp nhận thì sẽ
cấp "Giấy chứng nhận bảo vệ quyền đương sự". Thực chất đây là một loại
"giấy phép" nhằm mục đích kiểm tra và giám sát hoạt động của người bảo vệ
quyền và lợi ích của đương sự trong tố tụng dân sự.
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự do pháp luật quy định.
Theo quy định của BLTTDS thì người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
chỉ được thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được quy định tại Điều 64

20



BLTTDS. Các quyền này của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự về
góc độ tổng thể thì phần nào đó hẹp hơn (hay nói cách khác là hạn chế hơn)
các quyền của đương sự cũng như người đại diện của đương sự.
Tuy vậy, khác với người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự không thay mặt đương sự tham gia tố tụng
mà đến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên họ có quyền
hạn rất lớn trong việc thực hiện, tham gia tố tụng, không bị hạn chế trong việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự. Trong khi đó, người đại diện
lại là người thay mặt cho đương sự tham gia tố tụng, các quyền và nghĩa vụ
cơ bản của người đại diện phụ thuộc vào các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
người đại diện. Đặc biệt, nếu là người đại diện do đương sự ủy quyền thì họ
chỉ được thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong phạm vi ủy quyền.
Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự không bị lệ thuộc hẳn
vào đương sự như người đại diện của đương sự, trong một số trường hợp họ
có nhiều quyền hạn hơn người đại diện và đương sự trong tố tụng dân sự như
quyền nghiên cứu hồ sơ, quyền xác minh các tình tiết của vụ án... và họ lại là
người có kinh nghiệm tham gia tố tụng trong phiên tòa, khi tranh luận, họ
thường là chủ thể chính của việc tranh luận.
1.2. PHÂN LOẠI NGƢỜI ĐẠI DIỆN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ

Xuất phát từ tính đa dạng của các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nên
người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự cũng rất đa dạng. có nhiều cách
để phân loại người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự.
Dựa vào ý chí của người được đại diện mà pháp luật phân người đại
diện ra thành người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
Việc xác lập người đại diện theo ủy quyền phụ thuộc ý chí của người được đại
diện và người đại diện.

21



+

Theo quy định tại Điều 140 thì người đại diện theo pháp luật là

người đại diện được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc quyết định của
cơ quan có thẩm quyền (theo quyết định của Tòa án...), tòa án không ra quyết
định chấp nhận người đại diện mà người đại diện được tòa án chấp nhận bằng
hình thức đồng ý cho làm việc đại diện thay người khác khi thực hiện quyển
và nghĩa vụ tố tụng dân sự tại tòa án.
Người đại diện theo pháp luật là người đại diện mặc nhiệm, ổn định,
được pháp luật thừa nhận và được qui định trong pháp luật với những quyền
và nghĩa vụ cụ thể khi tham gia tố tụng. Người đại diện theo pháp luật có thể
có hai trường hợp:
Thứ nhất: Đại diện theo pháp luật cho pháp nhân khi pháp nhân thực
hiện quá trình tố tụng dân sự
Thứ hai: Đại diện theo pháp luật của cá nhân trong trường hợp đương
sự không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, mất năng lực hành vi tố tụng dân
sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi thị trường dân sự, đương sự là các pháp
nhân, tổ chức hoặc hộ gia đình... Trong trường hợp này, pháp luật sẽ quy định
ai là người đại diện cho đương sự, cụ thể pháp luật quy định cha mẹ đại diện
đối với con chưa thành niên, người giám hộ đại diện đối với người được giám
hộ, người được tòa án chỉ định đại diện đối với người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự, người đứng đầu pháp nhân đại diện cho pháp nhân theo quy
định trong điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
chủ hộ gia đình đại diện đối với gia đình, tổ trường tổ hợp tác đại diện đối với
tổ hợp tác... đó là lý do người đại diện này được gọi là đại diện "theo pháp
luật".
Trong trường hợp không quy định hoặc có quy định người đại diện

nhưng người đại diện theo pháp luật lại rơi vào trường hợp bị cấm đại diện thì
Tòa án có thể chỉ định một người đại diện theo pháp luật cho đương sự, khi có
một trong các đương sự có yêu cầu hoặc tòa án tự thấy cần thiết phải có người

22


đại diện. Ví dụ: Trong trường hợp ly hôn giữa người chồng và người vợ bị
hạn chế năng lực hành vi tố tụng. Người đại diện do Tòa án chỉ định (Điều 76
BLTTDS) cũng là người đại diện theo pháp luật của đương sự, họ tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho đương sự theo chỉ định của Tòa án.
Việc Tòa án chỉ định người đại diện cho đương sự bảo đảm quyền bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước tòa. Tuy nhiên, trong tố tụng dân
sự các đương sự còn có quyền tự định đoạt nên tòa án chỉ tiến hành chỉ tiến
hành chỉ định người đại diện cho đương sự trong trường hợp đương sự là
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc
người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong những trường hợp được
quy định tại khoản 1 Điều 75 BLTTDS.
+

Người đại diện theo ủy quyền cũng là người thay mặt cho đương sự

thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng thông qua một văn bản ủy
quyền thể hiện ý chí của người đại diện và người được đại diện. Phạm vi đại
diện được ghi nhận một cách cụ thể trong văn bản ủy quyền đó, có thể đại
diện một phần hay toàn bộ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ việc dân
sự trong vụ án ly hôn, đương sự không thể ủy quyền cho người khác tham gia
thay mình. Khác với hai loại đại diện trên, đương sự được đại diện là người có
năng lực hành vi tố tụng nên người đại diện chỉ được tham gia tố tụng khi
được đương sự ủy quyền thay mặt họ trong tố tụng dân sự.

Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức
chủ hộ gia đình không trực tiếp tham gia tố tụng mà ủy quyền cho luật sư
hoặc người khác tham gia thì người được ủy quyền cũng chính là người đại
diện theo ủy quyền.
Trong tố tụng dân sự, vị trí người đại diện có thể được phân loại dựa
theo hai tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất: Dựa theo vị trí của người được đại diện, có thể phân người
đại diện thành người đại diện cho nguyên đơn, người đại diện cho bị đơn và

23


người đại diện cho người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan trong vụ án dân
sự. Có những trường hợp quyền và nghĩa vụ của người đại diện cũng chính là
quyền và nghĩa vụ của người mà họ đại diện thay, trường hợp đồng nguyên
đơn hoặc đồng bị đơn… nên pháp luật chỉ cho họ được quyền đại diện cho
những quyền và lợi ích không bị mâu thuẫn, đối lập.
+

Người đại diện cho nguyên đơn là người do pháp luật quy định hay

được nguyên đơn ủy quyền mà tham gia tố tụng dân sự, thay mặt cho nguyên
đơn - người khởi kiện trong vụ án dân sự - thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trước Tòa án.
+

Người đại diện cho bị đơn là người do pháp luật quy định hay được

bị đơn ủy quyền mà tham gia tố tụng dân sự, thay mặt cho bị đơn - người bị
nguyên đơn khởi kiện trong vụ án dân sự - thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố

tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trước Tòa án.
+

Người đại diện cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người

do pháp luật quy định hay được người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
vụ án dân sự ủy quyền mà tham gia tố tụng dân sự, thay mặt cho người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - người tuy không khởi kiện, không bị kiện
nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
họ - thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Tòa án.
Thứ hai: Theo tiêu chí dựa vào chủ thể được đại diện mà phân người
đại diện ra thành người đại diện cho cá nhân và người đại diện cho các cơ
quan, tổ chức. Có những trường hợp quyền và nghĩa vụ của người đại diện
cho pháp nhân cũng chính là quyền và nghĩa vụ của chính họ.Đó là trong
trường hợp "cá nhân" đó có nhiều tư cách trong tố tụng dân sự mà các " tư
cách " đó không đối lập nhau.
+

Người đại diện cho cá nhân là người do pháp luật quy định (cha, mẹ

đại diện cho con...) hoặc được cá nhân ủy quyền tham gia tố tụng dân, thay

24


mặt cho cá nhân, một con người riêng biệt, vụ thể - thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân mà mình
đại diện.
+


Người đại diện cho cơ quan, tổ chức là người do pháp luật quy định

(người đứng đầu pháp nhân đại diện cho pháp nhân...) hoặc được cơ quan, tổ
chức ủy quyền tham gia vào tố tụng dân sự, thay mặt cho cơ quan, tổ chức
thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp phá
của cơ quan, tổ chức mà mình đại diện.
1.3. SƠ LƢỢC CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY

Nghiên cứu về người đại diện trong tố tụng dân sự có thể thấy rằng
cùng với sự hoàn thiện của pháp luật dân sự cũng như pháp luật tố tụng dân
sự thì các quyền và nghĩa vụ của đương sự ngày càng được qui định một cách
cụ thể, rõ ràng cùng với đó là sự hoàn thiện về chế định người đại diện trong
pháp luật dân sự nói chung cũng như tố tụng dân sự nói riêng. Từ chỗ không
có khái niệm một cách trực tiếp về người đại diện trong tố tụng dân sự thì với
sự ra đời của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 thì vị trí
pháp lý của người đại diện đã được qui định trong trình tự giải quyết các vụ
án dân sự tại tòa án.
Căn cứ vào sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước và
pháp luật Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay, có thể chia các thời kỳ hình
thành và phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự thành các giai đoạn sau đây.
1.3.1. Giai đoạn năm 1945 đến năm 1989
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời, bộ máy tư pháp được tổ chức lại; Chủ tịch nước Hồ Chí
Minh là người luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

25



×