Tải bản đầy đủ (.docx) (172 trang)

Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học luận án TS luật 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.86 KB, 172 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***

NGUYỄN THỊ THU HÀ

NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội , 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***

NGUYỄN THỊ THU HÀ

NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 62.38.01.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái

Hà Nội , 2012



MỤC LỤC
Mở đầu
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Chƣơng 1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5

Chƣơng 2
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.2.
2.1.3.
2.1.4.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.



2.3.3.
2.3.4.
2.3.5.
2.3.6.
2.3.7.
2.4.
2.4.1.
2.4.2.
2.4.3.
2.4.4.
Chƣơng 3
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.1.4.
3.2.
3.2.1.
3.2.2
3.2.3.
3.2.4
3.3
3.3.1.
3.3.2.
3.4.3.

2



3.4
3.4.1.
3.4.2.
3.5.
3.5.1.
3.5.2.
Chƣơng 4
4.1.
4.1.1.
4.1.2.
4.2.
4.3.
4.3.1.
4.3.2.
4.3.3.
4.3.4.
4.3.5
4.3.6
4.3.7

Kết luận chung của luận án
Danh mục các công trình của tác giả đã đƣợc công bố có liên quan đến luận án
Tài liệu tham khảo

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Bối cảnh quốc tế
1.1.1 Xu thế hội nhập quốc tế
Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến sự phát
triển vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
truyền thông, nó đã đưa nhân loại bước vào thời kỳ quá độ của nền kinh tế tri
thức và nó cũng tạo ra làn sóng toàn cầu hoá mạnh mẽ trên toàn thế giới.
Để có thể thích ứng với toàn cầu hóa, hệ thống giáo dục đại học phải
được định hướng lại về cấu trúc và chức năng đồng thời phải mở rộng quy mô
để đối mặt với thách thức của quá trình toàn cầu hóa. Quá trình tái định hướng
này được gọi là “hội nhập quốc tế” và hội nhập quốc tế giáo dục đại học là
một cách đáp ứng yêu cầu của toàn cầu hóa.
Hội nhập quốc tế về giáo dục đại học đang phát triển theo hai hướng.
Một là hợp tác truyền thống: coi giáo dục đại học là lợi ích công, việc giúp đỡ
nhau để phát triển giáo dục không nhằm mục đích lợi nhuận. Hai là coi giáo
dục đại học là dịch vụ thương mại vì lợi nhuận. Nhìn chung, các nước có xu
hướng coi giáo dục đại học vừa là lợi ích công, vừa là lợi ích tư. Tình hình đó
dẫn đến một thực tế là, hình thành thị trường giáo dục toàn cầu từ năm 1995
khi WTO thông GATS. Theo Phạm Đỗ Nhật Tiến [64] thì: sự hình thành thị
trường giáo dục đã nảy sinh một hoạt động có tính đối trọng đó là việc đẩy
mạnh hợp tác khu vực cũng như hội nhập quốc tế để xây dựng không gian
giáo dục chung, đảm bảo giáo dục, nhất là giáo dục đại học vẫn là một lợi ích
công; giáo dục là công việc của mọi người, mọi nhà; nhà nước vẫn đóng vai
trò chủ đạo nhưng giáo dục được mở cửa cho toàn xã hội trong cung ứng giáo
dục, hoạch định chính sách và giám sát việc thực hiện chính sách giáo dục tạo
ra một không gian dân chủ trong giáo dục.
1.1.2 Các xu thế mới trong quản lý nhà nước về giáo dục
Dưới tác động của tiến trình hội nhập quốc tế, giáo dục thế giới đã có
những biến động quan trọng như đã nêu trên, nguyên do là sự xuất hiện của
4



hai chủ thể mới là thị trường và xã hội dân sự, bên cạnh hai chủ thể truyền
thống là Nhà nước và nhà trường. Điều đó khiến Chính phủ các nước phải
xem xét lại cơ chế quản lý nhà nước về giáo dục đại học, bổ sung hệ thống
pháp luật về giáo dục đại học nhằm thích ứng với những điều kiện mới và yêu
cầu mới của thực tế hoạt động giáo dục đại học.
Quản lý nhà nước về giáo dục đại học trước đây chủ yếu tập trung vào
các quy định về mối quan hệ giữa hai chủ thể chính là nhà nước và nhà
trường, trong đó nhà nước vừa là người cung ứng giáo dục vừa là người chỉ
huy và kiểm soát, nay quản lý nhà nước về giáo dục đại học, căn bản chuyển
sang vai trò giám sát hoạt động giáo dục.
Cũng theo Phạm Đỗ Nhật Tiến thì hiện nay hình thành một số xu thế
mới trong quản lý nhà nước về giáo dục như sau:
a)

Xu thế xây dựng thể chế thị trường giáo dục: lựa chọn mô hình pháp

lý phù hợp nhất để xây dựng các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, về tổ
chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục.
b)

Xu thế xây dựng thể chế không gian giáo dục chung: bao gồm

chương trình giáo dục so sánh được, hệ thống chuyển đổi tín chỉ, các trình độ
đào tạo thống nhất, hệ thống đảm bảo về kiểm định chất lượng, sự công nhận
văn bằng.
c)

Xu thế xây dựng thể chế dân chủ dựa trên hai nguyên tắc: nguyên tắc


bình đẳng trong thụ hưởng giáo dục và nguyên tắc tham dự trong việc hoạch
định chính sách giáo dục và giám sát việc thực hiện chính sách giáo dục.
d)

Đo lường giáo dục và so sánh quốc tế không chỉ tập trung vào đánh

giá người học mà được mở rộng sang đánh giá nhà trường, cộng đồng giáo
dục, hệ thống giáo dục quốc dân, xây dựng các tiêu chí giáo dục.
1.1.3 Quản lý nhà nước về giáo dục đại học ở Việt Nam trước yêu
cầu hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế về giáo dục ảnh hưởng mạnh mẽ đến giáo dục đại học
nước ta. Đó là việc xuất hiện thị trường giáo dục với sự có mặt của nhiều tập
đoàn giáo dục đến từ các châu lục, tập trung chủ yếu vào thị trường du học,
đồng thời đầu tư xây dựng một số cơ sở giáo dục nước ngoài tại Việt Nam.
Việt nam cũng chú trọng tăng cường hợp tác khu vực và hướng tới không

5


gian giáo dục chung như tham gia Thông cáo Brisbane về hợp tác giáo dục
của 52 nước Châu Á-Thái Bình Dương “APEC”, tham gia Hội nghị Bộ
trưởng Giáo dục ASEM, Tuyên bố “Thăng Long – Hà Nội về không gian giáo
dục ASIAN”.
Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, quản lý nhà nước về giáo dục đại học ở
nước ta trước các xu thế hội nhập quốc tế chưa có động thái đổi mới nào đáng
kể. Đối với việc xây dựng thể chế thị trường giáo dục, chúng ta mới chỉ dừng
lại ở một số tuyên bố ban đầu, chưa có bước tiến nào trong việc xây dựng
chiến lược hội nhập quốc tế theo Nghị Quyết 14 về đổi mới cơ bản và toàn
diện giáo dục Đại học giai đoạn 2006-2020, trong việc phát triển dịch vụ giáo
dục và tăng cường yếu tố cạnh tranh trong hệ thống giáo dục như chiến lược

phát triển giáo dục đến năm 2020 đã vạch ra: việc xây dựng không gian dân
chủ trong giáo dục chúng ta đã có chủ trương xây dựng xã hội học tập nhưng
thực tế, hệ thống giáo dục vẫn cứng nhắc, quan liêu, chưa có cơ chế hữu hiệu
để mọi người tham gia hoạch định và giám sát chính sách giáo dục. Về đo
lường giáo dục, công tác kiểm định và đánh giá chất lượng vẫn dừng lại ở
cách thức mô tả chung chung; các chỉ tiêu giáo dục còn rất sơ sài, chủ yếu
mới chỉ tập trung vào quy mô giáo dục.
Tóm lại giữa thực tế giáo dục đang diễn ra với công tác quản lý nhà
nước về giáo dục còn khoảng cách khá xa, cần được nghiên cứu một cách bài
bản để đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm đổi mới quản lý nhà nước trên cơ
sở nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
1.2. Bối cảnh trong nƣớc
1.2.1. Đường lối phát triển giáo dục đại học của Đảng và Nhà nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định “ Trên cơ sở nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ tổ quốc, trong thời gian từ nay đến năm 2020 sẽ ra sức phấn
đấu để nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,

6


quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt nam đã
đề ra mục tiêu “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị- xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương,
đồng thuận; đòi sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ
rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị

thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo điều kiện
vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.
Đảng và nhà nước ta coi giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu: a) Phát triển giáo dục và đào tạo được coi là nền tảng và
động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát
huy nguồn lực của con người; b) Cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về
giáo dục và đào tạo; c) Giáo dục và đào tạo là một trong 3 lĩnh vực then chốt
cần đột phá để làm chuyển động tình hình kinh tế - xã hội, tạo bước chuyển
mạnh về phát triển nguồn nhân lực. Nó liên quan chặt chẽ đến 2 lĩnh vực khác
là đổi mới cơ chế chính sách nhằm giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, mở
rộng thị trường trong và ngoài nước và cải cách hành chính, xây dựng bộ máy
nhà nước trong sạch và vững mạnh 4, tr22.
Sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ) trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã kéo theo yêu
cầu phải chuyển dịch mạnh cơ cấu giáo dục đại học Việt Nam (cơ cấu trình
độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền).
Đề án Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 đã đề
ra mục tiêu “đổi mới cơ chế quản lý giáo dục đại học theo hướng tăng cường
quyền tự chủ, nâng cao trách nhiệm xã hội và thúc đẩy năng lực cạnh tranh
của các trường đại học”. Trong tiến trình đổi mới giáo dục đại học, vai trò của
cơ chế quản lý nổi bật lên vì nó là yếu tố quyết định sự vận hành của cả hệ
thống giáo dục đại học có đi đến mục tiêu đã định hay không. Sự yếu kém của
quản lý sẽ kéo theo sự yếu kém khác của cả hệ thống giáo dục đại học. Chính
vì vậy, Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 - 2010 và dự thảo Chiến
lược phát triển giáo dục giai đoạn 2009 - 2020 đều xác định đổi mới quản lý

7


nhà nước về giáo dục đại học là giải pháp then chốt có tính đột phá, tạo điều

kiện để toàn hệ thống giáo dục đại học phát triển nhanh chóng, phù hợp với
quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thích ứng với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực
trình độ cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quản
lý nhà nước về giáo dục đại học phải được đổi mới và hoàn thiện cả trong tư
duy lẫn trong hoạt động thực tiễn.
Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học đã trở thành mối quan
tâm hàng đầu kể từ năm 1996 với việc ban hành Nghị quyết Trung ương II
khóa VIII và được coi là khâu đột phá trong chiến lược phát triển giáo dục
đến năm 2020 và mới đây, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đặt ra yêu
cầu: “ Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt nam theo hướng, chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi
mới cơ chế quản lý. Đó chính là định hướng mà quản lý nhà nước về giáo dục
đại học phải đổi mới để đảm nhận thành công vai trò dẫn đường sự phát triển
của giáo dục đại học, đáp ứng các thách thức của kinh tế thị trường và hội
nhập quốc.
1.2.2. Hạn chế và yếu kém của quản lý Nhà nước về giáo dục đại học
Chỉ thị số 296/CT - TTg ngày 27/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012 đã chỉ rõ: “Giáo dục
đại học đã bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém: chất lượng đào tạo nhìn chung
còn thấp, chưa theo kịp đòi hỏi phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; cơ chế
quản lý của Nhà nước đối với hệ thống giáo dục đại học và sự quản lý của các
trường đại học, cao đẳng còn nhiều bất hợp lý kéo dài, chưa tạo ra động lực
đủ mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và sự tự chịu trách nhiệm của đội ngũ
giảng viên, các nhà quản lý và sinh viên để đổi mới mạnh mẽ, căn bản giáo
dục đại học...Có nhiều nguyên nhân của tình hình trên, nhưng nguyên nhân
căn bản chính là sự yếu kém trong quản lý Nhà nước về giáo dục đại học và
sự yếu kém trong quản lý của bản thân các trường đại học, cao đẳng” 20, tr
1.


8


Những nhận định trong Chỉ thị này đã chỉ rõ thực trạng và nguyên nhân
những hạn chế, yếu kém của nền giáo dục đại học Việt Nam và coi việc đổi
mới quản lý giáo dục đại học là “khâu đột phá để nâng cao chất lượng và phát
triển toàn diện giáo dục đại học, làm tiền đề triển khai hệ thống các giải pháp
đồng bộ nhằm khắc phục các yếu kém trong ngành, nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục đại học”. Chỉ thị số 296/CT-TTg đã phản ánh ý kiến của
nhiều học giả trong nước cũng như ngoài nước khi bàn về giáo dục đại học
Việt Nam.
-

Báo cáo của một nhóm giáo sư và chuyên gia thuộc Đại học Harvard

về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 2010 - 2020 gửi Thủ tướng
Chính phủ Việt Nam (năm 2008) đã viết:
“...Các trường đại học Việt Nam bị xem là kém nhất so với hầu hết các
nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á chứ chưa cần so sánh với Đông
Á...
Trong giáo dục đại học, các trường cần phải có nhiều quyền tự chủ hơn
để có thể chuyên môn hóa sâu, cạnh tranh trên cơ sở chất lượng và phù hợp
với nhu cầu thị trường. Chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, đề bạt phải chuyển từ
“thâm niên” sang “kết quả”. Nếu không có những biện pháp cấp thiết để cải
cách giáo dục thì chắc chắn là Việt Nam sẽ không thể đạt được các mục tiêu
về công nghiệp hóa và hiện đại hóa 37.
-

Trong báo cáo của giáo sư Thomas Valely và giáo sư Ben Wilkinson


(đã dẫn ở trên) đã nhận xét: “nguyên nhân tạo nên khủng hoảng giáo dục đại
học Việt Nam là sự thất bại sâu rộng trong chính sách quản lý của nhà nước.
Tất cả các trường Việt Nam đều phải chịu sự kiểm soát của một hệ thống quản
lý tập trung cao độ. Nhà nước quyết định cả con số sinh viên được tuyển vào
trường và các ngành học mà trường sẽ mở” 61.
-

Giáo sư Hoàng Tụy, một nhà hoạt động khoa học và giáo dục nổi

tiếng, đã nói: “nguyên nhân sa sút của giáo dục là quản lý yếu kém”, “giáo
dục sa sút không phải vì tiền mà vì quản lý kém”, “nguyên nhân chủ yếu của
mọi nguyên nhân đó là lãnh đạo, quản lý bất cập, bất cập các tâm lẫn tầm và
từ trên xuống dưới” 62.

9


-

Trong bài viết “7 khoảng cách giữa giáo dục Việt Nam và thế giới”,

giáo sư Phạm Phụ đã viết: “ Ở Việt Nam, quyền lực chủ yếu nằm ở cấp chính
phủ, bộ, cấp trường, khoa, bộ môn, giảng viên gần như không có quyền lực gì,
trong khi ở các nước khác thì hoàn toàn ngược lại” 50.
Tóm lại, chất lượng đào tạo của giáo dục đại học Việt Nam thấp do
nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là những bất cập về quản lý
Nhà nước.
1.3. Cơ hội và thách thức
Bối cảnh quốc tế tạo cho kinh tế - xã hội và nền giáo dục đại học nước

ta một cơ hội chưa từng có: nếu biết tranh thủ khai thác công nghệ thông tin
và truyền thông sẽ giúp giáo dục đại học nước ta nhanh chóng tiếp cận với các
nguồn tri thức và thông tin khổng lồ phục vụ học tập và nghiên cứu, hệ thống
giáo dục xuyên biên giới tạo cho công dân nước ta nhiều cơ hội học tập. Giáo
dục đại học thế giới đang thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ là cơ hội tốt để
giáo dục đại học nước ta có điều kiện đi tắt, đón đầu để tiếp cận học tập, vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn đất nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, với việc thực hiện các cam kết quốc tế
(Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khu vực mậu dịch tự do ASEAN
và ra nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO) kinh tế xã hội và giáo dục đại
học nước ta đứng trước những thách thức cực kỳ to lớn: khoảng cách giữa
nước ta với các nước phát triển có thể càng gia tăng, tình trạng thất thoát chất
xám từ nước ta ra các nước phát triển hơn có thể rất trầm trọng, giáo dục đại
học nước ta có thể không đủ sức cạnh tranh với sự xâm nhập và sự thu hút của
giáo dục đại học các nước; quyền lợi người học có thể bị xâm phạm, bản sắc
văn hóa dân tộc và những giá trị truyền thống trong giáo dục đại học có thể bị
phai nhạt…
Trong nước, nếu giáo dục đại học không đáp ứng được nguồn nhân lực
trình độ cao và nhu cầu học tập của nhân dân thì sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và mục tiêu chung dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh sẽ không thể sớm trở thành hiện thực.

10


Từ thực tế đó, trước những cơ hội và thách thức to lớn, một yêu cầu
bức xúc đối với giáo dục đại học nước ta là phải tăng cường đổi mới một cách
cơ bản và toàn diện, trước hết là đổi mới quản lý Nhà nước về giáo dục đại
học “coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng và phát triển toàn diện
giáo dục đại học, làm tiền đề triển khai hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm
khắc phục các yếu kém trong ngành, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo

dục đại học” 20, tr1.
Trước những cơ hội, thách thức của thời đại, một yêu cầu bức thiết đặt
ra là phải nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp nhằm đổi mới quản lý Nhà
nước về giáo dục đại học mà cốt lõi là nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về
giáo dục đại học, làm cơ sở đổi mới cả hệ thống giáo dục đại học trong xu thế
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Những lý do nêu trên đã luận chứng cho việc chọn đề tài luận án tiến sĩ
luật học của chúng tôi với tên gọi “Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nƣớc về
giáo dục đại học”. Luận án này chứng minh cơ sở lý luận và thực tiễn hiệu
lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học và các giải pháp nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước về giáo dục đại học đã được khẳng định trong Chỉ thị số
296/CT-TTg ngày 27/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý
nhà nước về giáo dục đại học.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là hiệu lực quản lý nhà nước về
giáo dục đại học. Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng quản lý nhà
nước về giáo dục đại học, Luận án đề xuất một số tiêu chí đánh giá hiệu lực
quản lý nhà nước về giáo dục đại học và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
Phạm vi nghiên cứu: chỉ tập trung nghiên cứu lý luận về hiệu lực quản
lý nhà nước về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, cụ thể là: xây dựng và
ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học; xây dựng và kiện
toàn bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục đại học; kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật giáo dục đại học và phân cấp quản lý nhà nước theo đối
tượng và theo chức năng nhiệm vụ. Luận án không đi sâu vào lĩnh vực quản

11


lý tác nghiệp của các cơ sở giáo dục đại học. Thời gian nghiên cứu của đề tài

được giới hạn từ những năm đổi mới đến nay, chủ yếu là từ năm 1998 khi
Luật Giáo dục đầu tiên của nước ta được ban hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Về mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu phân tích những vấn đề về lý luận
và thực tiễn quản lý nhà nước về giáo dục đại học, luận án đề xuất các quan
điểm, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục
đại học trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Về nhiệm vụ: Phù hợp với mục đích trên, luận án giải quyết những vấn
đề sau:
Một: Phân tích cơ sở lý luận về hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục
đại học;
Hai: Phân tích đánh giá thực trạng về hiệu lực quản lý nhà nước về
giáo dục đại học;
Ba: Trên cơ sở phân tích những vấn đề về lý luận, thực trạng quản lý
nhà nước về giáo dục đại học và tham khảo có chọn lọc một số mô hình quản
lý giáo dục đại học của một số nước trên thế giới; xác định quan điểm, mục
tiêu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về
giáo dục đại học trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng
và nhà nước về giáo dục đại học, đặc biệt là các quan điểm và đường lối phát
triển giáo dục đại học thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII)
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X, XI kết luận của Hội nghị
Trung ương 6 (Khoá IX). Luật Giáo dục năm 2005 và Luật Giáo dục sửa đổi
bổ sung Luật giáo dục năm 2005 của Việt Nam.
Trong qua trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã vận dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học như: phương pháp hệ thống hoá và khái quát hoá;
phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh; phương pháp mô tả để
nêu lên thực trạng hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học hiện nay, từ


12


đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại
học; ngoài ra còn tham khảo kinh nghiệm của quản lý giáo dục đại học của
một số nước, từ đó giải quyết các vấn đề về lý luận và thực tiễn mà đề tài đặt
ra.
5.
Ý

Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của Luận án

nghĩa khoa học: luận án là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu

tiên đề cập một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề hiệu lực quản lý nhà
nước về giáo dục đại học trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Vì
vậy, về mặt khoa học luận án có những đóng góp mới sau đây:
a) Đề xuất một số tiêu chí đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước về giáo
dục đại học;
b) Đề xuất việc ban hành Nghị định của Chính phủ về việc giao quyền
tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục đại học;
c) Đề xuất việc thành lập Bộ Đại học-Khoa học công nghệ trên cơ sở
sáp nhập những bộ phận liên quan của Bộ Giáo dục và Đào tạo với Bộ Khoa
học và Công nghệ;
d) Đề xuất việc phân cấp quản lý theo đối tượng nhằm phân định rõ cơ
cấu trình độ, trách nhiệm đầu tư và phân bổ ngân sách mang tính cạnh tranh;
phân cấp theo chức năng nhiệm vụ nhằm phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm
và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể sử dụng để tham khảo, nghiên cứu,

học tập, phục vụ công tác quản lý nhà nước về giáo dục đại học đồng thời
những kiến giải, đề xuất và kết luận trong luận án có thể được sử dụng để tiếp
tục hoàn thiện Luật Giáo dục, xây dựng Luật Giáo dục đại học trong xu thế
hội nhập quốc tế.
6.

Kết cấu của Luận án

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương:
-

Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu.

dục

Chương II: Cơ sở lý luận về hiệu lực quản lý nhà nước về giáo

-

Chương III: Thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục đại học.

đại học.

13


Chương IV: Quan điểm, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu lực quản
lý nhà nước về giáo dục đại học.


14


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Nghiên cứu về quản lý nhà nước
Giáo dục và đào tạo có vai trò hết sức quan trọng cho sự phát triển kinh
tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII đã nêu rõ: “Thực sự coi giáo dục - đào tạo cùng
khoa học – công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển
xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển....Giáo dục đào tạo hiện nay phải có một bước chuyển nhanh chóng về chất lượng và
hiệu quả đào tạo đáp ứng yêu cầu của đất nước, thực hiện nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước. Phải nâng cao chất lượng và bảo đảm số lượng giáo viên
cho hệ thống giáo dục, tiêu chuẩn hoá và hiện đại hoá các điều kiện dạy và
học”.
Để thực hiện được mục tiêu giáo dục, quản lý nhà nước về giáo dục có
vai trò đặc biệt quan trọng, vì chỉ có thông qua quản lý nhà nước về giáo dục
mới thực hiện được các chủ trương, chính sách của quốc gia, mới xây dựng được quy hoạch chiến lược phát triển, mới thực hiện được các mục tiêu giáo
dục….Như vậy, quản lý nhà nước về giáo dục có thể coi là khâu then chốt để
thực hiện thắng lợi mọi hoạt động giáo dục. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải
thấy rằng: hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, trình độ, tư duy và nhận thức của đội ngũ cán bộ làm công tác quản
lý giáo dục, về sự tiến bộ của khoa học và công nghệ…Chiến lược phát triển
giáo dục 2001-2010 nhận định rằng: quản lý là một khâu yếu và là nguyên
nhân căn bản của những yếu kém khác trong giáo dục nước ta.
Chính vì vậy, trong thời gian qua ở nước ta đã có nhiều công trình
nghiên cứu về quản lý giáo dục đại học ở dạng sách giáo khoa, tập bài giảng ở
các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức như: giáo trình “quản lý xã

hội” của Trường Đại học kinh tế quốc dân (Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội
2005), đây là công trình nghiên cứu cơ bản có tính giáo khoa về: xã hội, quản
lý xã hội; chủ thể, khách thể, nguyên tắc, hình thức, phương pháp quản lý xã


15


hội của nhà nước; giáo trình “Quản lý nhà nước” của Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia HCM (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2007); giáo
trình “Luật hành chính Việt Nam” của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
(Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2010), giáo trình “Luật Hành chính Việt Nam”
của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội 2005); tài
liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước (chương trình chuyên viên)
Phần III Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực của Học viện Hành chính
(Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2011); giáo trình “Quản lý Hành chính
Nhà nước và quản lý ngành giáo dục -đào tạo” của Viện Nghiên cứu Sư phạm,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2007); giáo
trình “Quản lý nhà nước về giáo dục” của Phan Văn Kha (Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội 2007); giáo trình về hệ thống quản lý nhà nước: giáo trình
dùng cho các trường đại học Nga (Nxb.Iunti - Dana; M.2002 của - Glazunova
H. I); sách tham khảo Quản lý nhà nước và thị chính (Nxb EKMOS, M.
2001); giáo trình về cơ sở lý thuyết quản lý nhà nước (Trung tâm xuất bản
“Mart”, 2000); Quản lý nhà nước là một hệ thống (sách chuyên khảo. Nxb
Gun, 2001); lý thuyết quản lý nhà nước (Nxb Ekonomika, 2002. 638 tr.
Shamkhalov F);
Cuốn sách: Lý thuyết quản lý nhà nước của G.V. Atamantrúc (Nxb.
Ômêga M. 2004) đề cập các vấn đề lý luận về quản lý nhà nước: khái niệm,
bản chất, đặc điểm, chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức, phương pháp, cơ
sở khách quan, các nhân tố chủ quan của quản lý nhà nước; hệ thống quản lý
nhà nước; cây “mục tiêu”; cơ cấu chức năng của quản lý nhà nước; cơ cấu tổ

chức của quản lý nhà nước; sự điều chỉnh của pháp luật trong quản lý nhà
nước; pháp chế trong quản lý nhà nước; thông tin trong quản lý nhà nước và
nhiều vấn đề khác.
Các công trình nói trên đã khái quát những vấn đề cơ bản về quản lý
nhà nước, phân biệt quản lý nhà nước với các loại hình quản lý khác. Tuy
nhiên, các công trình này mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu những vấn đề cơ
bản có tính lý luận về quản lý, quản lý nhà nước và quản lý nhà nước đối với
ngành, lĩnh vực mà chưa có những nghiên cứu chuyên sâu giải quyết những

16


vấn đề cụ thể trong quản lý. Do vậy, các công trình có tính “giáo khoa” này
chỉ có tính tham khảo để nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo.
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về quản lý nhà nước dưới
dạng phương pháp luận và thực tiễn nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập
quốc tế ở nước ta đã được công bố. Trước hết phải kể tới đề tài trọng điểm cấp
nhà nước (KX01.09): “Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Đề tài đã giải quyết một cách khá thấu
đáo về nội dung và đặc điểm của quản lý nhà nước, vai trò của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ thực trạng
quản lý nhà nước, đề tài đã đưa ra một số kiến nghị về phương hướng, các
giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập quốc tế. Công trình này tuy
không đề cập tới quản lý nhà nước về giáo dục đại học nhưng đã cung cấp
một hệ tri thức, quan điểm mang tính định hướng về quản lý nhà nước, mà khi
nghiên cứu quản lý nhà nước về giáo dục đại học cần được tính đến.
Những năm gần đây đã có một số luận án, luận văn nghiên cứu về quản
lý nhà nước bằng pháp luật trên một số lĩnh vực của quản lý nhà nước như:

Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Đào Viết Hiền (năm
2006) với đề tài: “Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, đã đưa ra định nghĩa mới về
hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế, ba đặc trưng cơ bản của hiệu lực quản lý
về kinh tế và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về
kinh tế, trong đó nhấn mạnh 5 chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế, các
giải pháp bảo đảm tính đồng bộ của các khâu lập pháp, hành pháp, tư pháp và
các bước đột phá mới trong sắp xếp, tổ chức lại các bộ.
Luận án tiến sỹ luật học của Lê Văn Trung (năm 2006) với đề tài “Đổi
mới quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam hiện nay”. Luận án đã làm rõ khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với doanh nghiệp, chỉ ra đặc trưng, phân tích các yếu tố khách quan, nhân
tố chủ quan tác động tới quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với doanh
nghiệp.

17


Luận án tiến sĩ luật học của Trịnh Đăng Thanh (Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2004) với đề tài “Tăng cường quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay”;
Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Kim Thái (Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 2005) với đề tài: “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp
luật đối với bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay”;
1.2 Nghiên cứu về giáo dục và quản lý giáo dục đại học
Trong lĩnh vực này có nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố:
Đỗ Văn Chấn: Một số vấn đề phương pháp luận quản lý giáo dục
thành tựu và xu hướng kinh tế học giáo dục, Hà Nội năm 1996;
Đặng Bá Lãm và Phạm Thành Nghị: Chính sách và kế hoạch trong
quản lý Giáo dục - Nxb Giáo dục năm 1999;

Phạm Văn Đồng: Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội năm 1999;
Phạm Minh Hạc: Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1999;
-

Phạm Minh Hạc: Nhân tố mới về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
năm 2002;
Phạm Thành Nghị: Quản lý chất lượng giáo dục đại học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2000;
Đặng Quốc Bảo: Quản lý - Quản lý giáo dục tiếp cận từ những mô
hình, Trường cán bộ quản lý giáo dục - đào tạo Trung ương I, 2000;
Đặng Xuân Hải: Bổ túc kiến thức quản lý hành chính nhà nước và
quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, Hà Nội năm 2002;
-

Phạm Minh Hạc, Trần Kiều, Đặng Bá Lãm, Nghiêm Đình Vỳ: Giáo

dục thế giới đi vào thế kỷ XXI (sách tham khảo), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2002;
Đặng Quốc Bảo, Phạm Quang Sáng: Quản lý nguồn lực tài chính
trong giáo dục ở nhà trường, Hà Nội, 2003;
Đậu Hoàn Đô, Nguyễn Công Giáp, Đào Văn Vy: Phân cấp quản lý
giáo dục ở Việt Nam, thực trạng và xu hướng, Hà Nội, 2003;

18



Đặng Xuân Hải: Một số cơ sở pháp lý của vấn đề quản lý nhà nước và
quản lý giáo dục, Hà Nội, 2004;
Lê Quốc Hùng: Xã hội hoá giáo dục nhìn từ góc độ Pháp luật, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, 2004;
Đặng Bá Lãm: Quản lý nhà nước về giáo dục - lý luận và thực tiễn,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005;
-

GS. TS Phạm Hồng Thái, GS.TS Nguyễn Đăng Dung, TS Nguyễn

Ngọc Trí (Đại học Quốc gia Hà Nội): Phân cấp quản lý nhà nước (sách
chuyên khảo), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2011.
Ngoài ra còn có các bài đăng trên các báo, tạp chí như: Bài viết của
Phạm Thành Nghị “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực giáo
dục - đào tạo”, Tạp chí giáo dục số 11 năm 2004; bài viết của PGS.TS Mạc
Văn Trang “Quản lý nguồn nhân lực trong giáo dục - đào tạo - những vấn đề
cần nghiên cứu trong quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”, Nxb Khoa học giáo dục, Hà Nội năm 2004; Đặng Quốc
Bảo với bài viết “Khái niệm quản lý giáo dục” - Tạp chí phát triển giáo dục số
1 năm 1997; Bài viết của Đặng Xuân Hải “Nhận diện khái niệm quản lý và
lãnh đạo trong quá trình điều khiển một nhà trường”, Tạp chí phát triển giáo
dục số 4 năm 2002. Gần đây nhất (từ năm 2000-2002), tại Trường Cán bộ
quản lý giáo dục và đào tạo Trung ương I, TS. Đặng Xuân Hải cũng triển khai
một đề tài: Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo thông qua một
đề tài cấp bộ là: “Vai trò của nhà nước trong việc nâng cao quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm của các trường đại học”;
Có nhiều bài báo phản ánh hiện trạng nhức nhối của giáo dục đại học
nước ta và kêu gọi một cuộc cải cách có tính cách mạng nền giáo dục đào tạo
nước nhà. Ví dụ: GS Hoàng Tụy “Một số vấn đề khoa học và giáo dục: góc
nhìn trong cuộc”, báo cáo tại hội thảo “Tiếp tục đổi mới để phát triển”, Đà

Nẵng, 7/2005 và “Chỗ nghẽn lớn nhất trong phát triển là giáo dục”, Báo Tuần
Việt Nam, 3/2011; Phạm Phụ “Nhận dạng một số khoảng cách và sự khác biệt
giữa thế giới và Việt Nam về giáo dục đại học trước xu thế toàn cầu hóa”, báo
cáo tại diễn đàn quốc tế về giáo dục Việt Nam “Đổi mới giáo dục đại học và
hội nhập quốc tế”, Hà Nội 6/2004; Võ Nguyên Giáp “Đổi mới có tính cách

19


mạng nền giáo dục và đào tạo nước nhà”, Sài Gòn Giải phòng, 10/9/2007;
Lâm Quang Thiệp “Suy nghĩ về quản lý trường đại học trong nền kinh tế thị
trường”, báo cáo tại lễ kỷ niệm 30 Trường Quản lý giáo dục, 9/2006.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu nói trên về giáo dục, quản lý
nhà nước về giáo dục chủ yếu được nhìn nhận từ góc độ của quản lý nhà nước
về giáo dục và đào tạo, hoặc từ góc độ xã hội học của vấn đề do đó mới chỉ đề
cập một cách chung nhất và khái quát nhất về vấn đề, mà chưa xem xét vấn đề
một cách hệ thống, đặc biệt là ít phân tích về thể chế pháp luật từ góc nhìn của
khoa học luật.
1.3 Về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với giáo dục
Đã có một số công trình nghiên cứu phân tích thực trạng về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực giáo dục theo nhiều góc độ và cấp độ khác nhau, và
đưa ra nhiều đề xuất về việc hoàn thiện pháp luật giáo dục.
Trong Luận văn thạc sỹ luật học năm 2004 với đề tài “Hoàn thiện
pháp luật về giáo dục ở Việt Nam hiện nay”, Lê Thị Kim Dung đã nhận xét:
Hệ thống pháp luật về giáo dục ở nước ta còn nhiều bất cập, cụ thể:
Việc thể chế nhiều Nghị quyết của Đảng về giáo dục còn chậm, lúng túng, lại
thiếu kiểm tra đôn đốc. Nhiều chủ trương được đưa ra nhưng thiếu chính sách
và cơ sở pháp lý gây khó khăn cho tổ chức thực hiện. Hệ thống pháp luật về
giáo dục chưa đồng bộ và thiếu cụ thể. Luật Giáo dục là đạo luật cao nhất quy
định các hoạt động về giáo dục nhưng quy định còn chung chung, mang tính

nguyên tắc, khi luật ban hành thì không thực hiện được ngay mà phải chờ các
văn bản dưới luật. Trong khi đó thì việc ban hành các văn bản dưới luật gặp
nhiều khó khăn, một số quy định không khả thi cần được sửa đổi cho phù hợp
với tình hình mới. Nội dung và hình thức của hệ thống văn bản pháp luật về
giáo dục hiện hành chưa ngang tầm với đòi hỏi thực tiễn, chưa đầy đủ, thiếu
đồng bộ, thậm trí còn chồng chéo, mâu thuẫn.v.v. Đề tài nghiên cứu đã đề
xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hệ thống pháp luật như sau:
Một là, thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng về phát triển sự
nghiệp giáo dục trong thời kỳ mới theo tinh thần “Phát triển giáo dục là quốc
sách hàng đầu”

20


Hai là, bảo đảm pháp luật về giáo dục phù hợp với hệ thống pháp luật
hiện hành.
Ba là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục đáp ứng nhu cầu thực
tế phát triển sự nghiệp giáo dục.
-

Thông qua việc làm rõ tình hình thực hiện pháp luật về giáo dục và

đào tạo ở tỉnh Bình Định, Nguyễn Tuấn Nghĩa trong luận văn thạc sỹ luật học
năm 2010 với đề tài: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình
Định hiện nay, đã khẳng định, củng cố nhận thức về vị trí, vai trò và ý nghĩa
của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo trong việc phát huy tính tích
cực, chủ động trong thực hiện pháp luật, phòng ngừa và giảm thiểu các vi
phạm pháp luật để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Kết quả nghiên
cứu góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật

về giáo dục và đào tạo, từ đó làm phong phú thêm lý luận chung về Nhà nước
và pháp luật.
-

Nguyễn Đức Cường trong đề tài nghiên cứu: Hoàn thiện pháp luật về

quản lý các trường đại học, cao đẳng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại
học ở Việt Nam hiện nay (Luận án Tiến sĩ luật học năm 2009) đã phân tích,
nhận định về quá trình phát triển cũng như những hạn chế đáng lưu ý của
pháp luật về quản lý các trường đại học, cao đẳng từ năm 1998 đến nay và
thông qua kinh nghiệm quốc tế đã đưa ra các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn
thiện nội dung pháp luật về quản lý các trường đại học, cao đẳng, trong đó có
nhiều giải pháp có tính khả thi và thể hiện tinh thần đổi mới pháp luật về quản
lý các trường đại học, cao đẳng. Luận án đề ra 13 tiêu chí trong việc hoàn
thiện pháp luật về quản lý các trường đại học, cao đẳng, cụ thể:
Pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng phải có tính hệ
thống.
Pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng phải thống nhất và
đồng bộ với nhau.
Pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng phải có sự tương tác
về pháp luật về các trường đại học, cao đẳng của các nước trên thế giới.
Pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng phải phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh kinh tế xã hội của Việt Nam.

21


Pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng phải có tính khả thi
trong thực tiễn.
Pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng nhằm bảo đảm về

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học, cao đẳng.
Pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng phải đạt tới các mục
tiêu, góp phần đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học ở Việt Nam.
Pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng sau khi được ban
hành phải được tổ chức thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Các quy định của pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng phải
được kiểm tra, thanh tra và xử lý kịp thời.
Hoàn thiện pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng phải gắn
liền với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền.
Pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng phải nằm trong
chương trình cải cách hành chính ở Việt Nam.
Pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng phải bảo đảm thực
hiện việc tách quản lý nhà nước với các dịch vụ công.
Dựa trên cơ sở phân tích các yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện
pháp luật về quản lý các trường đại học, cao đẳng; đồng thời trên cơ sở các
quan điểm chỉ đạo của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước và điều
kiện xã hội Việt Nam để rút ra các quan điểm chỉ đạo việc hoàn thiện các quy
định về pháp luật quản l ý các trường đại học, cao đẳng và tham khảo một số
quy định của pháp luật về quản lý các trường đại học, cao đẳng của nước
ngoài đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý các trường đại
học, cao đẳng Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ bản và toàn diện giáo
dục đại học Việt Nam và hội nhập quốc tế.
-

Qua nghiên cứu một số khía cạnh pháp lý chủ yếu liên quan đến vấn

đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là hoạt động xây dựng,
thực hiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục đại học từ thời kỳ đổi
mới, Lê Xuân Tùng (Luận văn thạc sĩ luật học năm 2009) đã làm sáng tỏ một
số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước bằng pháp luật

về giáo dục đại học: trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền của dân,
do dân và vì dân ở nước ta hiện nay, việc tăng cường quản lý nhà nước đối

22


×