Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

Quyền giám sát của quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CAO MẠNH LINH

QUYỀN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI VIỆC
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2006


MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Mở đầu.............................................................................................................................................. 1
Chương 1 - một số vấn đề lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.................................................................................. 6

1.1. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm về khiếu nại, tố cáo............................................................................... 6
1.1.2. Vị trí, vai trò của quyền khiếu nại, tố cáo......................................................... 12
1.2. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội..................................................................... 15
1.2.1. Vị trí pháp lý của Quốc hội...................................................................................... 15
1.2.2. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, cơ sở pháp lý hình thành
quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân.................................................................................................................................. 18
1.3. Quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân......................................................................................................................... 24


1.3.1. Khái niệm quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân............................................................................................. 24
1.3.2. Vai trò giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân.................................................................................................................... 26
1.3.3. Nội dung quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân............................................................................................. 28
1.3.4. Hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân...................................................................... 29
Chương 2 - Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân...................................................................................................... 43

2.1. Quá trình hình thành, phát triển hoạt động giám sát của Quốc hội
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân từ 1945 đến trước
khi ban hành Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998............................................................ 43


2.1.1. Giai on t 1945 n 1960 ...........................................................
2.1.2. Giai on t 1960 n 1980 ...........................................................
2.1.3. Giai on t 1980 n 1992 ...........................................................
2.1.4. Giai on t 1992 n 1998 ...........................................................

2.2. Quyn giỏm sỏt ca Quc hi i vi vic gii quyt khiu ni, t
cỏo ca cụng dõn t khi Quc hi ban hnh Lut khiu ni, t cỏo nm
1998 n nay ...................................................................

2.2.1. V hot ng giỏm sỏt ca Quc hi ti k hp ............................
2.2.2. V hot ng giỏm sỏt ca Quc hi gia hai k hp ...................
2.3. Thc trng hot ng giỏm sỏt ca Quc hi i vi vic gii
quyt khiu ni, t cỏo ca cụng dõn t khi Quc hi ban hnh Lut
khiu


n

..................................................................
2.3.1. Hot ng giỏm sỏt vic gii quyt khiu ni, t cỏo ca cụng
dõn ti cỏc k hp Quc hi ....................................................................

2.3.2. Hot ng giỏm sỏt ca U ban thng v Quc hi i vi vic
gii quyt khiu ni, t cỏo ca cụng dõn ................................................
2.3.3. Hot ng giỏm sỏt ca Hi ng dõn tc, U ban ca Quc hi
i vi vic gii quyt khiu ni, t cỏo ca cụng dõn ............................
2.3.4. Hot ng giỏm sỏt ca on i biu Quc hi v i biu
Quc hi i vi vic gii quyt khiu ni, t cỏo ca cụng
.............
Chng 3 - Mt s gii phỏp nõng cao hiu qu thc hin quyn giỏm sỏt ca
Quc hi
..................................................................

3.1. Yêu cầu khách quan phải tăng c-ờng
hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ......................
3.1.1. Yêu cầu xây dựng Nhà n-ớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân .........................................................

3.1.2. Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật ..........................................
3.1.3. Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công

i


dân và từ thực trạng khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố

cáo của công dân.................................................................................................................... 79
3.2. Một số quan điểm cơ bản về nâng cao hiệu quả thực hiện quyền

giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân....................................................................................................................................... 80
3.3. Giải pháp đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân............................................................ 83
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống

nhất và đồng bộ cho hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân...................................................................... 83
3.3.2. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Quốc hội............................................ 85
3.3.3. Hoàn thiện ph-ơng thức hoạt động của Quốc hội...........................87
3.3.4. Tăng c-ờng các điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện quyền
giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân....................................................................................................................................... 92
3.3.5. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của
Quốc hội bảo đảm quyền lực nhà n-ớc thực sự thuộc về nhân dân
.............................................................................................................................................................. 94

Kết luận......................................................................................................................................... 97
Danh mục tài liệu tham khảo......................................................................................... 99
Phụ lục............................................................................................................................................ 105


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nƣớc Việt Nam là nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân. Trong hệ
thống tổ chức bộ máy nhà nƣớc, Quốc hội đƣợc xác định là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực cao nhất của nƣớc Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc
hội thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định
những chính sách cơ bản của đất nƣớc. Đồng thời Quốc hội là cơ quan có
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc, trong đó có
nội dung giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Quyền giám
sát của Quốc hội và việc thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt
động của bộ máy nhà nƣớc là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện
vai trò của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nƣớc cao nhất, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà
nƣớc nói chung và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nói
riêng.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ
chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, trong thời gian qua,
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Quốc hội đã thƣờng xuyên tiến hành giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
thông qua các phƣơng thức: xem xét các báo cáo của Chánh án Toà án nhân
dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, báo cáo của Chính
phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thành lập đoàn giám sát thực
trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại các Bộ, ngành, địa
phƣơng; giám sát việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể có dấu
hiệu vi phạm pháp luật .v.v.

1


Thông qua các hoạt động này, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã kiến nghị nhiều vấn đề
liên quan đến tổ chức bộ máy, biên chế, hoạt động… nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, làm cơ sở để Quốc hội, Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao kịp thời sửa đổi, bổ sung

những văn bản quy phạm không còn phù hợp với thực tiễn, đề xuất những giải
pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót xảy ra, góp phần bảo vệ lợi ích của
Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Mặc dù đã đạt đƣợc những kết quả nhất định, song công tác giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại
biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội trong thời gian qua vẫn còn có nhiều hạn
chế. Qua công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho thấy, tình hình
khiếu nại, tố cáo vẫn diễn biến phức tạp, số lƣợng đơn, thƣ khiếu nại, tố cáo
ngày càng tăng, nhiều đơn, thƣ gửi vƣợt cấp, gửi đến các cơ quan không có
thẩm quyền giải quyết và gửi đến nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc.
Tuy nhiên, số lƣợng đơn thƣ khiếu nại, tố cáo mà Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội chuyển đến các cơ
quan, ngƣời có thẩm quyền yêu cầu xem xét, giải quyết theo thẩm quyền còn
chiếm một tỷ lệ thấp so với số lƣợng đơn, thƣ đã tiếp nhận. Số lƣợng đơn, thƣ
đƣợc xử lý lại tập trung chủ yếu vào những vụ việc có ý kiến đề nghị của các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc. Việc theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải
quyết cũng chƣa đƣợc chú trọng nên số vụ việc đƣợc các cơ quan nhà nƣớc,
ngƣời có thẩm quyền xem xét, trả lời cũng đạt tỷ lệ thấp. Ví dụ nhƣ : trong năm
2005, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội đã tiếp nhận, nghiên cứu và xử lý 20.250 đơn thư

2


khiếu nại, tố cáo của công dân, đã chuyển 1.331 đơn đến cơ quan có thẩm
quyền giải quyết và chỉ nhận được 433 văn bản trả lời, chiếm 32,5% [3].
Vì vậy, cần thiết phải có sự nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về
quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động này trong thời

gian qua ở nƣớc ta để có những giải pháp hữu hiệu, sát thực, nâng cao hiệu
quả thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tiến tới xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động giám sát của Quốc hội là vấn đề cấp thiết, đƣợc nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên các nghiên cứu thƣờng mới chỉ tập
trung vào các vấn đề chung về quyền giám sát tối cao mà chƣa đi sâu vào
những hoạt động cụ thể để thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Đối với hoạt động tiếp nhận, xử lý và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của Quốc hội tuy cũng đã đƣợc nghiên cứu tại Đề tài "Nghiên cứu thực
trạng và những vấn đề cần đổi mới trong công tác dân nguyện của Quốc
hội" do Vụ Dân nguyện, Văn phòng Quốc hội thực hiện năm 1996 nhƣng Đề
tài này lại chủ yếu đề cập đến việc cải cách các thủ tục hành chính trong việc
xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân mà chƣa đi sâu làm rõ các vấn đề lý luận
về quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân để có những giải pháp thực sự hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả
giám sát của Quốc hội. Cũng có nhiều bài báo, hội thảo, hội nghị đƣợc tổ
chức với sự tham gia của nhiều nhà khoa học đã bàn về hoạt động giám sát
của Quốc hội nhƣng vẫn chƣa chú trọng tới hoạt động giám sát của Quốc hội
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân hoặc nếu có thì chủ yếu
chỉ chú ý tới hoạt động của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân, nhận

3


và xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân. Chính vì vậy, đề tài luận văn "Quyền
giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân" là phƣơng hƣớng nghiên cứu mới đáp ứng nhu cầu lý luận và thực tiễn
bức xúc hiện nay.

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối
với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và thực tiễn thực hiện
quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, đánh
giá thực trạng thực hiện quyền này trong những năm qua, nêu ra những bất
cập, tồn tại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân.
4. Cơ sở khoa học của đề tài
- Cơ sở lý luận : Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về Nhà nƣớc và pháp luật, về quyền giám sát tối cao của Quốc
hội đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc ta.
-

Cơ sở thực tiễn : Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên thực tiễn hoạt động

giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và
đại biểu Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đánh
giá những thành tựu và những hạn chế để đƣa ra những giải pháp hoàn thiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, lịch
sử, thống kê và so sánh đối chiếu để nghiên cứu về những vấn đề lý luận của
hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân, thực tiễn thực hiện trong thời gian qua và từ đó đƣa ra những giải
pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động này.

4



6. Điểm mới của đề tài
-

Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý

luận và thực tiễn về quyền giám sát tối cao của Quốc hội và việc thực hiện
quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân; phân tích và chỉ ra những nhƣợc điểm, vƣớng mắc cần khắc phục;
-

Đề tài nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân trong thời gian tới nhƣ hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ
cấu, tổ chức và phƣơng thức hoạt động của Quốc hội, nâng cao ý thức pháp
luật của nhân dân ...
7. Kết cấu của Luận văn.
Luận văn đƣợc kết cấu gồm ba chƣơng và phần mở đầu, kết luận, mục
lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
Chƣơng 1 - Một số vấn đề lý luận về quyền giám sát của Quốc hội đối
với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
Chƣơng 2 - Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
Chƣơng 3 - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám
sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân

5


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI
VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
1.1 QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN

1.1.1 Khái niệm về khiếu nại, tố cáo
Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của con
ngƣời đƣợc pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo đảm.
Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời ngày 10 tháng 12 năm 1948 trong
Chƣơng 8 đã ghi nhận “Mọi người đều có quyền khiếu nại hữu hiệu đến các
cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền chống những hành động vi phạm
các quyền cơ bản của con người đã được Hiến pháp hoặc luật pháp thừa
nhận” [56, tr.5]. Trong phạm vi quốc gia, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử,
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nƣớc mà nội dung quyền khiếu
nại, tố cáo đƣợc quy định khác nhau. Điều 41 Hiến pháp của nƣớc Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa năm 1993 quy định “..Các công dân có quyền khiếu nại,
tố cáo hoặc kiện bất kỳ cơ quan hoặc công chức nhà nước nào về những vi
phạm pháp luật hoặc vì thiếu tinh thần trách nhiệm trong thi hành công vụ
nhưng nghiêm cấm việc xuyên tạc, bịa đặt với mục đích bôi nhọ, lừa dối hoặc
vu cáo...” [27, tr.980]. Ở nƣớc ta, quyền khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của
công dân và đƣợc Hiến pháp ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 29 Hiến pháp
1959 : "Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của nhà
nước về những việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ và nhân viên nhà
nước. Các khiếu nại, tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng.
Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường”. Từ đó đến nay, quyền khiếu
nại, tố cáo của công dân đã tiếp tục đƣợc khẳng định và hoàn thiện trong các
bản Hiến pháp sau này cũng nhƣ trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác nhƣ

6



Luật khiếu nại, tố cáo, các luật về tổ chức, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố
tụng hình sự .v.v., cụ thể là Điều 74 Hiến pháp 1992 đã quy định : "Công dân
có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố
cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp
luật quy định..."
Để thấy rõ quyền khiếu nại, tố cáo, quyền giám sát của Quốc hội đối
với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thì cần phải phân tích khái
niệm khiếu nại, tố cáo.
1.1.1.1 Khái niệm khiếu nại


nhiều nƣớc, ngƣời ta quan niệm khiếu nại là việc công dân, pháp

nhân hay một nhóm công dân yêu cầu đƣợc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình khi bị xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm phạm bởi hoạt động của cơ
quan nhà nƣớc, nhân viên nhà nƣớc [32].


nƣớc ta, tuy quyền khiếu nại đã đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp cũng

nhƣ đƣợc quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhƣng có
thể nói chƣa có một văn bản nào chính thức ghi nhận khái niệm khiếu nại là
gì. Luật khiếu nại, tố cáo tuy cũng có quy định về khiếu nại nhƣng đó chỉ là
khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đề cập tới khiếu
nại một cách chung nhất chỉ có Thông tƣ số 60/UB.TTR ngày 22 tháng 5 năm
1971 của Uỷ ban Thanh tra Chính phủ về hƣớng dẫn phân loại đơn khiếu nại
và tố cáo, trong đó xác định "Đơn khiếu nại là chỉ những sự việc của đương

sự khiếu vì quyền lợi bị thiệt hại, yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải quyết
(đơn đề đạt nguyện vọng xếp vào loại đơn khiếu nại)" [21, tr.48].
Trong khoa học pháp lý có những quan niệm khác nhau về khái niệm
này, đƣợc các tác giả lý giải từ những giác độ khác nhau. Theo Từ điển Tiếng

7


Việt, khiếu nại thƣờng đƣợc hiểu là "đề nghị cơ quan có thẩm quyền xét một
việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không hợp lý" [52,
tr.483].
Theo cuốn Thuật ngữ pháp lý phổ thông, khiếu nại là việc yêu cầu cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc người có chức vụ giải quyết việc vi phạm
các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại hay của người
khác [41, tr. 202].
Cũng có quan điểm khác cho rằng, khiếu nại theo nghĩa chung nhất là
việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào đó xem
xét, sửa chữa lại một việc làm mà họ cho là không đúng đắn, gây thiệt hại
hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ và đòi bồi thường
thiệt hại do việc làm không đúng gây ra [28].
Tuy nhiên, theo các khái niệm này, các tác giả đã có sự nhầm lẫn giữa
quyền khiếu nại của công dân với quyền kiến nghị, yêu cầu của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Có thể dẫn chứng qua quy định về trách nhiệm của đại biểu
Quốc hội khi phát hiện có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nƣớc, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì kiến nghị
với ngƣời có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt vi
phạm, xem xét trách nhiệm, xử lý đối với ngƣời vi phạm (Điều 87 Luật khiếu
nại, tố cáo). Hoặc, khi giữa các cá nhân, tổ chức xảy ra tranh chấp khi tham
gia một "quan hệ dân sự", dựa trên nguyên tắc tự thoả thuận thì bên cho rằng
mình bị thiệt hại có thể yêu cầu bên kia sửa chữa, khắc phục hoặc bồi thƣờng.

Đồng thời, bên cạnh việc “trông chờ” bên vi phạm có hành động khắc phục
thì bên bị vi phạm có quyền chủ động bảo vệ quyền, lợi ích của mình (khởi
kiện ra Tòa án, phạt hợp đồng...).
Phân tích nội dung các quy định của Hiến pháp, pháp luật về quyền
khiếu nại của công dân có thể thấy một số đặc trƣng của khiếu nại nhƣ sau:

8


Thứ nhất, khiếu nại xuất phát từ nhận thức chủ quan của ngƣời khiếu
nại cho rằng quyền và lợi ích chính đáng của mình bị xâm phạm [22, tr.64].
Nói cách khác, khiếu nại là một hình thức phản ứng của công dân, cơ quan, tổ
chức với những hiện tƣợng vi phạm các quyền và lợi ích của họ đƣợc pháp
luật bảo vệ.
Thứ hai, khiếu nại luôn mang trong mình thông tin về sự vi phạm các
quyền và lợi ích của công dân đƣợc pháp luật quy định hoặc bắt nguồn từ
những nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa và những quy định của cộng
đồng cũng nhƣ sự vi phạm các quyền lợi cá nhân khác của công dân. Việc xác
định loại vi phạm cụ thể hoặc thiệt hại cụ thể bởi những việc làm trái pháp
luật là yếu tố nhất thiết của nội dung khiếu nại [56, tr.37].
Thứ ba, ngƣời khiếu nại không thể tự khôi phục những quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm hại bởi việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà
nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá
nhân nào. Sự khiếu nại của họ trông chờ vào quyết định của cơ quan, ngƣời
có thẩm quyền.
Vì vậy, có thể hiểu khiếu nại là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét lại việc làm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân mà họ cho là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của chính họ.
1.1.1.2 Khái niệm tố cáo

Tố cáo là một quyền cơ bản của công dân đƣợc Hiến pháp, pháp luật
quy định.
Khoản 2 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: “ Tố cáo là việc công
dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá

9


nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.
Thông tƣ số 60/UB.TTR ngày 22 tháng 5 năm 1971 của Uỷ ban Thanh
tra Chính phủ về hƣớng dẫn phân loại đơn khiếu nại và tố cáo quy định :
“Đơn tố cáo là đơn nói những hành vi sai phạm của cán bộ, cơ quan làm sai
chế độ, chính sách, pháp luật gây thiệt hại cho lợi ích tập thể và của Nhà
nước”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tố cáo là "Báo cho mọi người hoặc cơ quan
có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó" hay "Vạch
trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn
chặn" [52, tr.973].


các nƣớc, ngƣời ta quan niệm tố cáo là một hình thức thông tin giúp

cho các cơ quan nhà nước đấu tranh có hiệu quả đối với các hành vi vi phạm
pháp luật và tố cáo vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. Pháp luật các
nƣớc đều có xu hƣớng khuyến khích mọi ngƣời phát hiện và thông báo cho cơ

quan nhà nƣớc về những hành vi vi phạm pháp luật. Ở nhiều nƣớc nhƣ Mỹ,
Hàn Quốc, Malaixia ... ngƣời ta lập ra các hòm thƣ đặc biệt hoặc các đƣờng

dây điện thoại nóng để tiếp nhận các thông tin tố cáo 24/24 giờ [32].
Nhƣ vậy, tố cáo thực chất là việc phát hiện và báo cho cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền về những hành vi trái pháp luật nào đó diễn ra trong đời
sống xã hội. Tố cáo khác với khiếu nại về tính chất, nội dung, mục đích. Tố
cáo, thông thƣờng đó là sự phát hiện những vi phạm nào đó của hoạt động
bình thƣờng diễn ra trong đời sống xã hội mà không liên quan đến quyền và
lợi ích của những con ngƣời cụ thể; đó là sự thông báo về những hành vi lạm
dụng, những việc làm trái pháp luật và những vi phạm khác đối với pháp chế
xã hội chủ nghĩa mà chính những vi phạm đó không xâm phạm đến quyền và
lợi ích của những ngƣời tố cáo hoặc của những ngƣời cụ thể khác [56, tr.39].

10




nƣớc ta, quyền tố cáo là một quyền cơ bản, quan trọng của công dân,

là “phƣơng tiện” để công dân bảo vệ mình, bảo vệ ngƣời khác. Thực hiện
quyền tố cáo tức là công dân tỏ rõ trách nhiệm của mình trong việc giám sát
hoạt động quản lý của Nhà nƣớc, để xây dựng bộ máy nhà nƣớc ngày càng
vững mạnh và trong sạch, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nƣớc ta thật sự là “công bộc của nhân dân”, loại trừ những hành vi quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu quần chúng của một bộ phận cán bộ, công
chức nhà nƣớc [22, tr.101].
Mặt khác, tố cáo không chỉ có ý nghĩa đối với ngƣời dân mà còn có giá trị
to lớn đối với Nhà nƣớc. Nhờ có thông tin từ nhân dân qua việc tố cáo, Nhà
nƣớc sẽ kịp thời nắm bắt đƣợc phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm, trình
độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức để kịp thời làm trong sạch


đội ngũ cán bộ bảo vệ pháp chế, lợi ích của Nhà nƣớc và quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân. Có thể nói, đại đa số những cán bộ, công chức tham
nhũng, cố ý làm trái, thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại cho Nhà nƣớc,
bao che cho tội phạm... bị xử lý kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự phần
lớn do nhân dân phát hiện và tố cáo với các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Tố cáo diễn ra trong thực tế rất đa dạng, phức tạp nhƣng có thể chia
thành một số loại sau:
Tố cáo chứa đựng trong đó yêu cầu đƣợc pháp luật quy định
trƣớc;
-

Tố cáo không liên quan đến việc vi phạm các quyền cụ thể của công

dân, nhƣng chứa đựng những thông báo về những khuyết tật hoặc những vi
phạm trong công tác của từng cơ quan riêng biệt;
bộ

Tố cáo về những việc làm trái pháp luật của một cá nhân trong

máy Nhà nƣớc, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế [49, tr.168].
Từ những phân tích trên, có thể hiểu tố cáo là việc công dân phát hiện
và báo cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật


11


của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại tới lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân.

1.1.2 Vị trí, vai trò của quyền khiếu nại, tố cáo
1.1.2.1 Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của
công dân


nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà

nƣớc thuộc về nhân dân. Nhà nƣớc không còn là bộ máy thống trị của giai
cấp bóc lột, mà là Nhà nƣớc của nhân dân, tổ chức thành cơ quan quyền lực
chính trị. Mục tiêu, phƣơng hƣớng phát triển cơ bản của Nhà nƣớc ta là xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân và vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức (Điều 2
Hiến pháp 1992). Đồng thời, ở nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con ngƣời về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội đƣợc tôn
trọng và bảo đảm thực hiện, thể hiện ở các quyền công dân đƣợc quy định
trong Hiến pháp (Điều 50 Hiến pháp 1992) và các văn bản pháp luật.
Qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992) và hệ thống văn bản pháp
luật nƣớc ta, quyền và nghĩa vụ của công dân có thể chia làm 3 nhóm chính:
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong lĩnh vực chính trị và xã hội:
quyền tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, quyền bầu cử, ứng cử,
quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ...
- Các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong lĩnh vực kinh tế - văn hoá nhƣ:
quyền và nghĩa vụ lao động, quyền đƣợc bảo vệ sức khoẻ, quyền tự do kinh
doanh, quyền về nhà ở, quyền và nghĩa vụ học tập, nghiên cứu khoa học, phát
minh sáng chế…

12



-

Các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong đời sống riêng nhƣ: quyền bất

khả xâm phạm về thân thể, về chỗ ở, thƣ tín, quyền tự do đi lại và cƣ trú,
quyền tự do tín ngƣỡng...
Hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản nêu trên là những quyền chủ
thể của công dân, thể hiện những lợi ích riêng của cá nhân công dân đƣợc
pháp luật bảo hộ, đồng thời bảo đảm sự hài hoà, thống nhất với lợi ích chung
của toàn xã hội.
Trong các quyền cơ bản của công dân, quyền khiếu nại, tố cáo đƣợc
Hiến pháp ghi nhận thể hiện địa vị pháp lý của công dân, nó đƣợc xác lập
nhƣ một phƣơng tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông qua khiếu nại, tố cáo, công dân bày
tỏ ý nguyện của mình đối với Nhà nƣớc, vạch ra trƣớc cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền những việc làm trái chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà
nƣớc, nhân viên nhà nƣớc, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng. Họ có
quyền yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật, nhằm khôi phục lại quyền lợi
đã bị xâm phạm, giúp các tổ chức, đoàn thể, cơ quan nhà nƣớc đấu tranh
chống các hành vi lạm quyền, lộng hành, làm sai chính sách, pháp luật [26,
tr.207]. Ngƣợc lại, thông qua khiếu nại, tố cáo, Nhà nƣớc sẽ biết và kiểm tra
đƣợc tính đúng đắn trong các đƣờng lối, chính sách, pháp luật, thấy đƣợc
hành vi của các cơ quan nhà nƣớc, nhân viên nhà nƣớc có đúng pháp luật, có
hợp lòng dân hay không để có sự điều chỉnh phù hợp.
1.1.2.2 Quyền khiếu nại, tố cáo là một hình thức dân chủ trực tiếp để
công dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội
Sự ra đời của Nhà nƣớc chuyên chính vô sản đồng thời cũng tạo ra tiền
đề cho sự ra đời của một chế độ dân chủ mới trong lịch sử, chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, công dân tham gia vào


13


quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, thông qua hai hình thức: dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện trực tiếp ý chí, nguyện vọng của
mỗi chủ thể quan hệ pháp luật, qua đó công dân trực tiếp bày tỏ ý kiến, tham
gia vào việc quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội, tạo nên tính tích cực chính trị,
tính trách nhiệm trong xã hội, trong nhà nƣớc của mỗi công dân, nâng cao
tính chủ động, sáng tạo và sự tham gia tích cực của mỗi công dân vào hoạt
động quản lý nhà nƣớc.
Dân chủ đại diện là hình thức công dân sử dụng quyền dân chủ của
mình thông qua các cơ quan, tổ chức và ngƣời đại diện mà mình bầu ra; các
cơ quan, tổ chức và đại diện dân cử phải báo cáo và chịu sự kiểm soát của cử
tri, thể hiện ý chí, nguyện vọng của cử tri.
Công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, trực tiếp kiểm tra, giám sát
các hoạt động của Nhà nƣớc, trực tiếp góp ý phản ánh với Nhà nƣớc về các
vấn đề quan tâm đó là thể hiện đặc thù của hình thức dân chủ trực tiếp. Thông
qua con đƣờng khiếu nại, tố cáo, công dân chủ động kiểm tra, giám sát, phát
hiện, phản ánh với Nhà nƣớc về những sai sót, khiếm khuyết trong hoạt động
của bộ máy nhà nƣớc và các cán bộ, công chức nhà nƣớc mà gây thiệt hại tới
lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên cơ sở đó,
công dân yêu cầu cơ quan, ngƣời có thẩm quyền có những biện pháp giải
quyết kịp thời nhằm bảo vệ lợi ích của mình, của Nhà nƣớc, của tập thể khi bị
xâm hại.
Về phƣơng diện lý luận, khiếu nại, tố cáo là một “nguồn thông tin” từ
xã hội, từ công dân đến Nhà nƣớc vô cùng quan trọng. Thông qua việc thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo, nhân dân có thể tự mình phát hiện cho Nhà nƣớc
những vấn đề khiếm khuyết của cơ chế, chính sách để Nhà nƣớc xem xét điều
chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, giúp cho công tác quản lý nhà


14


nƣớc, quản lý xã hội ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để phát huy yếu tố
tích cực của nó phụ thuộc vào cơ chế, biện pháp bảo đảm dân chủ của thể chế
chính trị.
Thực tế hiện tƣợng khiếu nại, tố cáo ở một số địa phƣơng những năm
gần đây cho thấy, tình trạng mất dân chủ trong quản lý, sự yếu kém và những
khuyết tật của bộ máy chính quyền, sự lỏng lẻo và vi phạm pháp luật trong
hoạt động quản lý nhà nƣớc là những vấn đề đƣợc quần chúng phát hiện, báo
động cho xã hội, cho Nhà nƣớc. Từ nguồn thông tin này, Nhà nƣớc đã kịp
thời có điều chỉnh mạnh mẽ về chính sách, pháp luật cho phù hợp, qua đó thể
hiện tác động tích cực của quyền khiếu nại, tố cáo - một hình thức dân chủ
trực tiếp đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc.
1.2 QUYỀN GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI

1.2.1 Vị trí pháp lý của Quốc hội
Vị trí pháp lý của Quốc hội đƣợc xác định bởi những quy định của
Hiến pháp, văn bản pháp lý có hiệu lực tối cao của Nhà nƣớc ta cũng nhƣ
đƣợc thể hiện trong nhiều quy định của các văn bản pháp luật khác nhƣ Luật
tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật khiếu nại tố cáo, Luật tổ chức
Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Quy chế hoạt động
của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc,
các Uỷ ban của Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội...Trong đó, Điều 83 Hiến
pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, đƣợc sửa đổi bổ sung
năm 2001 đã quy định :"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.

Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc

15


chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và
hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước".
Quy định trên cho thấy vị trí, vai trò của Quốc hội trong bộ máy nhà
nƣớc thể hiện ở hai đặc điểm: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân và đồng thời là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất.

1.2.1.1 Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân
Tính đại biểu cao nhất của Quốc hội nƣớc ta trƣớc hết thể hiện ở cách
thức thành lập và cơ cấu tổ chức của Quốc hội.
- Về cách thức thành lập, Quốc hội là cơ quan nhà nƣớc duy nhất do cử
tri cả nƣớc bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín. Bầu cử đại biểu Quốc hội là kết quả lựa chọn thống nhất của nhân dân cả
nƣớc [23, tr.267].
-

Về thành phần, Quốc hội luôn có cơ cấu thành phần đại biểu đại diện

rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân, phản ánh đƣợc cơ cấu kết hợp đa dạng,
thể hiện Quốc hội là khối đại đoàn kết dân tộc.
Về cơ cấu thành phần theo đơn vị hành chính (cấp tỉnh), Quốc
hội có
đại biểu ở tất cả các đơn vị hành chính. Theo Điều 8 Luật bầu cử đại biểu Quốc

hội năm 1997, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì mỗi tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ƣơng có ít nhất ba đại biểu cƣ trú và làm việc tại địa phƣơng; số đại
biểu tiếp theo đƣợc tính theo số dân và đặc điểm của mỗi địa phƣơng.

Ngoài ra, tính đại biểu cao nhất của Quốc hội còn thể hiện ở việc Quốc
hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình dựa vào sự tín nhiệm của
nhân dân, do nhân dân ủy quyền đồng thời chịu sự giám sát và chịu trách

16


nhiệm trƣớc nhân dân. Xuất phát từ tính đại diện nhân dân mà Quốc hội đƣợc
giao những chức năng, nhiệm vụ hết sức quan trọng nhƣ quyền lập hiến, lập
pháp, quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nƣớc và quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc. Do đó, nhân dân có
quyền xem xét, đánh giá tƣ cách, phẩm chất, năng lực của các đại biểu có
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân hay không. Đại biểu Quốc hội có
thể bị bãi nhiệm khi không còn sự tín nhiệm của nhân dân.
1.2.1.2 Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
Đặc điểm này đƣợc thể hiện rõ qua các quy định của Hiến pháp và
pháp luật về chức năng, quyền hạn của Quốc hội, theo đó:
Thứ nhất, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Hiến
pháp và luật có vị trí vô cùng quan trọng, nó chứa đựng các quy phạm pháp
luật có hiệu lực pháp lý và thể hiện những đƣờng lối cơ bản, những chủ
trƣơng lớn của Đảng đã đƣợc Nhà nƣớc thể chế hóa và có hiệu lực thi hành
trên toàn lãnh thổ nƣớc ta. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua,
sửa đổi Hiến pháp và luật. Chỉ có Quốc hội với tƣ cách là cơ quan quyền lực
nhà nƣớc tối cao mới có quyền thông qua những loại văn bản này. Và ngƣợc
lại cũng chính việc Quốc hội, cơ quan duy nhất đƣợc quyền thông qua các
loại văn bản này mới chứng tỏ Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà

nƣớc cao nhất [23, tr.273].
Thứ hai, Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
Những vấn đề quan trọng nhất của đất nƣớc thuộc thẩm quyền quyết
định của Quốc hội gồm các nội dung chủ yếu :
-

Các vấn đề về tổ chức và nhân sự cấp cao của Nhà nƣớc nhƣ : Thành

lập, bãi bỏ các cơ quan trung ƣơng trong bộ máy nhà nƣớc; miễn nhiệm, bãi
nhiệm hoặc phê chuẩn các chức vụ cao cấp nhất của Nhà nƣớc và những

17


ngƣời đứng đầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ; thành lập mới, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới hành chính...
-

Các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, trong đó quyết định kế hoạch phát triển

kinh tế- xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; dự toán ngân sách nhà
nƣớc và phân bổ ngân sách trung ƣơng; quyết định chính sách dân tộc và
chính sách tôn giáo của Nhà nƣớc ...
Các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhƣ : quyết định
vấn đề
chiến tranh và hòa bình, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ƣớc quốc tế...
Thứ ba, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước
Giám sát là một chức năng quan trọng của Quốc hội, đƣợc bắt nguồn từ
quyền làm chủ tập thể của nhân dân và là một bộ phận không thể thiếu trong

toàn bộ hệ thống kiểm tra, thanh tra và giám sát của Đảng, Nhà nƣớc và nhân
dân. Hoạt động giám sát của Quốc hội chính là việc Quốc hội theo dõi, xem
xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong
việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội. Phạm vi và nội dung giám sát của Quốc hội
bao gồm nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau nhƣ kinh tế-ngân sách,
văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh và thi hành pháp luật. Mục đích hoạt
động giám sát của Quốc hội là nhằm góp phần bảo đảm cho bộ máy nhà nƣớc
và các cơ quan nhà nƣớc hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; bảo
đảm Hiến pháp, pháp luật đƣợc thi hành nghiêm chỉnh; bảo đảm Nhà nƣớc ta
là Nhà nƣớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1.2.2 Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, cơ sở pháp lý hình
thành quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân

18


Để hiểu đúng và đầy đủ nội dung và ý nghĩa của quyền giám sát tối cao
của Quốc hội, trƣớc hết chúng ta cần tìm hiểu về thuật ngữ "giám sát".
Qua nghiên cứu một số tài liệu cho thấy, hiện nay thuật ngữ "giám sát"
đƣợc hiểu từ các góc độ khác nhau:
-

Giám sát là "sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã

quy định".
Giám sát là "chức quan thời xƣa trông nom một loại công việc
nhất
định" [52, tr.389].

-

Giám sát là "sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động

thƣờng xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để
buộc và hƣớng hoạt động của đối tƣợng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo,
quy chế nhằm đạt đƣợc những mục đích, hiệu quả đã đƣợc xác định từ trƣớc,
bảo đảm cho pháp luật đƣợc tuân theo nghiêm chỉnh" [47, tr.174].
Với nhiều cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của thuật ngữ "giám sát"
khác nhau nhƣ vậy, nên để xác định tính chất quyền giám sát của Quốc hội
với tính cách là một biểu hiện của quyền lực nhà nƣớc, chúng ta cần xuất phát
từ việc xem xét nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nƣớc, mối tƣơng quan giữa
các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay.
Hiện nay, tuỳ thuộc sự khác biệt trong nguyên tắc tổ chức và cơ chế vận
hành của quyền lực nhà nƣớc mà ở các nƣớc có những sự khác biệt trong
việc quy định về quyền giám sát và chức năng giám sát của các cơ quan trong
bộ máy nhà nƣớc. Với mục đích duy trì và bảo vệ pháp chế, bảo đảm các cơ
quan nhà nƣớc, nhân viên nhà nƣớc, các tổ chức và mọi công dân phải thực
hiện đúng, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong hoạt động của mình, các
nƣớc đều tìm cách thiết lập một cơ chế giám sát hữu hiệu nhất để ngăn chặn
sự vi phạm pháp luật, đặc biệt là chống lại sự lạm quyền từ phía các cơ quan
công quyền, trong đó có hoạt động giám sát từ Quốc hội. Ở nhiều nƣớc đã

19


thành lập các cơ quan nhà nƣớc chuyên môn để tiến hành hoặc hỗ trợ hoạt
động giám sát của Quốc hội (các Toà án hiến pháp và Hội đồng hiến pháp để
giám sát việc tuân thủ Hiến pháp; Thanh tra Quốc hội, những nhà chức trách
khác của Quốc hội để giám sát việc thực hiện nhân quyền; cơ quan kiểm

toán... để giám sát hoạt động hành chính - tài chính của các cơ quan nhà
nƣớc...). Thực tế các nƣớc cho thấy, giám sát của Quốc hội đã thể hiện là một
phƣơng thức hữu hiệu để cân bằng quyền lực và bảo đảm cho quyền lực nhà
nƣớc thực thi có hiệu quả.
Các nhà nƣớc tƣ sản, mặc dù có những nét riêng, nhƣng cơ chế giám
sát đƣợc thực hiện về cơ bản là giống nhau. Trên cơ sở nguyên tắc phân
quyền, các Nhà nƣớc tƣ sản áp dụng cơ chế kìm chế, đối trọng, dùng quyền
lực hạn chế quyền lực. Với cơ chế nhƣ vậy, các cơ quan trong Nhà nƣớc thực
hiện sự giám sát lẫn nhau một cách mạnh mẽ quyết liệt và cũng rất hiệu quả.
Mặt khác, do thực hiện chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng, các đảng phái
chính trị ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa cũng giữ vai trò rất lớn trong việc giám
sát hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc và nhân viên nhà nƣớc. Cũng bởi
vậy, cách thức tổ chức hoạt động giám sát cũng nhƣ cơ chế giám sát ở các
Nhà nƣớc tƣ sản không giống nhƣ mô hình và cơ chế giám sát ở nƣớc ta [35,
tr.376].


Việt Nam, theo quan điểm của Đảng cũng nhƣ các quy định của pháp

luật, bộ máy nhà nƣớc ta đƣợc tổ chức theo nguyên tắc "quyền lực nhà nƣớc là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp"[4, tr.45]. Trong đó, Quốc
hội, với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của

đất nƣớc nên Quốc hội có quyền theo dõi, xem xét, kiểm tra việc thực hiện
chúng trong đời sống thực tiễn. Về bản chất, quyền giám sát tối cao của Quốc

20



×