Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.8 KB, 10 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

Tiểu luận môn Giám sát, kiểm tra, thanh tra trong quản lý
Hành chính Nhà nước

VAI TRÒ CỦA KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ VIỆC
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ĐỐI VỚI
VIỆC ĐẢM BẢO PHÁP CHẾ TRONG QUẢN
LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lương Thanh Cường
Người thực hiện: Đặng Văn Minh
Lớp: Cao học Hành chính công 16M

HUẾ - 2013


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................2
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận......................................................................................................2
1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo ...........................................................................2
1.2. Khái niệm giải quyết khiếu nại, tố cáo...........................................................2
1.3. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa ...........................................................3
1.4. Khái niệm về đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước ...........3
II. Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm
bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước. ...............................................4
2.1.Vai trò của khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý
hành chính nhà nước..............................................................................................4
2.2. Vai trò của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp


chế trong quản lý hành chính nhà nước.................................................................5
III. Thực trạng và những bất cập trong công tác khiếu nại, tố cáo và hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa ...............7
3.1. Thực trạng trong công tác khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo ở nước ta hiện nay................................................................................7
3.2. Những bất cập trong hoạt động khiếu nại, tố cáo và công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo ....................................................................................................7
3.3. Những giải pháp tăng cường công tác khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải
quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa ......................8
3.3.1. Các biện pháp cụ thể trước mắt ..................................................................8
3.3.2. Giải pháp chiến lược, lâu dài ......................................................................8
KẾT LUẬN ..........................................................................................................9
2


MỞ ĐẦU
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được pháp luật quy định là cơ sở
pháp lý cần thiết để công dân thực hiện tốt quyền làm chủ và giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước đồng thời
qua đó phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với vai trò
quan trọng và tính thời sự, cấp thiết của hoạt động này, tôi chọn đề tài: “Phân
tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc
đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước”.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo.
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận năm 1992 ghi
nhận: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức

kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và bất cứ cá nhân nào”. Quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân được quy định cụ thể hơn trong Luật khiếu nại, tố
cáo.
Khái niệm khiếu nại: khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công
dân, theo khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo thì khiếu nại được hiểu là: “việc
công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật khiếu
nại, tố cáo quy định đề nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem
xét lại các quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi
có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Khái niệm tố cáo: Theo khoản 2, điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo thì tố cáo
được hiểu: “là việc công dân theo thủ tục Luật khiếu nại, tố cáo quy định báo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật
của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ
chức”.
1.2. Khái niệm giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo 1998 sửa đổi bổ sung quy định cụ thể như sau:
“13- “Giải quyết khiếu nại” là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải
quyết của người giải quyết khiếu nại.
14- “Giải quyết tố cáo” là việc xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và quyết
định xử lý của người giải quyết tố cáo.”
Như vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo là nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ
quan, nhà nước. Việc giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo góp phần ổn định tình hình
3


chính trị xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ trước tới nay, Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và đã
ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, văn bản pháp luật quy định về vấn đề này,

trong đó có Pháp lệnh Khiếu nại-tố cáo của công dân năm 1991, Luật khiếu nại,
tố cáo năm 1998,, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo
năm 2004 và năm 2005; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm
1996 (được sửa đổi, bổ sung năm 2006). Như vậy, với việc ban hành các văn
bản pháp luật nêu treenhà nước đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc và tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo; làm cơ sở cho các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu tố.
1.3. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã
hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân
viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng
và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Nội dung
của pháp chế rất phong phú, trong đó nội dung cơ bản nhất là sự triệt để tôn
trọng pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cà công dân. Chính từ
nội dung này mà pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của quản
lí hành chính Nhà nước.
1.4. Khái niệm về đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước có nghĩa là bằng
những cơ chế hoạt động pháp lý làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả
trong trong thực tế và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước mà trước hết
là hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, khơi dậy trí
tuệ và tinh thần, ý chí tự lực, tự cường của nhân dân, đem lại những tiện ích và
thủ tục thực hiện sự dễ hiểu, dễ làm và thực hiền quyền và nghĩa vụ của công
dân theo một hướng trật tự nhất định.
Yêu cầu của việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước:
- Xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ
để Nhà nước pháp quyền Việt Nam hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và
nhân dân lao động được bảo vệ và có đủ điều kiện thực hiện cá quyền tự do chân
chính của họ.
- Xây dựng một bộ máy tổ chức điều hành tinh gọn, đủ năng lực.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ và năng lực đáp ứng
yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ và công việc được giao.
- Có nguồn kinh phí đáp ứng đầy đủ yêu cầu của công cuộc đổi mới để
thực hiện pháp luật, để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của công dân, coi đó là
điều kiện tiên quyết để đưa pháp luật vào cuộc sống và người lao động có đủ
điều kiện để bảo vệ mình.
4


- Xử lý nghiêm minh mọi trường hợp vi phạm pháp luật không phân biệt
họ là ai, ở cấp nào; bất cứ cơ quan, tổ chức và cá nhân nào cũng chịu sự điều
chỉnh của pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
- Tiến hành nhiều hình thức, phương pháp và biện pháp khác nhau tạo nên
sức mạnh tổng hợp để thực hiện pháp luật trong phạm vi cả nước hay ở từng địa
phương.
II. Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc
đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Từ những khái niệm trên ta có thể xác định nội dung của pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong hoạt động khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của
các cơ quan hành chính nhà nước. Việc xác định này đã thể hiện một cách rõ
hơn về vai trò to lớn của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
việc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đó là:
2.1. Vai trò của khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản
lý hành chính nhà nước.
Khiếu nại, tố cáo tạo cơ chế để cá nhân, tổ chức bảo về quyền, lợi ích hợp
pháp của mình khi bị xâm hại bởi các quyết định hành chính của cơ quan hành
chính, cá nhân có thẩm quyền; bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị
xâm hại bởi các vá nhân, tổ chức khác.
Bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Với cơ chế

dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Việc công dân thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo của mình là một hình thức quản lý nhà nước. Thông qua hình thức
này của nhân dân, các cơ quan nhà nước có thể kịp thời phát hiện những hiện
tượng tiêu cực trong bộ máy hành chính nhà nước để có những biện pháp để
chấn chỉnh kịp thời để đảm bao cho pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện
trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, khiếu nại, tố cáo
cũng là một nghĩa vụ pháp lý của mỗi người dân, nó thể hiện trách nhiệm của
công dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước và góp phần hoàn thiện đội ngũ
cán bộ nhà nước đáp ứng được yêu cầu của hoạt động quản lý hành chính nhà
nước. Việc công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo chính là hình thức nhân
dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, góp phần mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa và cùng với đó đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước. Bởi
pháp chế xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với dân chủ, không có dân chủ thì
không có pháp chế. Pháp chế là nhân tố để củng cố và phát huy nền dân chủ,
pháp huy quyền là chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và
nhà nước. Mối quan hệ rõ nét nhất giữa dân chủ và pháp chế được thể hiện ở sự
tham gia của công dân vào một công việc của nhà nước, giám sát, kiểm tra hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Ngoài ra, khiếu nại, tố cáo còn giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước có
điều kiện để khẳng định tính đúng đắn trong hoạt động quản lý theo thẩm quyền
của mình; đồng thời kịp phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật.
5


2.2. Vai trò của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo
pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà
nước giúp hệ thống quy phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo hoàn thiện, đồng bộ;
phản ánh đúng yêu cầu dân chủ trong xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền khiếu
nại, tố cáo của công dân được quy định trong Hiến pháp.

Trong quá trình thực hiện hoạt động khiếu nại, tố cáo phải đảm bảo được
các yêu cầu sau đây thì sẽ đáp ứng được yêu cầu và đảm bảo cảu pháp chế xã
hội chủ nghĩa:
Thứ nhất, tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp trong việc cụ thể hóa
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ
thống các quy phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo; là cơ sở để thiết lập trật tự pháp
luật, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước. Như vậy, văn bản
quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo đảm bảo tính hợp Hiến và hợp pháp
cũng là đảm bảo cho pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện.
Hiến pháp, Luật khiếu nại, tố cáo chỉ quy định những vấn đề có tính
nguyên tắc về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, còn để đảm bảo
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã
hội, các cơ quan, nhà nước có thẩm quyền phải ban hành các văn bản dưới luật
để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, nhưng phải đảm bảo tính thống nhất,
hiệu lực pháp lý của Hiến pháp, Luật khiếu nại, tố cáo. Có như vậy, pháp chế xã
hội chủ nghĩa mới đảm bảo được đúng bản chất của nó trong quản lý hành chính
nhà nước.
Thứ hai, pháp luật khiếu nại, tố cáo phải là công cụ pháp lý để công dân,
cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích của nhà
nước, của xã hội và của người khác bị xâm phạm. Quyền khiếu nại, tố cáo “là
phương tiện tự về khi các quyền chủ thể bị vi phạm, là hoạt động có tính phòng
ngừa nhằm ngăn chặn khả năng vi phạm pháp luật”. Có thể nói, khi nào có hoạt
động của quyền lực nhà nước thì ở đó phải có pháp luật khiếu nại, tố cáo để
công dân có công cụ pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, pháp luật khiếu nại, tố cáo phản ánh nhu cầu, nội dung và là
công cụ để bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khiếu nại, tố cáo là một trong
những phương thức quan trọng để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm
soát việc thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước và những người
được trao quyền. Quyền khiếu nại, tố cáo là phương tiện để nhân dân đấu tranh

chống các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội,
lợi ích của công dân. Do đó, việc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo là một trong
những biểu hiện sinh động nhất, rõ nét nhất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước và những
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo phải nghiêm chỉnh thực hiện
6


đầy đủ, đúng đắn các quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo và pháp luật
khác có liên quan là góp phần đảm bảo thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, thực hiện đầy đủ chế độ trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố
cáo: trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền,
trách nhiệm chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo,
trách nhiệm xử lý vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo, trách nhiệm quản lý công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo…Thứ hai, nhận thức và quán triệt đầy đủ các
nguyên tắc giải quyết khiếu nại, tố cáo: nguyên tắc đảm bảo quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân, nguyên tắc công khai, dân chủ, nguyên tắc độc lập…Thứ ba,
đảm bảo và thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo,
người bị khiếu nại, tố cáo và những chủ thể khác mà pháp luật khiếu nại, tố cáo
đã quy định. Có như vậy việc giải quyết khiếu nại, tố cáo mới khách quan, công
bằng, đúng pháp luật những vụ việc cụ thể. Thứ tư, tuân thủ nghiêm ngặt thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo từ giai đoạn thụ lý khiếu nại, tố cáo, kiểm tra,
xác minh, kết luận, ban hành quyết định, kết luận khiếu nại, tố cáo, tổ chức thực
hiện quyết định, kết luận khiếu nại, tố cáo. Thứ năm, tuân thủ những quy định
về việc ban hành quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thứ sáu, tuân
thủ những quy định trong việc tổ chức thực hiện quyết định, kết luận giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, việc áp dụng pháp luật là nền tảng của pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Việc áp dụng pháp luật khiếu nại, tố cáo một cách linh hoạt, sáng tạo
trong từng hoàn cảnh, từng vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể cũng phải dựa trên

những nguyên tắc chung của pháp luật để thực hiện và đảm bảo pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Việc quy định cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố
cáo của các cơ quan hành chính nhà nước là góp phần đảm bảo thực hiện pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Một trong những phương thức để đảm bảo và tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa là phải có cơ chế hữu hiệu để kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hánh chính nhà nước.
Việc kiểm tra hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan
hành chính nhà nước được quy định bởi cơ chế tự kiểm tra trong nội bộ hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có trách
nhiệm kiểm tra mọi hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới trong
đó có hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. Hoạt động kiểm tra và giải quyết
khiếu nại, tố cáo nhằm phát hiện những mặt tích cực để biểu dương, khuyến
khích, đồng thười cũng phát hiện những sai phạm, yếu kém để có biện pháp
chấn chỉnh, xử lý kịp thời, đảm bảo trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Giám sát là phương thức để kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm
việc thực hiện quyền lực nhà nước theo đúng định hướng, mục tiêu đề ra. Việc
giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà
nước được thực hiện bằng hai hình thức: Thứ nhất, giám sát mang tính quyền
7


lực nhà nước. Chủ thể tiến hành là Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và hệ
thống Tòa án nhân dân. Thứ hai, giám sát không mang tính quyền lực nhà nước,
là hình thức giám sát do Mặt trận Tổ quốc Việt Vam, các thành viên của Mặt
trận, cơ quan báo chí, các tổ chức lao động và cá nhân thực hiện thông qua
phương thức: kiến nghị, phản ánh về hoạt động ban hành văn bản quy phạm và
giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia hoạt động giám sát, kiểm tra với cơ quan

nhà nước có thẩm quyền; thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân…
Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà
nước – biểu hiện của pháp chế xã hội chủ nghĩa yêu cầu phải đấu tranh phòng
chống và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm phap luật khiếu nại, tố cáo.
Nếu cơ quan hành chính nhà nước vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo sẽ
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm suy
giảm lòng tin của nhân dân đối với chính quyền và là nhân tố “tiềm ẩn” gây mất
ổn định chính trị-xã hội. Vì vậy, yêu cầu của pháp chế xã hội trong hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước là phải xử lý
nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo của những người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không kể người vi phạm là ai, giữ cương vị
công tác như thế nào. Theo quy định của pháp luật nếu vi phạm thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý lỷ luật, xử phạt hình thức hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường.
III. Thực trạng và những bất cập trong công tác khiếu nại, tố cáo và hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
3.1. Thực trạng trong công tác khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện nay.
Theo số liệu báo cáo của 45 tỉnh và 7 bộ lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội
(ngày 22-8) thì tỉ lệ khiếu nại đúng và đúng một phần chiếm 46,13%. Trong số
khoảng 300.000 vụ khiếu kiện mỗi năm, hơn 80% thuộc lĩnh vực đất đai,. Trong
56.800 vụ việc hành chính chỉ có 310 vụ khởi kiện ra tòa. Điều bất thường ở ta
là phần lớn người khiếu kiện đều đổ dồn về trung ương để “đâm đơn” thay vì
kiện ra tòa án. Trong khi Tòa hành chính…thì rất ít việc.
Theo kết quả khảo sát 3 miền cho thấy tình hình khiếu kiện vẫn tập trung
ở lĩnh vực đất đai, xây dựng, đền bù giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính,
bảo vệ môi trường…Nguyên nhân rất nhiều, song theo nghiên cứu của Viện:
“tại” các luật chuyên ngành, đặc biệt là các luật quản lý xã hội, quản lý nhà nước
liên quan đến quyền và lợi ích của công dân còn bất cập, nên thực trạng khiếu
nại hành chính xu hướng ngày càng tăng cề số lượng, phức tạp về tính chất.

3.2. Những bất cập trong hoạt động khiếu nại, tố cáo và công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
(1)Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính chưa đảm bảo
tính khách quan. (2) Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại của cơ quan hành
chính còn nhiều phức tạp, khó thực hiện, thiếu công khai, minh bạch. (3) Thẩm
quyền giải quyết khiếu nại không rõ ràng và không đầy đủ. (4) Hạn chế quyền
8


khiếu kiện trực tiếp của người khiếu nại. (5)Thời hiệu, thời hạn khiếu nại có
nhiều bất lợi cho người khiếu nại. (6) Vai trò của các cơ quan thanh tra trong cơ
chế giải quyết khiếu nại còn hạn chế.
3.3. Những giải pháp tăng cường công tác khiếu nại, tố cáo và hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa
3.3.1. Các biện pháp cụ thể trước mắt
(1) Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng trong công tác
tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị nhằm tập trung giải quyết có hiệu quả các vụ khiếu
kiện của công dân. (2) Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các cấp phải có kế hoạch cụ thể, rà soát các vụ khiếu kiện đông người
để giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, bức xúc kéo dài của công dân. (3)
Các tổ chức thanh tra cần đẩy mạnh thanh tra trách nhiệm của thủ trưởng các cơ
quan hành chính nhà nước trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo, nhằm uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời những hạn chế, tồn tại, cũng như tháo
gỡ các vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn để nâng cao hơn nữa hiệu quả của
công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở các địa phương, đơn vị. (4) Tăng
cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hành chính với các tổ chức đoàn thể
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là giải quyết vụ việc phát sinh từ cơ
sở, những vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp.
3.3.2. Giải pháp chiến lược, lâu dài

(1) Để khắc phục cơ bản tình trạng bất cập trong cơ chế giải quyết khiếu
nại, tố cáo hành chính hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu thành lập cơ quan tài
phán hành chính ở Việt Nam. Việc nghiên cứu thành lập cơ quan hành chính tài
phán ở nước ta hiện nay cần phải có bước đi thích hợp, trong giai đoạn đầu có
thể thí điểm thành lập ở một số địa phương, sau đó rút kinh nghiệm và nhân
rộng trong phạm vi cả nước. (3) Việc giải quyết khiếu kiện được tiến hành theo
những thủ tục chặt chẽ. Cơ quan hành chính bình đẳng với công dân trong quá
trình giải quyết khiếu kiện. Công dân có quyền nhờ luật sư thay mặt mình thực
hiện việc khiếu kiện. Việc giải quyết khiếu kiện được thực hiện thông qua hội
đồng. Phán quyết của hội đồng bằng bỏ phiếu kín và quyết dịnh theo đa số. (4)
Quá trình giải quyết khiếu kiện được thực hiện thông qua 3 giai đoạn: Giai
đoạn thứ nhất, khi phát sinh khiếu kiện, cơ quan hành chính không thụ lý, giải
quyết mà cơ quan tài phán sẽ thụ lý. Giai đoạn thứ hai, trường hợp cơ quan
hành chính hoặc công dân không thay đổi quan điểm thì vụ việc sẽ được giải
quyết tại cơ quan tài phán. Giai đoạn thứ ba, trường hợp không đồng ý với việc
giải quyết của cơ quan tài phán thì các bên có quyền khiếu kiện vụ án hành
chính tại tòa án. Việc giải quyết được thực hiện theo quy định của pháp luật tố
tụng hành chính.

KẾT LUẬN
9


Để đảm bảo cho các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo có tính khả
thi, dễ hiểu và dễ vận dụng trong quá trình tổ chức thực hiện, sau mỗi giai đoạn
triển khai thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo, trong khi chưa thể sửa đổi bổ sung
Luật, Nghị định, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành Thông tư để
hướng dẫn thực hiện những vấn đề còn vướng mắc, hoặc những quy định mới
mà nội dung cần phải có hướng dẫn chi tiết. Bên cạnh đó, cần sớm có hướng dẫn
cụ thể, chi tiết đối với các vấn đề đã được nêu trên nhằm đảm bảo được tính linh

hoạt, tính khả thi của các quy định trong thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

10



×