Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.33 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong đó Nhà nước quản lý đất nước bằng
pháp luật và đảm bảo pháp luật có hiệu lực trên thực tế luôn là một vấn đề được
Nhà nước quan tâm đến. Vì thế vấn đề về bảo đảm pháp chế trong quản lý hành
chính Nhà nước luôn được xem là mối quan tâm hàng đầu cho việc xây dựng một
Nhà nước pháp quyền. Bảo đảm cho pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn
thiện là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng Nhà nước của dân, do dân và
vì dân và cũng là yêu cầu của quá trình hoàn thiện con người và các quyền của họ
trong xã hội, đặc biệt là trong quản lý hành chính nhà nước. Trong số những biện
pháp pháp lý bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước không thể
không nói đến hoạt động khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo của công
dân. Đây là một trong những biện pháp pháp lý quan trọng góp phần rất lớn trong
việc phát huy tính bảo đảm pháp chế trong hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước. Trong bài tập lớn học kì môn Luật Hành chính, em xin phép đưa ra bài viết
với chủ đề về “Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo đối
với việc bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước” . Do trình độ
hiểu biết cũng như kiến thức còn hạn hẹp nên không tránh khỏi những sai sót,
mong thầy cô giáo góp ý, bổ sung thêm để em hoàn thiện thêm về bài viết của
mình.Em xin cảm ơn!

1


NỘI DUNG
Cơ sở lý luận
1. Khái niệm đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
Nói đến pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước là nhấn mạnh đến trật tự
pháp luật nhằm bảo vệ và phát triển quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, củng
cố và duy trì địa vị pháp lý hành chính của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội.
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức – pháp lý do
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực hiện chức


năng, quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng như
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân .
Bảo đảm pháp chế tức là phải củng cố việc xây dựng cơ chế, phương tiện,
phương pháp và cách thức nhằm làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả
trong thực tế, đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội và cho người lao động. Bảo
đảm pháp chế là những điều kiện, những phương tiện và những khả năng thực hiện
trên thực tế đối với pháp luật hiện hành nhằm xây dựng và củng cố chính quyền
của dân, do dân, vì dân, bảo vệ các quyền và nghĩa vụ công dân trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội.
Bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước có nghĩa là bằng những cơ
chế và hoạt động pháp lý làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực
tế và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước mà trước hết là hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần, ý chí tự
lực, tự cường của nhân dân, đem lại những tiện ích và thủ tục thực hiện thực sự dễ
hiểu, dễ làm và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo một trật tự
nhất định. ( Theo giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, nxb Công an nhân
dân,2008)
2. Khái niệm khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo
Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân đã
được Hiến pháp nước ta ghi nhận. Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công
dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về
những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải
được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có
quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù
I.

2



người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo
làm hại người khác”.
Khái niệm pháp lý khiếu nại, tố cáo được định nghĩa và giải thích tại Điều 2
Luật khiếu nại, tố cáo sửa đổi, bổ sung năm 2005.
Khoản 1 Điều 2 “Khiếu nại” là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,
công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định
kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là
trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình
Khiếu nại là quyền, là hành vi của các chủ thể như cơ quan nhà nước, tổ
chức và cá nhân, còn hoạt động giải quyết khiếu nại là hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước, chỉ được thực hiện bởi người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Quyền khiếu nại của
công dân xuất hiện trong mối liên hệ với quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà
nước. Quá trình công dân thực hiện quyền khiếu nại chính là quá trình cung cấp
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền các tài liệu, chứng cứ về sự vi phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân từ phía cơ quan và người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước. Bởi người khiếu nại không được sử dụng quyền lực
nhà nước trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại nên họ không thể tự mình khôi phục
lại những quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, do đó họ phải đề nghị cơ
quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiến hành giải quyết
khiếu nại của họ theo thủ tục mà pháp luật quy định. Các cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại một mặt sử dụng những tài liệu,
chứng cứ tiếp nhận từ người khiếu nại; mặt khác thu thập, xác minh thêm thông
tin, tài liệu từ những nguồn khác để làm căn cứ cho việc giải quyết khiếu nại một
cách chính xác.
Khoản 2 Điều 2 “Tố cáo” là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo
cho cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm

pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức.”
Công dân dù bị ảnh hưởng trực tiếp hay không bị ảnh hưởng bởi hành vi vi
phạm pháp luật là đối tượng của việc tố cáo đều có quyền thực hiện việc tố cáo khi
biết được có hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong đời sống xã hộiThực hiện
quyền tố cáo là công dân đã thực hiện quyền làm chủ của mình trong việc xây
dựng và củng cố bộ máy nhà nước làm cho bộ máy nhà nước ngày càng phát huy
3


hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội; hay nói rõ hơn thực hiện quyền tố
cáo chính là việc tỏ rõ trách nhiệm của công dân không chỉ trong việc giám sát
hoạt động quản lý của Nhà nước để xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng trong
sạch, vững mạnh mà còn đối với cả việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước để đây thực sự là những “người đại biểu của nhân dân”, góp phần ngăn chặn,
tiến tới loại trừ những hành vi quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu quần
chúng của một bộ phận cán bộ công chức nhà nước.
Khoản 13 Điều 2 “Giải quyết khiếu nại” là việc xác minh, kết luận và ra quyết
định giải quyết của người giải quyết khiếu nại.”
Khoản 14 Điều 2 “Giải quyết tố cáo” là việc xác minh, kết luận về nội dung tố
cáo và việc quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo”
- Đối tượng của khiếu nại, bao gồm: quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức. Quyết định hành chính là đối tượng
khiếu nại được hiểu là: “quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một
lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính ”.
Hành vi hành chính là đối tượng khiếu nại được hiểu là: “hành vi của cơ quan hành
chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi
thực hiện nghĩa vụ, công vụ theo quy định của pháp luật ”. Hành vi đó thực hiện

hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng đã xâm phạm tới quyền, lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.Quyết định kỷ luật cũng là đối tượng của
khiếu nại, được hiểu là: “quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật như khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc
lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức thuộc quyền
quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức ”.
- Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Nội dung tố cáo của
công dân rất đa dạng và phức tạp; có tố cáo về những việc làm trái pháp luật của
cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ; có
những tố cáo về những sai phạm trong công tác quản lý của các cơ quan, trong đó
có cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Ngoài ra, công dân có thể tố cáo các hành
vi vi phạm về đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức. Quy định này đã chỉ rõ
hành vi bị tố cáo không chỉ là hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại mà còn bao
gồm cả những hành vi vi phạm pháp luật đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, tổ chức và cá nhân.
4


4. Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc
đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước là việc làm cho pháp
luật được thực hiện một cách có hiệu quả nhất trong lĩnh vực quản lý hành chính
Nhà nước. Bằng những cơ chế và hoạt động pháp lý làm cho pháp luật được thực
hiện có hiệu quả trên thực tế và hoạt động của bộ máy nhà nước mà trước hết là bộ
máy hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, do dân và vì dân, đem lại những tiện
ích và thủ tục thực hiện thực sự dễ hiểu, dễ làm và việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ của công dân theo một trật tự nhất định. Qua đó có thể thấy được vai trò của
khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo là rất quan trọng đối với việc bảo

đảm pháp chế trong quản lý hành chính. Đây là một biện pháp pháp lý có ý nghĩa
trong việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước, đồng thời thực
hiện khiếu nại, tố cáo còn là hình thức đặc biệt quan trọng để nhân dân lao động
tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm
bảo pháp chế trong quản lý hành chính thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất, là quyền của công dân trong vị thế là đối tượng quản lý hành
chính nhà nước. Bởi vậy quyền khiếu nại, tố cáo sẽ là phương tiện pháp lý có hiệu
quả để công dân bảo vệ các quyền hợp pháp của mình khi bị xâm hại trong lĩnh
vực quản lý nhà nước, làm tốt và thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là
đảm bảo cho việc thực hiện tốt các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đặc
biệt là các quyền tự do mà Hiến pháp và luật đã quy định. Khiếu nại, tố cáo là một
trong những quyền tự nhiên của con người trước những vấn đề bị vi phạm để tự
bảo vệ mình. Hay nói một cách khác, bản chất của quyền khiếu nại, tố cáo là quyền
tự vệ hợp pháp trước những hành vi vi phạm để tự bảo vệ mình hoặc bảo vệ quyền
và lợi ích của xã hội. Đó là quyền hiến định, quyền phản hồi, quyền dân chủ và
hơn thế nữa, đó là quyền để bảo vệ quyền. Chính vì vậy, khiếu nại, tố cáo là hiện
tượng khách quan trong đời sống xã hội.
Thứ hai quyền này khẳng định mối quan hệ cần thiết giữa nhà nước và công
dân thể hiện rõ nguyên tắc: quyền lực nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước
có nguồn gốc từ nhân dân, được nhân dân giao cho nhà nước. Cho nên trong mọi
trường hợp quyền lực nhà nước phải được sử dụng vì lợi ích của nhân dân. Quyền
khiếu nại, tố cáo được công dân sử dụng góp phần ngăn chặn hiện tượng lạm
quyền, vi phạm thẩm quyền xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân của Nhà nước.
5


Thứ ba, công dân sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo chính là hình thức dân
chủ trực tiếp để nhân dân tham gia vào quản lý hành chính nhà nước, tham gia xây

dựng bộ máy hành chính nhà nước trong sạch vững mạnh. Thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo sẽ tạo cơ hội thuận lợi để công dân phát huy một cách có hiệu quả nhất
quyền làm chủ của mình. Thông qua khiếu nại, tố cáo Nhà nước biết và kiểm tra
được tính đúng đắn của đường lối, chính sách, pháp luật, thấy được các hành vi của
các cơ quan Nhà nước, nhân viên nhà nước có đúng pháp luật hay không? Có hợp
lòng dân hay không? Đồng thời cũng thông qua khiếu nại, tố cáo công dân bày tỏ ý
nguyện của mình đối với Nhà nước. Người khiếu nại, tố cáo có thể vạch ra trước
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền những việc làm sai trái chính sách, pháp luật của
cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà nước, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần
chúng. Họ có quyền yêu cầu chấm dứt những hành vi trái pháp luật, nhằm khôi
phục lại quyền lợi đã bị xâm phạm, giúp các tổ chức, đoàn thể, cơ quan nhà nước
đấu tranh chống các hành vi lạm quyền, làm sai chính sách, pháp luật và đặc biệt
tố cáo vạch ra những hành vi tiêu cực như tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của
công. Từ đó nhằm khôi phục bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Nhà
nước.
Pháp luật không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo mà còn quy định cơ quan nhà nước và cán bộ nhà nước có thẩm quyền
phải kiểm tra, xem xét lại những quyết định hành chính và hành vi hành chính, nếu
thấy trái pháp luật thì phải kịp thời sửa chữa khắc phục để tránh phát sinh khiếu
nại, tố cáo. Có sự nhìn nhận và đánh giá lại khi có khiếu lại tố cáo sẽ kịp thời đưa
ra được những biện pháp thích hợp để điều chỉnh hoặc sửa chữa góp phần nâng cao
hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật chặt chẽ đảm bảo thực hiện nó trong
hoạt động hành chính có hiệu quả nhất, đồng thời có thể phát hiện ra những người
cán bộ không đủ tư cách làm người bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Nhờ có khiếu nại, tố cáo mà có thể làm một cuộc cách mạng triệt để để cải
tổ, hoàn thiện bộ máy quản lý hành chính nhà nước với những đại biểu, cán bộ có
đầy đủ đức và tài, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Thứ tư Khiếu nại, tố cáo là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc
thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của
cán bộ, công chức. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không những có vai

trò quan trọng trong quản lý nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân. Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo có thể kiểm tra tính
đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành, từ đó
6


có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản
lý Nhà nước.
Thông qua công tác giải quyết khiếu nại tố cáo các cơ quan nhà nước, cán
bộ, công chức nhà nước cũng phát huy tối đã vai trò của những người đi tiên phong
trong việc phổ biến tuyên truyền và giáo dục chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước tới người dân; giúp họ hiểu và nắm vững các quy định của pháp luật mà
tự giác thực hiện góp phần đảm bảo cho việc “mọi người sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật. Thông qua công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, những sai
phạm khuyết điểm của cán bộ, công chức khi thừa hành công vụ được phát hiện và
xử lý kịp thời; thậm chí trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan cũng sẽ
được làm rõ. Thực tế những năm qua, hàng nghìn cán bộ, công chức đã bị kiểm
điểm trách nhiệm, xử lý kỷ luật, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự từ hoạt
động giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân. Quá trình giải quyết khiếu nại tố
cáo đang góp phần cùng các cơ quan nhà nước và cả xã hội làm lành mạnh hoá bộ
máy các cơ quan nhà nước, nâng cao đạo đức cách mạng, trách nhiệm pháp lý của
những cá nhân,tổ chức có thẩm quyền. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố
cáo của công dân, cũng là điều kiện, là một “kênh” quan trọng để các cơ quan báo
chí, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị-xã hội, bằng cách này hay cách khác, gián tiếp
hoặc trực tiếp tham gia và giám sát các hoạt động công vụ của các cơ quan, cán bộ,
công chức nhà nước, góp phần đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà
nước
Thứ năm Thông qua công tác giải quyết khiếu nại tố cáo đã phát hiện và kiến
nghị với Đảng, Nhà nước, cũng như các cơ quan, đơn vị bị thanh tra kịp thời chấn
chỉnh công tác quản lý; sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách, thậm chí ban

hành mới các quy định của pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tiễn của cuộc
sống. Xét ở khía cạnh khác, công tác giải quyết khiếu nại tố cáo cũng giúp các cơ
quan nhà nước cải tiến lề lối, tác phong làm việc, giữ gìn kỷ luật, thực hành dân
chủ, góp phần củng cố và xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững
mạnh, hiệu lực, hiệu quả hơn trong điều hành quản lý đất nước, quản lý xã hội. Nói
cách khác, công tác giải quyết khiếu nại tố cáo không chỉ phát hiện hành vi sai
phạm, cán bộ mắc khuyết điểm để xử lý, mà còn giúp các cấp lãnh đạo, các cơ
quan bị thanh tra …có được cái nhìn đầy đủ, khách quan và chính xác hơn về
những yếu kém trong công tác, kịp thời có những giải pháp chấn chỉnh, uốn nắn
cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Cuối cùng, làm tốt và thông qua công tác giải quyết khiếu nại tố cáo đã giải
quyết kịp thời và chính xác mọi vướng mắc, bức xúc, mâu thuẫn của người dân,
7


góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Điều này đã góp phần
bảo đảm trên thực tế cho pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
II.
Thực tiễn của hoạt động, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố
cáo và một số giải pháp kiến nghị
1. Thực tiễn đạt được của hoạt động khiếu nại,tố cáo và giải quyết khiếu nại
tố cáo trong việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước:
Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đóng vai trò là cơ
sở pháp lý quan trọng cho việc khuyến khích người dân tích cực tham gia phát hiện
các hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong
giải quyết tố cáo . Trong những năm vừa qua, Chính phủ đã tăng cường hướng dẫn
đôn đốc, chỉ đạo công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; đã ban hành
nhiều nghị định, chỉ thị và nhiều công điện về vấn đề này. Lãnh đạo một số bộ,
ngành và địa phương đã quan tâm hơn đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Nội dung tố cáo chủ yếu là về một số cán bộ đảng viên lợi dụng chức vụ quyền hạn

để tham ô, nhận hối lộ, cố ý làm trái chính sách pháp luật trong quá trình quản lý,
sử dụng đất đai; trong sản xuất kinh doanh và cả trong quá trình xem xét, giải
quyết khiếu nại, tố cáo; tiếp tay cho buôn lậu, làm ăn phi pháp; bao che, không xử
lý vi phạm của cấp dưới; ngoài ra là các tố cáo về mất dân chủ, không công bằng
trong thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất
là trong công tác cán bộ, về lối sống sa đọa, tham nhũng của một số cán bộ, đảng
viên sa sút phẩm chất đạo đức.Nhìn chung, các bộ, ngành, địa phương đã quan tâm
triển khai và thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Nhiều đơn vị triển khai thực
hiện có hiệu quả; một số tỉnh tập trung rà soát và xem xét, giải quyết được các vụ
việc tồn đọng thuộc thẩm quyền của địa phương. Các bộ, ngành trung ương và
tỉnh, thành phố đề ra các biện pháp cụ thể chấn chỉnh nâng cao hiệu quả công tác
tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.
2. Một số hạn chế trong quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại
tố cáo
2.1. Thẩm quyền giải quyết tố cáo
Luật Khiếu nại, tố cáo chưa quy định cụ thể trách nhiệm giải quyết của các cơ
quan hành chính đối với các hành vi vi phạm xảy ra trong lĩnh vực với từng loại
đối tượng ;chưa quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo trong tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế; chưa quy định mối quan
hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan nhà nước với tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội trong việc xử lý các đối tượng thuộc quyền quản lý của
mình cũng như trách nhiệm của thanh tra các cấp, các ngành trong việc giúp thủ
8


trưởng cùng cấp giải quyết tố cáo; gây khó khăn trong việc tiếp nhận và xử lý tố
cáo. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đã xuất hiện tình trạng trùng lặp về thẩm
quyền, không xác định được cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết đối với đối
tượng nhất định khi thực hiện một loại hành vi vi phạm cũng như hiện tượng đùn
đẩy trách nhiệm giải quyết đối với những vụ tố cáo có tính chất phức tạp, nhạy

cảm.
2.2. Thủ tục tố cáo và giải quyết tố cáo
Việc người tố cáo không nêu rõ thông tin thật về họ tên, địa chỉ thường thể hiện
dưới hai dạng chủ yếu là không đề tên, địa chỉ hoặc mạo tên, mạo danh, mạo địa
chỉ của người khác để thực hiện việc tố cáo. Đây là vấn đề phức tạp và ít nhiều đã
gây khó khăn cho việc giải quyết tố cáo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Với quy định không xem xét, giải quyết những tố cáo giấu tên, không rõ địa chỉ thì
vô hình trung, chúng đã hạn chế vai trò của công dân trong việc phát hiện những
hành vi vi phạm pháp luật và như vậy cũng có nghĩa là các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ bỏ sót, không phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp
luật. Xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích Nhà nước, tập thể và công dân, cho nên trên
thực tế nhiều tố cáo không ghi rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thụ lý giải quyết. Thực tế hiện nay, tố cáo nặc danh nhưng có
sự việc thật như tố cáo chiếm tỷ lệ lớn, nhưng do nhiều nguyên nhân, người tố cáo
không muốn nêu rõ tên, địa chỉ của mình, đặc biệt là những trường hợp người bị tố
cáo là người có chức vụ, quyền hạn, có thế lực khác trong xã hội, do vậy, họ sợ bị
trù dập, trả thù, mặc dù đã có quy định về bảo vệ người tố cáo nhưng hiệu lực thực
tế của quy định này cũng là vấn đề mà chúng ta cần phải suy nghĩ.
Thực tế có nhiều tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật đã diễn ra từ lâu, không
còn tính nguy hiểm cho xã hội nhưng cơ quan nhà nước vẫn thụ lý và xem xét, giải
quyết. Điều này gây tốn kém, lãng phí trong quá trình giải quyết tố cáo, vì pháp
luật hiện hành không quy định về thời hiệu tố cáo trong lĩnh vực hành chính.
2.3. Quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố
cáo
Theo Luật Khiếu nại, tố cáo thì công dân có thể tố cáo bằng hình thức gửi đơn
hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tố chức, cá nhân có thẩm quyền . Như vậy, pháp
luật hiện hành chưa quy định việc tiếp nhận tố cáo thông qua điện thoại, thư điện
tử vì vậy bỏ lọt nhiều thông tin có giá trị của người dân về việc phát giác các hành
vi vi phạm.
Luật Khiếu nại, tố cáo quy định về việc người tố cáo phải chịu trách nhiệm

trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật, chứ chưa xác định rõ trách nhiệm bồi
9


thường, bồi hoàn thiệt hại do hành vi tố cáo sai sự thật của mình gây ra. Cá nhân
hoặc đơn vị nếu bị tố cáo sai, ở mức độ nhẹ thì chưa có thiệt hại, nhưng nếu gây ra
những hậu quả nghiêm trọng thì rõ ràng cần phải có hình thức xử lý người tố cáo.
Quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo được quy định trước đây đến
nay chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phòng, chống các vi
phạm pháp luật. Tương tự như vậy, đối với người giải quyết tố cáo, Luật Khiếu
nại, tố cáo cũng chưa quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người giải quyết
tố cáo, người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho người giải quyết tố cáo, người được giao nhiệm vụ xác minh nội
dung tố cáo, kết luận vụ việc tố cáo; chưa quy định về kết luận nội dung tố cáo.
2.4. Các biện pháp bảo vệ người tố cáo
Luật Khiếu nại, tố cáo chưa có cơ chế bảo vệ người tố cáo khi họ bị đe dọa, trả
thù, trù dập hoặc bị phân biệt đối xử; chưa có quy định về việc khen thưởng vật
chất đối với người có công tố cáo và giải quyết tố cáo v.v.. mới chỉ ghi nhận một
số nguyên tắc bảo vệ người tố cáo, xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc bảo vệ tính mạng, danh dự, sức khoẻ cho người tố cáo; thiếu
cơ chế tổ chức thực hiện, do vậy làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tố cáo
của công dân. Nhiều người không dám tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
vì sợ bị trả thù, trù dập, một số khác thì tố cáo giấu tên, giấu địa chỉ của mình. Mặt
khác, cũng có những trường hợp người tố cáo bị trả thù, trù dập mà người vi phạm
không bị xử lý. Bên cạnh đó, các quy định của Luật khiếu nại, tố cáo về bảo vệ
người tố cáo nằm rải rác trong các điều luật khác nhau (Điều 16, 57, 96), chỉ mang
tính nguyên tắc, chưa có biện pháp chế tài bảo đảm thực hiện; chỉ quy định quyền
của người tố cáo được yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe
dọa, trả thù, trù dập nhưng chưa xác định cơ quan có trách nhiệm bảo vệ người tố
cáo và chưa quy định rõ biện pháp xử lý khi cơ quan nhà nước, người có thẩm

quyền trong cơ quan nhà nước không thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo,
chưa quy định nội dung bảo vệ người tố cáo; trình tự, thủ tục tiến hành bảo vệ
người tố cáo như thế nào và việc bảo vệ đó được bảo đảm bằng các biện pháp gì,
trách nhiệm của người tiết lộ bí mật liên quan đến người tố cáo... là những nội
dung mà pháp luật về tố cáo còn bỏ ngỏ. Tình trạng đó đã và đang làm cản trở việc
tố cáo và giải quyết tố cáo hiện nay.
Ngoài những bất cập trên thì thực tế công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhiều
đơn thư vừa chứa nội dung khiếu nại, vừa chứa nội dung tố cáo gây khó khăn cho
quá trình tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhiều trường hợp
phát sinh tranh chấp về thẩm quyền giải quyết, kéo dài thời gian giải quyết vụ việc.
10


Một phần nguyên nhân là do pháp luật hiện hành quy định khiếu nại và giải quyết
khiếu nại, tố cáo và giải quyết tố cáo trong cùng một đạo luật.
Một số phương hướng giải quyết, khắc phục hạn chế của Luật khiếu nại,
tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo hiện nay
Một là, rà soát các quy định của pháp luật hiện hành về tố cáo và giải quyết tố cáo.
Để khắc phục kịp thời các hạn chế do phát sinh trong quá trình giải quyết khiếu
nại, tố cáo cần phải tiến hành việc rà soát các quy định pháp luật về khiếu nại, tố
cáo và giải quyết tố cáo để phát hiện các vướng mắc, sơ hở đang tồn tại trong pháp
luật; kịp thời phát hiện để loại bỏ những quy định đã không còn hiệu lực, hoặc
không còn phù hợp với thực tiễn; sửa chữa, bổ sung các quy định cho rõ; hạn chế
tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản.
Hai là, tổng kết thực tiễn việc thực hiện pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo.
Để phát huy vai trò của pháp luật, bảo đảm các quy định pháp luật phù hợp với yêu
cầu thực tế thì phải tiến hành tổng kết, đánh giá việc áp dụng các quy định pháp
luật trong đời sống kinh tế - xã hội. Việc tổng kết phải chỉ ra được các ưu điểm,
nhược điểm trong các quy định pháp luật, nhất là các quy định về trách nhiệm,
thẩm quyền giải quyết tố cáo; trình tự, thủ tục tố cáo và giải quyết tố cáo... Việc

tổng kết cần tập trung làm rõ công tác chỉ đạo điều hành hoạt động giải quyết tố
cáo của các cơ quan hành chính, từ việc xây dựng, ban hành các văn bản cho đến
việc kiểm tra, đôn đốc cấp dưới thực hiện, đồng thời làm rõ kết quả, các ưu, nhược
điểm trong giải quyết các tố cáo cụ thể. Song song với việc tổng kết phải tiến hành
việc khảo sát thực tế hoạt động giải quyết tố cáo tại các địa phương, bộ ngành để
nắm bắt trình độ, nhận thức của nhân dân về pháp luật về tố cáo và giải quyết tố
cáo. Những quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo cần phải được nghiên cứu, xây
dựng từ những căn cứ đánh giá đúng yêu cầu thực sự của thực tiễn trên các phương
diện.
Ba là, hoàn thiện quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo hành chính thông qua ban
hành Luật Tố cáo. Việc hoàn thiện pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo hành
chính phải bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp, đơn giản, cụ thể và dễ thực
hiện
Bốn là, nâng cao chất lượng, trình độ xây dựng pháp luật về tố cáo và giải quyết tố
cáo. Để nâng cao chất lượng văn bản pháp luật thì cần phải đổi mới công tác xây
dựng văn bản, trong đó các cơ quan nhà nước khi soạn thảo các văn bản có quy
định về tố cáo và giải quyết tố cáo phải chú trọng tăng cường tính công khai, minh
bạch, dân chủ trong quá trình xây dựng.
3.

11


Năm là, nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm với các nước về giải quyết tố cáo hành
chính. Chúng ta cần phải tổ chức khảo sát pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo
hành chính của các nước, đồng thời tham khảo ý kiến của các chuyên gia nước
ngoài về giải quyết tố cáo hành chính trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy
định pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo ở Việt Nam nhằm góp phần thực hiện
thắng lợi các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong quá trình hội nhập
quốc tế.


KẾT LUẬN
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một đòi hỏi tất yếu, khách quan và phù
hợp với xu thế phát triển lịch sử chung của xã hội loài người, bởi Nhà nước pháp
quyền là một giá trị chung của nhân loại trên con đường phát triển tiến bộ và cũng
phù hợp với mục tiêu "Nhà nước của dân, do dân, vì dân" mà Đảng và Nhà nước
ta xác định. Muốn xây dựng thành công nhà nước pháp quyền cần coi trọng việc
tôn trọng, đảm bảo trên thực tế các quyền con người và các giá trị xã hội, như
công bằng, nhân đạo, dân chủ... phải là định hướng căn bản trong tổ chức và hoạt
động thực tiễn của Nhà nước.
Để làm được điều đó, chúng ta phải xây dựng được một hệ thống pháp luật
về khiếu nại,tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo hành chính trên nền tảng các
quyền cơ bản của con người. Nhằm bảo vệ các quyền đó, pháp luật phải có chất
lượng tốt, phản ánh xu thế phát triển tiến bộ chung của xã hội, phù hợp với hiện
thực khách quan, thể hiện đúng đắn ý chí của nhân dân

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
12


1. Hiến pháp 1992
2. Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005).
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình thanh tra và giải quyết khiếu nại tố
cáo, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2008.
5.
6. vi.wikimedia.vn

13




×