Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Quyền sống của thai nhi và vấn đề hoàn thiện khuôn khổ pháp luật việt nam về phá thai luận văn ths luật pháp luật về quyền con người chuyên nghành đào tạo thí điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.86 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LỖ THỊ THU HÀ

QUYÒN SèNG CñA THAI NHI Vµ VÊN §Ò HOµN THIÖN
KHU¤N KHæ PH¸P LUËT VIÖT NAM VÒ PH¸ THAI

Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền Con Ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lỗ Thị Thu Hà



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng

̀

MỞĐÂU...........................................................................................................1
Chƣơng 1: QUYỀN SỐNG CỦA THAI NHI - KHÍA CẠNH THUỘC
NỘI HÀM QUYỀN SỐNG CỦA CON NGƢỜI............................ 8
1.1.

Khái quát vềQuyền sống của thai nhi...............................................8

1.1.1. Khái niệm Quyền sống của con ngƣời.................................................8
1.1.2. Vấn đề quyền sống của thai nhi..........................................................10
1.2.

Các khía cạnh liên quan đến nội dung quyền sống của thai nhi. .12

1.2.1. Những nội dung cơ bản......................................................................12
1.2.2. Nhƣƣ̃ng luồng quan điểm về vấn đề quyền sống của thai nhi.............16
Tiểu kết Chƣơng 1........................................................................................53
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CỦA HIÊṆ TƢỢNG NẠO PHÁ THAI
VÀ CỦA CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN SỐNG CỦA
THAI NHI Ở VIỆT NAM................................................................55
2.1.


Nội dung cơ bản về nạo phá thai.....................................................55

2.1.1. Khái niệm nạo, phá thai vànaọ pháthai không an toàn.......................55
2.1.2. Biện pháp nạo phá thai, hậu quả.........................................................55
2.2.

Thực trạng của hiện tƣợng nạo phá thai....................................... 58

2.2.1. Thực trạng.......................................................................................... 58
2.2.2. Nguyên nhân.......................................................................................64


2.3.

Các giải pháp thực tế đang đƣợc sử dụng để bảo vệ quyền
của thai nhi ởViêṭNam. Những hạn chế còn tồn đọng 67

2.3.1. Khuân khổ pháp luật Việt Nam về nạo phá thai và hệ quả của
Điều chỉnh pháp luật

67

2.3.2. Biện pháp khác...................................................................................80
2.4.

Phƣơng hƣớng, giải pháp đối với vấn đề quyền sống của thai
nhi và nạo phá thai ở Việt nam

82


2.4.1. Phƣơng hƣớng...................................................................................82
2.4.2. Nội dung hành động cụ thể.................................................................83
Tiểu kết Chƣơng 2........................................................................................89

́

KÊT LUÂṆ....................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIÊỤ THAM KHẢO.....................................................91


ACHR

ADN
BPTT
CAC
CEDAW
CPPCG
CRC
CGFED
ICCPR
ICDP
KHHGĐ
NPT
SAVY
SKSS
TNQTNQ
TTYT
UD
UNFPA

VTN,TN
WHO


DANH MỤC CÁC BẢNG


̀

MỞĐÂU
1.

Lý do chọn đề tài

Xuất phát từ khái niệm trẻ em ghi nhận trong Điều 1 Công ƣớc quốc tế
của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em đƣợc ký ban hành ngày 20–11–1989 và
có hiệu lực từ 2-9-1990 (CRC): “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có
nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em
đó qui định tuổi thành niên sớm hơn”.[7]
Và trong phần mở đầu của Công ƣớc: “Ghi nhớ rằng, như đã chỉ ra trong
Tuyên ngôn về Quyền trẻ em, “do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em
cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp
lý trước cũng như sau khi ra đời”.[7]
Đã cho thấy sự bỏ trống trong việc xác định vấn đề : Bắt đầu từ khi nào
thì đƣợc coi là trẻ em , đƣơcc̣ thƣƣ̀a nhâṇ làcon ngƣời ? Thai nhi có đƣợc coi
là con ngƣời và đƣợc hƣởng những quyền lợi giống nhƣ những đứa trẻ bình
thƣờng không? Đây vẫn là một vấn đề còn đang gây tranh cãi gay gắt trong
bản thân giới nghiên cứu và đặc biệt trong nhóm các nhà làm luật, bởi hệ quả
của việc nhận thức vấn đề này sẽ có ảnh hƣởng không nhỏ đến những quy
định pháp luật của một Nhà nƣớc về nạo phá thai – một nôịdung đã, đang và

sẽ đƣợc toàn xã hội quan tâm.
Nhìn nhận từ cuộc tranh luận không ngừng trong việc cắt nghĩa hay
biện minh cho hành động phá thai khi trả lời câu hỏi: Phá thai có phải là một
hành động giết ngƣời hay không? Từ quá trình tìm hiểu nguyên nhân thực
hiện hành vi này, đã tồn tại những quan điểm trái ngƣợc nhau (đặc biệt khi nó
đƣợc đặt trong mối tƣơng quan so sánh vì phúc lợi của ngƣời mẹ hay nhấn
mạnh quyền lợi của bào thai) và liệu những nghiên cứu của ngành sinh vật
học về tiến trình hình thành, phát triển của bào thai có thể cho chúng ta biết

1


đích xác vào thời điểm nào bào thai phải đƣợc coi là một con ngƣời hay
không? Theo đó, trong quá trình nghiên cứu tôi nhận thấy nổi trội có ba quan
điểm đi kèm với 3 lối giải quyết đối với vấn đề này:
Thứ nhất. Trong những luận điểm của nền luân lý truyền thống hay cổ
điển hay bảo thủ, việc phá thai là một hành động trái luân lý không bao giờ có
thể chấp nhận đƣợc, đặc biệt trong tôn giáo: Sự sống một khi đã đƣợc hình
thành cần phải đƣợc bảo vệ tối đa, nạo phá thai và tội giết trẻ sơ sinh là những
tội ác ghê tởm.
Thứ hai . Ngƣợc lại, một nhóm khác lại cho rằng việc phá thai có thể
chấp nhận đƣợc vì bản thân bào thai không giữ một địa vị hay một ý nghĩa
luân lý nào đáng kể hoặc nhìn nhận theo quyền cơ bản của ngƣời phụ nữ ngƣời mẹ có toàn quyền đối với thân thể của mình (và bào thai là một phần
của thân thể ngƣời mẹ);
Thứ ba. Theo quan điểm dung hoà giữa 2 nhóm trên, việc cho phép phá
thai tùy thuộc vào các giai đoạn phát triển của bào thai với những đặc điểm
hình thành của cơ thể sống hay ở những lý do chính đáng của ngƣời phụ nữ.
Trong nghiên cứu của mình, điều mà tôi hƣớng tới là việc tìm hiểu về
vấn nạn phá thai với một cái nhìn tổng quát hơn bao gồm cả hai khía cạnh
luân lý xã hội và luật pháp . Trên thế giới, đã có không ít quốc gia duy trì luật

cấm phá thai triệt để , cũng có nhiều quốc gia cho phép naọ phá thai tự do ,
nhƣng cũng có quốc gia đứng ở vị trí trung lập khi căn cứ theo độ tuổi thai
hay nguyên nhân để cho phép naọ phá thai . Ở mỗi cách lựa chọn đều có
những điều đáng để bàn luận.
Xuất phát điểm từ thực tế các quy định về vấn đề thai nhi ở Việt Nam,
không chỉ dừng ở những quy định pháp luật, còn ở các số liệu đang ngày càng
tăng một cách đáng báo động về tỉ lệ phá thai và thực trạng nạo phá thai
không an toàn ở Việt Nam.

2


Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Quyền sống của thai nhi và
vấn đềhoàn thiện khuôn khổ pháp luật Việt Nam về phá thai” làm đề tài
nghiên cƣƣ́u của mình , với mục đích tìm hiểu thêm về những quan điểm trên
thế giới về vấn đề quyền sống của thai nhi và quy định pháp luật của các quốc
gia trên thế giới về vấn đề này . Từ đó góp phần bổ sung , hoàn thiện và phát
triển các quan điểm , chính sách , pháp luật đã có , khắc phục những hạn chế
trong nghiên cứu khoa học, đồng thời đề xuất giải pháp thực thi việc bảo đảm
trong quy định, thực tiêñ áp dụng luật về vấn đề nạo phá thai và biện pháp hạn
chế tình trạng nạo phá thai không an toàn ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về quyền con ngƣời là một vấn đề mới, song đã có sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Trong hệ
thống các quyền cơ bản của con ngƣời, quyền sống là quyền có vị trí quan
trọng luôn đƣợc nhắc đến hàng đầu,.
Tuy nhiên, quyền sống của con ngƣời đƣợc xác định kể từ thời điểm
nào vẫn còn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Trong quá trình tìm hiểu của
mình, thực tế không có nhiều tài liệu học thuật nghiên cứu một cách hệ thống,
sâu sắc về vấn đề này. Đa số là các nghiên cứu chuyên ngành y - dƣợc về biện

pháp và hậu quả của việc nạo phá thai về sức khỏe, các nghiên cứu về hệ quả
xã hội của việc nạo phá thai... Còn đề cập trực tiếp đến vấn đề này dƣới góc
độ nhìn nhận về quyền sống của thai nhi với tƣ cách là những công trình
nghiên cứu lại đặc biệt rất ít ỏi. Trong hệ thống các bài nghiên cứu đã công
bố, vấn đề đánh giá tác động pháp luật cũng hiếm khi đƣợc thể hiện nhƣ là
một đề tài độc lập, mà nó thƣờng đƣợc đề cập đến trong các bài viết, tranh
luận cá nhân. Đặc biệt khi vấn đề này đang ngày càng trở nên nóng hổi và
dành đƣợc nhiều sự quan tâm từ phía dƣ luận, số bài báo và bài viết đƣợc
đăng tải trên mạng lẫn sách báo tăng một cách đáng kể. Những cuộc tranh
luận về vấn đề này thƣờng xuất phát từ các nguồn:
3


Các bài viết của các nhóm tôn giáo về quyền của thai nhi:
-

Các lý luận bảo vệ sự sống - Bản dịch của Anthony Le;

-

Thảm nạn phá thai khi nào kết thúc – Linh mục Phaolo Nguyễn Văn

Trung;... (nguồn từ VietCatholic)
-

Tính luân lý của việc tạo sinh – Phó tế Nguyễn Văn Tâm,...

Những bài viết của cộng đồng tôn giáo thƣờng bàn luận xoay quanh
vấn đề bảo vệ sự sống của những bào thai, cũng có những bài viết nhấn mạnh
đến quyền lợi của ngƣời phụ nữ song rất hạn chế.

Các bài viết, sách tham khảo của một số các nhà nghiên cứu nhƣ:
-

Bạn nghĩ gì về việc phá thai và về các trẻ em sinh ra trong ống

nghiệm? Jacques Lacourt.
-

Sách: Tôi là ai và nêu vậy thì bao nhiêu? Một chuyến du hành triết

luận của tác giả Richard David Precht.
-

Bài viết: Does the Unborn Child Have a Right to Life? The

Insufficient Answer of the European Court of Human Rights in the Judgment
Vo v. France của Jakob Pichon;
-

Ấn phẩm: Whose right to life - Women’s rights and Prenatal Protections

under Human Rights and Comparative Law của Center for Reproductive Rights;
- Tác phẩm: Right to life-A guide to the implementation of Article 2 of

the European Convention on Human Rights của Douwe Korff;...
Những bài viết này nhắc đến vấn đề quyền sống của thai nhi là khía
cạnh gây tranh cãi trong nội hàm quyền sống và nêu ra 1 số luồng quan điểm
về vấn đề này trong xã hội , quy đinḥ luâṭpháp quốc tếvàcủa các quốc gia
song chỉ ở mức sơ sài.
Về mặt pháp lý, lịch sử hình thành và hệ thống quy định pháp luật của

các quốc gia trên thế giới về phá thai, các quy định trong luật Việt nam liên
quan đến thai nhi, pháp luật về naọ phá thai và các vấn đề về vấn nạn phá thai

4


đặc biệt là tình trạng naọ phá thai trái phép ở Việt Nam là những nguồn cơ
bản cho những nghiên cứu của luận văn này.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu tổng quát về tình hình nghiên cứu quyền sống của thai nhi
và các quan điểm trên thế giới khi trả lời câu hỏi : Thai nhi có đƣợc coi là con
ngƣời?. Từ đó tìm hiểu về quy định pháp luật Quốc tếvàcác quốc gia về vấn
đề nạo phá thai. Trên cơ sở quy định pháp luật của Việt Nam và thực trạng tồn
tại trong quá trình thực hiện quy định pháp luật về nạo phá thai và vấn đề nạo
phá thai trái phép ở Việt Nam, đƣa ra đánh giá về hệ thống chính sách, pháp
luật liên quan đến vấn đề này, từ đó đề xuất các biêṇ pháp giải quyết.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục đích nói trên, nội dung của luận văn xoay
quanh phạm vi giải quyết các vấn đề sau:
-

Nghiên cứu, làm rõ về nhận thức lý luận , các quan điểm trái chiều về

Quyền sống, vềthai nhi, vềquyền sống của thai nhi vàmối quan hê c̣với vấn đề
nạo phá thai.
-

Nghiên cứu, phân tích khuôn khổ pháp luật quốc tế về quyền sống của


thai nhi.
-

Quan điểm, chính sách, pháp luật liên quan đến việc naọ phá thai . Từ

đó đối chiếu, so sánh pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
-

Đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về nạo phá thai và thƣcc̣ trạng

nạo phá thai không an toàn ở Việt Nam hiện nay ; từ đó đƣa ra nhận định về
nguyên nhân của những bất cập trong việc Ban hành vàthực hiện các q

uy

định pháp luật.
-

Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và

đƣa vào thực hiện hiệu quả các quy định đó trong tình hình mới ở Việt Nam.

5


4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
-

Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận: Chủ nghĩa


Mac-Lenin và Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề quyền con ngƣời; quan điểm
của cộng đồng quốc tế về quyền sống của thai nhi và vấn đề nạo phá thai;
Đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta về quyền sống của thai nhi, vấn
đề nạo phá thai và việc bảo đảm thực hiện quy định pháp luật trên thực tế;

Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu:
*

Phƣơng pháp biện chứng, phƣơng pháp lịch sử;

*

Phân tích – tổng hợp: Các bài báo, bài viết về vấn đề quyền sống của

thai nhi, tình trạng phá thai và phá thai trái phép,...
*

Thống kê xã hội học: Dựa vào các số liệu từ các nguồn: Bộ y tế,

website của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam,... đánh giá mức độ đáng báo động
của nạn phá thai và nạo phá thai trái phép hiện nay;
*

So sánh, đánh giá: Trên cơ sở tìm hiểu quy định pháp luật của một số

quốc gia trên thế giới , so sánh và đƣa ra đánh giá với hệ thống luật pháp Việt
Nam vềnaọ pháthai.
5. Những nét mới của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu về vấn đề đặc biệt mới mẻ trong những
nội dung liên quan đến Quyền con ngƣời. Trong đó:

-

Phân tích, so sánh những quan điểm trên thế giới về một khía cạnh

trong nội hàm quyền sống để trả lời câu hỏi: Thai nhi đã đƣợc coi là con
ngƣời chƣa? Từ đó đƣa ra nhận định của bản thân về vấn đề này.
-

So sánh, đánh giá quy định pháp luật đƣợc quy định trên thế giới về

vấn đề nạo phá thai hiện nay, quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật
quốc tế cùng thực trạng đang gây tranh cãi của vấn đề này cùng đánh giá
nguyên nhân của thực trạng đó.
-

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng

6


đƣa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt
Nam trong điều kiện hiện nay, cũng nhƣ đƣa ra những giải pháp thực hiện
những quy định đó đạt hiệu quả lâu dài.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức
khoa học cơ bản mang tính lý luận về một khía cạnh đang gây tranh cãi trong
nội hàm của quyền sống, giúp ngƣời đọc có đƣợc cái nhìn toàn diện, đầy đủ
về quan điểm của các nhóm trên thế giới về vấn đề quyền sống của thai nhi và
điểm khác trong các quy định về nạo phá thai trong hệ thống luật của các
quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam.

Luận văn cũng nêu lên những thực trạng vấn đề nạo phá thai, nạo phá
thai trái phép, những bất cập trong việc quy định và thực thi các quy định về
vấn đề này ở Việt Nam; từ đó nêu ra một số giải pháp cơ bản hoàn thiện hệ
thống pháp luật và thực thi các quy định này một cách hiệu quả ở Việt Nam
trong thời kỳ mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
kết cấu gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: QUYỀN SỐNG CỦA THAI NHI - KHÍA CẠNH THUỘC NỘI
HÀM QUYỀN SỐNG CỦA CON NGƢỜI
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CỦA HIÊṆ TƢỢNG NẠO PHÁ THAI VÀ CỦA

CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN SỐNG CỦA THAI NHI Ở
VIỆT NAM55 – PHƢƠNG HƢỚNG GIẢI QUYẾT

7


Chương 1
QUYỀN SỐNG CỦA THAI NHI - KHÍA CẠNH THUỘC NỘI HÀM
QUYỀN SỐNG CỦA CON NGƢỜI
1.1. Khái quát vềQuyền sống của thai nhi
1.1.1. Khái niệm Quyền sống của con người
Quyền sống là quyền cơ bản và đặc biệt quan trọng của con ngƣời,
đƣợc ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế, cụ thể: Điều 3 Tuyên
ngôn Nhân quyền quốc tế năm 1948 lần đầu tiên đề cập đến quyền sống với
nội dung: “Everyone has the right to life, liberty and security of person - Mọi
người đều có quyền sống tự do và an toàn cá nhân”[8]. Với nội dung nhƣ
trên, Điều 3 Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế đã chỉ ra 3 nhóm quyền khác
nhau: Quyền và khả năng tồn tại, hay còn hiểu quyền đƣợc sống theo nghĩa

sinh học và mở rộng hơn là quyền có đƣợc điều kiện sống đảm bảo; Quyền tự
do cá nhân; Và quyền đƣợc an toàn cá nhân.
Nội dung trên tiếp tục đƣợc cụ thể hóa trong Điều 6 ICCPR Khoản 1:
“Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. “Quyền này phải được pháp
luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện”[9]. Bên
cạnh đó, một số điều ƣớc khác nhƣ CRC, CPPCG, ICSPCA, Bình luận chung
số 6 của UNHRC thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982, Bình luận
chung số 14 (phiên họp lần thứ 23 năm 1984)… cũng đã nhấn mạnh nội dung
của quyền sống với những điểm quan trọng sau:


Thứ nhất, quyền sống là một quyền cơ bản của con ngƣời

mà trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của
quốc gia, cũng không thể bị vi phạm....[3]


Thứ hai, Quyền sống không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là

sự toàn vẹn về tính mạng. Hơn thế, quyền này bao gồm cả những

8


khía cạnh nhằm bảo đảm sự tồn tại của con ngƣời. Theo cách tiếp
cận này, việc bảo đảm quyền sống còn đòi hỏi các quốc gia phải
thực thi những biện pháp để làm giảm tỉ lệ chết ở trẻ em và tăng
tuổi thọ bình quân của ngƣời dân, cụ thể nhƣ các biện pháp nhằm
xóa bỏ tình trạng suy dinh dƣỡng và các dịch bệnh... tức là bao gồm
cả các biện pháp thụ động và chủ động.[3]



Thứ ba, một trong các nguy cơ phổ biến đe dọa quyền sống

là chiến tranh và các tội phạm nghiêm trọng nhƣ diệt chủng hay tội
phạm chống nhân loại. Vì vậy, việc chống chiến tranh và các tội phạm
này cũng là sự bảo đảm quyền sống. Theo cách tiếp cận đó, việc bảo
đảm quyền sống trong Điều 6 có mối liên hệ với nghĩa vụ cấm các
hoạt động tuyên truyền chiến tranh và kích động hận thù, bạo lực nêu


Điều 20 ICCPR.[3]


Thứ tƣ, phòng chống những hành động tội phạm gây nguy

hại hoặc tƣớc đoạt tính mạng con ngƣời cũng là biện pháp hết sức
quan trọng để bảo đảm quyền sống. Các quốc gia thành viên cần
tiến hành các biện pháp phòng chống và trừng trị việc tuỳ tiện tƣớc
đoạt tính mạng con ngƣời do bất kỳ chủ thể nào gây ra, kể cả do
các lực lƣợng an ninh của nhà nƣớc. Liên quan đến vấn đề này,
việc bắt cóc ngƣời và đƣa đi mất tích cũng bị coi là một trong
những hình thức tƣớc đoạt quyền sống, do đó, các quốc gia thành
viên có nghĩa vụ đƣa ra những biện pháp và kế hoạch hiệu quả để
phòng chống và điều tra các vụ việc dạng này.[3]


Thứ năm, về mối quan hệ giữa hình phạt tử hình và quyền

sống, mặc dù ICPPR không bắt buộc các quốc gia thành viên phải xóa

bỏ hình phạt này, tuy nhiên, các quốc gia có nghĩa vụ phải hạn chế sử
dụng nó, cụ thể là chỉ đƣợc áp dụng hình phạt này với những

9


tội ác nghiêm trọng nhất, và việc giới hạn áp dụng hình phạt này
cũng đƣợc coi là một hình thức bảo đảm quyền sống. Ngoài ra, các
quốc gia thành viên mà hiện còn áp dụng hình phạt tử hình có nghĩa
vụ bảo đảm những thủ tục tố tụng trong những vụ việc bị can, bị
cáo bị xét xử với mức án tử hình phải đƣợc thực hiện một cách
công bằng nhất, trong đó bao gồm những khía cạnh nhƣ không áp
dụng hồi tố, xét xử công khai, đƣợc giả định vô tội, bảo đảm các
quyền bào chữa, kháng cáo và xin ân giảm.....[3]
Nhƣ vậy, quyền sống không phải đƣợc quốc gia trao cho mà đó là của
bản thân đã có khi là một con ngƣời. Trong quá trình thảo luận soạn thảo
Điều 3 TNQTNQ, vấn đề quyền sống đƣợc đƣa ra “với nhiều vấn đề trải dài
theo chu trình sống của một con người, từ khi còn ở giai đoạn sản xuất tế bào
tinh trùng cho đến khi chết đi, chỉ còn là một thi thể”[2]. Về nguyên tắc tất cả
các giai đoạn trong cuộc đời cá nhân một con ngƣời đều nằm trong phạm vi
điều chỉnh của Điều này song thực tế cho thấy, luôn tồn tại những khu vực
ranh giới gây tranh cãi về pháp lý mà trong khuôn khổ phần nghiên cứu này
tôi muốn đi sâu hơn về quyền sống của thai nhi, liệu phôi thai (thai nhi) có
đƣợc coi là con ngƣời và đƣợc hƣởng sự bảo vệ đặc biệt không? Xuất phát
điểm của 1 con ngƣời là khi nào: khi sinh ra hay khi vẫn còn là bào thai phụ
thuộc ngƣời mẹ? Mối liên hệ đặc biệt với khung pháp lý về nạo phá thai của
các quốc gia, đặc biệt là ở Việt nam và hệ quả là nạo phá thai không an toàn?.
1.1.2. Vấn đề quyền sống của thai nhi
Quyền đƣợc sống là một quyền con ngƣời cơ bản, trung tâm. Tuy
nhiên, Quyền đƣợc sống của thai nhi là vấn đề nằm trong ranh giới gây tranh

cãi bởi việc thừa nhận nó trong nhiều trƣờng hợp là đi ngƣợc lại với quyền tự
do riêng tƣ của ngƣời phụ nữ. Do đó, đối với sự sống của một bào thai, từ
trƣớc đến nay đa số Pháp luật quốc tế, các cơ quan nhân quyền quốc tế và khu

10


vực, cũng nhƣ tòa án trên toàn thế giới, đã thiết lập rõ ràng rằng bất kỳ biện
pháp bảo vệ bào thai trƣớc khi sinh ra phải phù hợp với các quyền con ngƣời
của phụ nữ.
Đối với pháp luật quốc gia: Một số nƣớc đã áp dụng các khuôn khổ
pháp lý khác nhau để bảo vệ sự sống trƣớc khi sinh:
-

Một số quốc gia thừa nhận sự sống trƣớc khi sinh ra là một quyền

hiến định ghi nhận trong hiến pháp quốc gia nhƣ: Guatemala và Chile.
-

Một số quốc gia hƣớng tới bảo đảm sự công bằng cho cuộc sống của

cả hai: phụ nữ mang thai và các trẻ chưa sinh nhƣ trong hiến pháp quốc gia
của Ai-len và Philippines.
-

Một số quốc gia khẳng định sự phụ thuộc của thai nhi với cơ thể

ngƣời mẹ và đặt quyền lợi bà mẹ lên trên nhƣ Ba Lan…
Môṭsốnhóm cóchiến lƣợc thúc đẩy việc công nhận quyền đƣợc sống
trƣớc khi sinh đã dƣạ vào bối cảnh mới trong quy trình lập pháp cải cách, các

sáng kiến lập pháp, tòa án và những thách thức mà tìm cách mở rộng hiến
pháp bảo vệ của quyền sống trƣớc khi sinh ở nhiều quốc gia. Ví dụ, trong
năm 2010, Cộng hòa Dominica đã thông qua một hiến pháp mới, trong đó
công nhận quyền đƣợc sống từ lúc thụ thai.
Trong năm 2008 và 2010, bang Colorado – Hoa Kỳ, và trong năm
2011, tiểu bang Mississippi đƣa sáng kiến sửa đổi hiến pháp khi đƣa ra nhận
định rằng: quan niệm về bắt đầu cuộc sống là từ lúc thụ tinh, theo đó hợp tử,
phôi và bào thai là con ngƣời có tất cả các quyền đƣợc bảo đảm cho ngƣời
dƣới hiến pháp bang của họ. Từ năm 2008, có ít nhất 16 tiểu bang Mexico đã
sửa đổi hiến pháp để bảo vệ quyền đƣợc sống từ khi thụ tinh hoặc thụ thai.
Trong năm 2007, các thành viên của Quốc hội Slovakia thách thức tính
hợp hiến của pháp luật về phá thai của nƣớc này, cho rằng hiến pháp cần bảo
vệ quyền sống trƣớc khi sinh. Tuy nhiên, Tòa án Hiến pháp Slovakia cho thấy

11


thừa nhận quyền sống của một thai nhi sẽ trực tiếp mâu thuẫn quyền hiến pháp
của phụ nữ đối với sức khỏe và sự riêng tƣ và duy trì tính hợp hiến của luật phá
thai... Điều đó cho thấy sự thay đổi trong quan niệm về khoảng thời gian bắt đầu
sự sống theo quan niệm, điều này gây ảnh hƣởng không nhỏ đến các quy định
pháp lý về các vấn đề liên quan nhƣ nạo phá thai, y tế công cộng …

1.2. Các khía cạnh liên quan đến nội dung quyền sống của thai nhi
1.2.1. Những nội dung cơ bản
Trong nhiều cuộc thảo luận của Ủy ban Nhân quyền và Ủy ban thứ ba
của Đại hội đồng về tình hình ngày nay, khởi đầu sự sống của một con ngƣời
là nội dung của quyền sống còn nhiều vấn đề gây tranh cãi đến nay chƣa có
hồi kết. Trong quá trình soạn thảo Điều 3 TNQTNQ đã có cuộc tranh luận
giữa đại diện Chilê cho rằng quyền sống cần đƣợc bảo vệ từ lúc đƣợc thụ thai

và đại diện từ Đan Mạch khi nhấn mạnh về pháp luật nhiều quốc gia cho phép
phá thai…Theo đó, đã có những điểm mâu thuẫn trong chính những văn bản
pháp lý quốc tế và khu vực. Cụ thể:
Đa số các văn bản nhƣ UD, ICCPR, ICSCR,... không đƣa ra khái niệm
hay thời điểm xác định sự bắt đầu của một con ngƣời - đối tƣợng đƣợc
hƣởng những quyền đƣợc nêu ra – Con ngƣời đƣợc thừa nhận kể từ khi nào:
Từ khi mới hình thành? Thời gian trong bụng mẹ (3 tháng, 7 tháng …) hay
phải đến khi sinh ra? Tuy nhiên, lịch sử các cuộc đàm phán về các điều khoản
của hiệp ƣớc nhân quyền qua cách sử dụng ngôn ngữ đã cho thấy quan điểm
của luật pháp quốc tế, của các cơ quan giám sát hiệp ƣớc trên cơ sở thông qua
ý kiến chung, quan sát đƣa ra kết luận, quyết định trong trƣờng hợp cá nhân,
luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của bảo vệ quyền của phụ nữ, và khẳng định
rằng để đảm bảo các quyền cơ bản của phụ nữ với cuộc sống và sức khỏe,
phải loại bỏ các rào cản để đƣợc hƣởng đầy đủ các quyền, chẳng hạn nhƣ
phá thai an toàn và hợp pháp, cụ thể:

12


Điều 1. Tuyên ngôn Nhân quyền 1948 ghi nhận: "một con người sinh
ra tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền"[8]. Trong đó, lịch sử của các
cuộc đàm phán chỉ ra rằng từ "sinh" đã đƣợc sử dụng một cách cố ý để loại
bỏ trƣờng hợp gây tranh cãi đối với thai nhi. Tuy nhiên trong quá trình soạn
thảo, việc đƣa ra quan điểm nhƣ vậy đã có nhiều ý kiến trái chiều từ các quốc
gia có khung pháp luật bảo vệ sự sống
Công ƣớc Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị trong quá trình soạn
thảo đã bác bỏ các đề xuất rằng quyền sống cần đƣợc bảo vệ đối với cả những sự
sống chƣa đƣợc sinh ra. Theo đó, Ủy Ban Nhân Quyền đã diễn giải và giám sát
tuân thủ nhà nƣớc với ICCPR, đã làm rõ thêm rằng: ICCPR bảo vệ cuộc sống
của ngƣời mẹ khi phụ nữ có nguy cơ tử vong do mang thai. Điều này đƣợc thể

hiện rõ hơn trong các vụ việc do Ủy ban đứng ra giải quyết, cụ thể:
-

Trong trƣờng hợp của KL v Peru, Ủy ban đã cho phép phá thai điều

trị khi xác định việc tiếp tục mang thai gây ra một nguy cơ đáng kể đến đời
sống và sức khỏe tâm thần của ngƣời phụ nữ mang thai, vi phạm quyền của
ngƣời phụ nữ không bị đối xử tàn ác, vô nhân đạo, hoặc xuống cấp. Các Ủy
ban Nhân quyền khẳng định lại quyết định này trong trƣờng hợp LMR v
Agentina, khi cho rằng việc từ chối nạo phá thai cho một nạn nhân bị hiếp
dâm gây ra nỗi đau thể xác và tinh thần, vi phạm quyền của ngƣời phụ nữ
đƣợc tự do từ tra tấn và tàn nhẫn, vô nhân đạo, làm ảnh hƣởng đến quá trình
điều trị, và quyền riêng tƣ của ngƣời phụ nữ.
Công ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ: Ủy
ban về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), đã diễn giải và giám sát
việc tuân thủ nhà nƣớc với Công ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử chống lại Phụ nữ (CEDAW), nhấn mạnh rằng “các nguyên tắc cơ bản của
không phân biệt đối xử và bình đẳng trong đó có yêu cầu các quyền của một
phụ nữ mang thai phải được ưu tiên hơn một quan tâm đến sự sống trước

13


khi sinh”[4]. Trong trƣờng hợp của LC v Peru, Ủy ban CEDAW thấy rằng
chính phủ đã vi phạm quyền của một cô gái mang thai bằng cách ƣu tiên cho
thai nhi hơn sức khỏe của cô bằng cách trì hoãn phẫu thuật cần thiết cho đến
khi cô gái không còn mang thai. Trong khi đó, nếu cô gái tiếp tục mang thai sẽ
gây ra một nguy cơ đáng kể đối với sức khỏe thể chất và tinh thần của cô, và
Ủy ban CEDAW cho rằng từ chối phá thai trị liệu và sự chậm trễ trong việc
cung cấp phẫu thuật thành lập và phân biệt đối xử trên cơ sở giới vi phạm các

quyền của mình đối với sức khỏe và tự do phân biệt đối xử. Ủy ban CEDAW
đã tiếp tục bày tỏ lo ngại các quyền của phụ nữ với cuộc sống và sức khỏe có
thể bị xâm phạm bởi luật hạn chế phá thai.
Tuy nhiên, một số văn bản đã bắt đầu có bƣớc tiếp cận, thậm chí khẳng
định: nhƣ CRC khi viện dẫn Tuyên ngôn về Quyền trẻ em: Điều 1 Công ƣớc
quốc tế của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em đƣợc ký ban hành ngày 20 – 11 –
1989 và có hiệu lực từ 2-9-1990 (CRC):
Trong phạm vi của Công ƣớc này, trẻ em có nghĩa là mọi
ngƣời dƣới 18 tuổi, trừ trƣờng hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó
qui định tuổi thành niên sớm hơn[7]. Và trong phần mở đầu của
Công ƣớc: Ghi nhớ rằng, nhƣ đã chỉ ra trong Tuyên ngôn về Quyền
trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần đƣợc bảo
vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý
trƣớc cũng nhƣ sau khi ra đời.[7]
Hay Công ƣớc Nhân quyền Châu Mỹ (ACHR) Điều 4 ghi nhận: “Mỗi
người đều có quyền được tôn trọng cuộc sống, quyền này được bảo vệ bởi
luật pháp và nhìn chung từ lúc thụ thai không ai bị tùy tiện tước đoạt quyền
sống”[6]. Tuy nhiên, Ủy ban Nhân quyền liên Mỹ, một trong hai cơ quan xét
xử và giám sát việc tuân thủ Công ƣớc châu Mỹ, có làm rõ rằng bảo vệ này
không phải là tuyệt đối, thực tế khi xảy ra sự việc trên thực tế:

14


Vụ án Baby – boy do Ủy ban Nhân quyền Châu Mỹ thụ lý
năm 1973 – có bản án 1981 (vụ 2141, Res.no.23/81 ngày 6 tháng 3
năm 1981) cho thấy cách giải thích quy định này của các quốc gia
châu Mỹ đều theo chiều hƣớng “đa dạng nhất các trƣờng hợp phá
thai.[5]
-


Trong án lệ của Ủy ban Nhân quyền Châu Âu có khẳng định: không

có quyền sống tuyệt đối vào đầu giai đoạn thụ thai và việc phá thai đƣợc thực
hiện theo các tiêu chuẩn y tế và xã hội là đƣợc phép trong chừng mực nhất
định … Khi xem xét liệu quy định về nạo phá thai có thể đƣợc biện minh nhƣ
sự can thiệp vào đời sống riêng không, Ủy ban Nhân quyền Châu Âu đã kết
luận: Việc mang thai không thể đƣợc coi là chỉ liên quan đến phạm vi đời
sống riêng tƣ. Bất kỳ khi nào một ngƣời phụ nữ mang thai, cuộc sống riêng
của cô ta sẽ liên hệ chặt chẽ với thai nhi đang phát triển. Do đó thai nhi đƣợc
hƣởng sự bảo vệ pháp lý nhất định và sự bảo vệ đó ngoại trừ trƣờng hợp nạo
phá thai có thể ít nhiều toàn diện hơn trong những bối cảnh khác, ví dụ,
nghiên cứu khoa học. Và chúng ta cần phải khẳng định rằng “bảo vệ” và
khẳng định có quyền là hai vấn đề khác hẳn nhau. Điều lý giải tại sao pháp
luật quốc tế còn chƣa thể khẳng định chính xác nội dung này là do: Đây thực
sự là vấn đề rất mới trong hệ thống pháp luật về quyền con ngƣời còn non trẻ.
Mặt khác, về nội dung, việc thừa nhận quyền sống của thai nhi sẽ mâu thuẫn
trực tiếp đến quyền của ngƣời mẹ, đặc biệt trong các trƣờng hợp gây nguy
hiểm đến tính mạng, sức khỏe của ngƣời mẹ bởi bào thai (thai nhi) nằm trong
bụng và có sự kết nối sự sống trực tiếp với ngƣời mẹ. Thực sự, đây là lựa
chọn rất khó khăn và gây nhiều tranh cãi, do đó, đến thời điểm này pháp luật
quốc tế mới chỉ dừng ở mức bảo vệ.
Có thể thấy, hành lang pháp lý quốc tế và khu vực đã có những mâu
thuẫn về vấn đề quyền sống của thai nhi. Và cuộc tranh luận này đang ngày

15


càng sôi nổi bởi nó liên quan trực tiếp tới một vấn đề đang đƣợc quan tâm
trong xã hội: Nạo phá thai (bởi việc nạo, phá thai là hình thức chấm dứt sự

sống của một phôi thai (thai nhi)). Nhƣ vậy, có hay không cho phép phá thai?
Quy định trong pháp luật các quốc gia và những luồng quan điểm trái chiều từ
dƣ luận ra sao?...
1.2.2. Những luồng quan điểm về vấn đề quyền sống của thai nhi
Những nỗ lực thúc đẩy công nhận quyền đƣợc sống trƣớc khi sinh
thƣờng xuyên cố gắng tận dụng sự thiếu đồng thuận với nạo phá thai từ tôn
giáo hay đạo đức và tìm cách hệ thống hóa quan điểm ý thức hệ tôn giáo về
vấn đề này. Trong nhiều trƣờng hợp, những nỗ lực đã cố tình bóp méo bằng
chứng khoa học xung quanh sự tiến triển của thời kỳ mang thai của phụ nữ.
Do vậy, khi tìm hiểu quan điểm về Quyền sống của thai nhi, cần quan tâm đến
những thành quả của y học trong nghiên cứu về thai kỳ, từ đó làm nền tảng
đƣa ra nhận định của bản thân.
1.2.2.1. Quan điểm về quyền sống thai nhi trong cộng đồng y tế - khoa học
Ngay cả trong cộng đồng y tế và khoa học cũng không đi đến một sự đồng
thuận về thời điểm cuộc sống con ngƣời bắt đầu, nhƣng nó có nhất trí về
các từ ngữ sau đây để hiểu sự tiến triển của thai của ngƣời phụ nữ:
Thụ tinh xảy ra khi một tinh trùng thâm nhập vào một tế bào trứng để
tạo thành một hợp tử. Sau khi thụ tinh, hợp tử đi qua ống dẫn trứng của một
ngƣời phụ nữ và bắt đầu phân chia thành một số tế bào, trở thành một túi
phôi. Túi phôi đến tử cung khoảng năm ngày sau khi thụ tinh.
Sự kết hợp giữa tinh trùng của nam giới và trứng của nữ giới tạo ra hợp
tử, khi hợp tử dính vào màng tử cung bắt đầu quá trình thụ thai. Trong 10 tuần
đầu tiên hợp tử đƣợc biết đến với tên gọi phôi thai, bƣớc sang tuần 11 trở đi
đến khi đứa bé trào đời gọi là thai nhi. Sự phát triển của bào thai đƣợc thể
hiện rõ dƣới bảng sau với một số điểm mốc phát triển đáng chú ý:

16


Bảng 1.1: Những mốc phát triển đáng chú ý của bào thai

Tuần

Phát triển củ

4 tuần

Kích thƣớc: Ở tuần t

đầu

đƣợc gọi là túi phôi v
mầm cây.

- Thai nhi lúc này chƣ

thành nhƣng quá trìn

ra và một quả bóng b

các tế bào đang khôn

tạo thành phôi thai và

- Ống thần kinh của b

lên bộ não, cột sống v
đƣợc hình thành.
Tuần 6

Kích thƣớc: Thai nhi


0,6cm, có kích thƣớc
Hà Lan.
Trong tuần thứ 6 của

phát triển các cơ quan

quai hàm, mũi, vòm m

Khi siêu âm ở giai đo

6, một thai nhi có thể

Tuy trái tim chỉ nhỏ b

hạt vừng nhƣng đã bắ

đập đầu tiên ở trong b
có thể đập khoảng

lần/phút, nhanh gần g

nhịp tim của mẹ và bắ

khắp cơ thể. Bộ não v
hoàn thiện dần dần.

17



Tuần Tuần thứ 9, bé chuyển động liên tục và
thứ 9 không ngừng thay đổi tƣ thế. Bƣớc sang
giai đoạn bào thai, chiếc đuôi của em bé sẽ mất
đi và những thay đổi diễn ra nhanh chóng.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc trọng
lƣợng của bé cũng
sẽ tăng rất nhanh bắt đầu từ tuần này.
Về cơ bản, hình dáng bên ngoài của bé
đã giống với con ngƣời hơn. Dù mắt

Tuần thứ 9, thai nhi bằng
quả ôliu.

vẫn còn nhắm chặt nhƣng mí mắt đã
hoàn thiện.
Khi thai nhi đƣợc 9 tuần, các cơ quan
nội tạng trong cơ thể đang đƣợc hình
thành. Các khớp nối nhƣ đầu gối, mắt
cá chân, khuỷu tay, vai, cổ tay hình
thành, giúp thai nhi cử động nhẹ nhàng
trong màng ối.
Tim thai đã hình thành từ những tuần
trƣớc đó nhƣng đến thời điểm này mới
bắt đầu đƣợc chia làm 4 ngăn và van
tim cũng bắt đầu phát triển. Khi ở trong
bụng mẹ, thai nhi nắm chặt đôi tay và
đôi khi còn ngậm ngón tay cái. Cánh
tay đã phát triển, các ngón tay đã có thể
gập lại và đặt lên phía trƣớc ngực.
Chân của bé đang dài ra và bàn chân đã

chạm vào phía trƣớc cơ thể.

18


Thời gian này thì tai,

mũi đã có những khá

thai đƣợc phát triển đ

đảm nhận công việc q
sản xuất hormone.

Khi thai nhi đƣợc 9 t

kích thƣớc khoảng 2,
tƣơng đƣơng 2g.
Tuần

Bƣớc qua thời kỳ phô

thứ 10

sang bào thai, các cơ

thai nhi vẫn đang phá
chóng mặt. Nhiều bộ

trong cơ thể em bé nh


phổi, tim… vẫn còn đ

trong thời gian tới và
mức hoàn hảo khi tha

Phần đầu của thai nhi

với chiều dài của cơ t
lồi ra một khoảng để
triển. Mắt của em bé

nhiều và vẫn chƣa m

móng chân, tóc bắt đầ

Khi thai nhi đƣợc 10

thai nhi phát triển khô

cũng chƣa phải là thờ

đến cân nặng bởi thực

phát triển rất nhanh. M

19



×