Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Điều Tra Kỹ Thuật Canh Tác Và Khảo Sát Hiện Tượng Khô Đầu Múi Trái Quýt Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

PHAN YẾN SƠN

ĐIỀU TRA KỸ THUẬT CANH TÁC VÀ KHẢO SÁT
HIỆN TƯỢNG KHÔ ĐẦU MÚI TRÁI QUÝT HỒNG
(Citrus reticulata Blanco) TẠI HUYỆN LAI VUNG,
TỈNH ĐỒNG THÁP

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC

Cần Thơ, 2010

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC

Tên đề tài:

ĐIỀU TRA KỸ THUẬT CANH TÁC VÀ KHẢO SÁT
HIỆN TƯỢNG KHÔ ĐẦU MÚI TRÁI QUÝT HỒNG
(Citrus reticulata Blanco) TẠI HUYỆN LAI VUNG,
TỈNH ĐỒNG THÁP


Giáo viên hướng dẫn:
PGS. TS Trần Văn Hâu
Ks. Phan Xuân Hà

Sinh viên thực hiện:
Phan Yến Sơn
MSSV: 3061017
Lớp: NH K32

Cần Thơ, 2010

2


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
-oOo-

Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành nông học, với đề tài:

ĐIỀU TRA KỸ THUẬT CANH TÁC VÀ KHẢO SÁT
HIỆN TƯỢNG KHÔ ĐẦU MÚI TRÁI QUÝT HỒNG
(Citrus reticulata Blanco) TẠI HUYỆN LAI VUNG,
TỈNH ĐỒNG THÁP

Sinh viên Phan Yến Sơn thực hiện

Kính trình lên hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp

3



Cần thơ, ngày

tháng

năm 2010

Cán bộ hướng dẫn

Trần Văn Hâu

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình luận văn nào trước đây.

Cần thơ, ngày

tháng

năm 2010

Phan Yến Sơn

LƯỢC SỬ CÁ NHÂN
Họ và tên: Phan Yến Sơn
Sinh ngày: 09 - 08 - 1988

4



Nơi sinh: Định Yên, Lấp Vò, Đồng Tháp
Email:
Họ và tên cha: Phan Hảo Mạng
Họ và tên mẹ: Phạm Thị Hồng Yến
Quê quán: Định Yên - Lấp Vò - Đồng Tháp
Quá trình học tập: năm 2005 - 2006 tốt nghiệp THPT trường THPT Lấp Vò I
Năm 2006 - 2010 là sinh viên trường Đại Học Cần Thơ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG
----------------------------------------------------------------------------------------------

Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn đính kèm với đề tài:

ĐIỀU TRA KỸ THUẬT CANH TÁC VÀ KHẢO SÁT
HIỆN TƯỢNG KHÔ ĐẦU MÚI TRÁI QUÝT HỒNG
5


(Citrus reticulata Blanco) TẠI HUYỆN LAI VUNG,
TỈNH ĐỒNG THÁP

Do sinh viên Phan Yến Sơn thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng.
Ý kiến của hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
Luận văn tốt nghiệp được Hội đồng đánh giá ở mức: ……………………………..

DUYỆT KHOA

Cần Thơ, ngày

Trưởng khoa Nông Nghiệp

tháng

năm 2010

Chủ tịch Hội đồng

và Sinh Học Ứng Dụng
LỜI CẢM TẠ
Kính dâng,
Cha, mẹ suốt đời tận tụy vì tương lai của con.
Thành kính ghi ơn,
PGS.Ts Trần Văn Hâu đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên em trong
suốt thời gian thực hiện và hoàn thành bài luận văn này.
Chân thành biết ơn,
Cô Phan Thị Thanh Thủy, cố vấn học tập đã quan tâm dìu dắt, chia sẽ buồn
vui, động viên và giúp đỡ em suốt khóa học.
Ks. Phan Xuân Hà đã nhiệt tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong suốt quá
trình thực hiện luận văn.
Các bạn trong lớp Nông học k32 đã giúp em hoàn thành luận văn này.

6



Chân thành cảm tạ,
Toàn thể quý thầy cô khoa Nông Nghiệp và Sinh học Ứng Dụng và trường
Đại Học Cần Thơ đã dìu dắt và truyền đạt nhiều kiến thức bổ ích cho em trong thời
gian học tại trường.
Thân ái gởi về,
Các bạn lớp Nông học k32 và ngành Nông học lời chúc sức khỏe, hạnh phúc
và thành đạt trong tương lai.

Phan Yến Sơn

MỤC LỤC
Trang
ii

LỜI CAM ĐOAN
LƯỢC SỬ CÁ NHÂN

iii

LỜI CẢM TẠ

v

MỤC LỤC

vii

DANH SÁCH HÌNH


x

DANH SÁCH BẢNG

xi

TÓM LƯỢC

xiii

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.4.1
1.4.2
1.4.3
1.4.4
1.4.5
1.4.6
1.5
1.5.1
1.5.2

1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Nguồn gốc sự phân bố của nhóm cây có múi

Nguồn gốc của cây quýt Hồng
Tình hình sản xuất cây có múi trên thế giới và trong nước
Đặc tính thực vật
Rễ
Thân, cành

Hoa
Trái
Hột
Đặc tính sinh học về sự ra hoa và đậu trái
Sự phân hóa và sự kích thích ra hoa
Sự ra hoa và đậu trái
7

3
3
4
4
5
5
6
7
7
8
8
9
9
9



1.5.3
1.5.4
1.6
1.6.1
1.6.2
1.6.3
1.6.4
1.7
1.7.1
1.7.2
1.7.3
1.7.4
1.7.5
1.7.6
1.7.7
1.7.8
1.7.9
CHƯƠNG 2
2.1
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.2
2.2.1
2.2.2
2.2.3
CHƯƠNG 3
3.1
3.1.1
3.1.2

3.1.3
3.1.4
3.1.5
3.2
3.2.1
3.2.2
3.2.3
3.3
3.3.1
3.3.2
3.4
3.4.1
3.4.2
3.5
3.6

Sự rụng trái non
Sự phát triển trái
Yêu cầu sinh thái
Khí hậu
Nước
Đất
Nhu cầu dinh dưỡng
Kỹ thuật trồng và chăm sóc
Thiết kế vườn
Chọn giống
Thời vụ trồng
Làm mô trồng
Khoảng cách trồng và kiểu trồng
Chăm sóc

Bệnh gây hại
Côn trùng và nhện gây hại
Hiện tượng khô đầu múi và biện pháp khắc phục
PHƯƠNG TIỆN PHƯƠNG PHÁP
Phương tiện thí nghiệm
Địa điểm và thời gian thí nghiệm
Dụng cụ thí nghiệm
Hóa chất
Phương pháp thí nghiệm
Điều tra
Phương pháp khảo sát hiện tượng khô đầu múi
Xử lý số liệu
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
Đặc điểm vườn
Điều kiện tự nhiên
Diện tích vườn
Tuổi cây
Mật độ
Kích thước mương liếp
Kỹ thuật trồng
Thiết kế vườn
Kỹ thuật thiết kế mô trồng
Mô hình canh tác
Kỹ thuật chăm sóc
Bón phân
Kỹ thuật chăm sóc vườn
Xử lý ra hoa
Kỹ thuật xử lý ra hoa
Hiện tượng ra chồi trong quá trình phát triển trái
Biện pháp quản lý cỏ dại

Sâu bệnh hại trên cây quýt Hồng

8

10
11
11
11
12
12
12
13
13
15
15
15
15
16
19
21
21
23
23
23
23
23
23
23
23
25

26
26
26
26
27
28
28
29
29
30
31
32
32
36
39
39
40
41
42


3.6.1
3.6.2
3.7
3.7.1
3.7.2
3.7.3
3.8
3.8.1
3.8.2

CHƯƠNG 4
4.1
4.2

TT
3.1
3.2
3.3
3.4

Côn trùng gây hại
Bệnh hại
Hiện tượng khô đầu múi trên trái quýt Hồng
Tỉ lệ khô đầu múi
Nguyên nhân và biện pháp khắc phục
Diễn biến hiện tượng khô đầu múi qua các năm
Khảo sát đặc điểm và phẩm chất trái quýt Hồng có
hiện tượng khô đầu múi
Đặc tính trái
Phẩm chất trái
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
Đề nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH SÁCH HÌNH
Tên Hình
Đất ruộng đưa lên bờ chuẩn bị bồi liếp cho vườn quýt Hồng
tại Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp tháng 9/2009
Vườn quýt Hồng để cỏ che phủ mặt liếp tại huyện Lai Vung,

tỉnh Đồng Tháp, tháng 12/2008
Hiện tượng thối rễ trên cây quýt Hồng tại huyện Lai Vung,
tỉnh Đồng Tháp tháng 12/2008
Sự khác nhau về màu sắc của các mẫu quýt thu ở những vị trí

9

42
43
44
44
45
46
47
47
48
50
50
50
51

Trang

38
42
43


3.5
3.6


khác nhau tại LaiVung, tỉnh Đồng Tháp tháng 10/2009
Hiện tượng quýt có và không có khô đầu múi tại huyện Lai Vung,
tỉnh Đồng Tháp tháng 11/2009
So sánh giữa trái quýt trái quýt khô đầu múi và không khô đầu múi
tại huyện Lai Vung tỉnh Đồng Tháp tháng 11/2009

45
47

49

DANH SÁCH BẢNG
TT

Tên Bảng

Trang

1.1

Liều lượng phân bón cho cây cam, quýt (g/cây/năm)

17

1.2

Phần trăm lượng phân bón ở từng thời điểm cho cây cam quýt

18


3.1

Điều kiện tự nhiên vùng đất trồng quýt Hồng tại huyện Lai Vung,
tỉnh Đồng Tháp được điều tra vào 12/2008

3.2
3.3

26

Diện tích vườn quýt Hồng được điều tra tại huyện Lai Vung,
tỉnh Đồng Tháp, 12/2008

27

Tuổi cây quýt Hồng được điều tra tại huyện Lai Vung,

28

tỉnh Đồng Tháp, 12/2008
3.4

Mật độ trồng quýt Hồng được điều tra tại huyện Lai Vung,

28

tỉnh Đồng Tháp, 12/2008
3.5


Kích thước mương, liếp trồng quýt Hồng của nông dân được điều tra
tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, 12/2008

3.6

Tỉ lệ (%) nông hộ được điều tra kỹ thuật thiết kế vườn quýt Hồng
tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp 12/2008

3.7

31

Mô hình canh tác quýt Hồng được điều tra tại huyện Lai Vung,
tỉnh Đồng Tháp, 12/2008

3.9

30

Tỉ lệ (%) số hộ được điều tra về kỹ thuật thiết kế mô khi
trồng quýt Hồng huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp 12/2008

3.8

29

32

Liều lượng các loại phân hữu cơ bón cho quýt Hồng ở từng thời kỳ
10



sinh trưởng được điều tra tại Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, 12/2008
3.10

Tỉ lệ (%) nông hộ được điều tra có bón phân cho quýt Hồng ở
từng thời kỳ sinh trưởng tại Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp 12/2008

3.11

38

Liều lượng vôi bón cho vườn quýt Hồng được điều tra
tại Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, 12/2008

3.15

37

Tỉ lệ (%) số hộ được điều tra về kỹ thuật bồi đất cho vườn quýt Hồng
tại Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, 12/2008

3.14

35

Tỉ lệ (%) nông hộ có tạo tán và tỉa cành sau thu hoạch được điều tra
tại Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp 12/2008

3.13


34

Liều lượng phân hóa học bón cho quýt Hồng ở từng thời kỳ sinh trưởng
được điều tra tại Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp 12/2008

3.12

33

39

Tỉ lệ (%) nông hộ được điều tra về kỹ thuật kích thích ra hoa,
tỉ lệ ra hoa, đậu trái và rụng trái non trên quýt Hồng tại Lai Vung,
tỉnh Đồng Tháp, 12/2008

3.16

40

Số lần ra chồi và tỉ lệ ra chồi (%) ở các thời điểm trong quá trình
phát triển trái được điều tra trên cây quýt Hồng tại Lai Vung,
tỉnh Đồng Tháp, 12/2008

3.17

41

Hình thức quản lý cỏ dại trong vườn quýt Hồng của nông dân
được điều tra tại Lai Vung Đồng Tháp 12/2008


3.18

Thời điểm và tỉ lệ (%) thiệt hại của một số loại sâu hại trên
cây quýt Hồng được điều tra tại Lai Vung Đồng Tháp 12/2008

3.19

44

Hiện tượng khô đầu múi trên cây quýt Hồng được điều tra
tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp 12/2008

3.21

43

Thời điểm và tỉ lệ (%) thiệt hại của một số loại bệnh trên cây
quýt Hồng được điều tra tại Lai Vung Đồng Tháp 12/2008

3.20

42

44

Nguyên nhân và cách khắc phục hiện tượng khô đầu múi trên trái
quýt Hồng theo ý kiến của nông dân được điều tra (%) tại Lai Vung,
Đồng Tháp 12/2008


3.22

45

Diễn biến hiện tượng khô đầu múi trên trái quýt Hồng được điều tra
tại huyện Lai Vung, Đồng Tháp 12/2008

3.23

Đặc tính trái quýt Hồng có và không có hiện tượng bị khô đầu múi
được thu tại Lai Vung, Đồng Tháp tháng 12/2008

3.24

46

Phẩm chất trái Quýt Hồng có và không có hiện tượng khô đầu

11

47


được thu tại Lai Vung, Đồng Tháp tháng 12/2008

48

Phan Yến Sơn, 2010 “Điều tra kỹ thuật canh tác và khảo sát hiện tượng khô
đầu múi trái quýt Hồng (Citrus reticulata Blanco) tại huyện Lai Vung, Đồng Tháp”.
Luận văn tốt nghiệp kỹ sư Nông học trường Đại Học Cần Thơ. Giáo viên hướng

dẫn PGS. TS Trần Văn Hâu.

TÓM LƯỢC
Nhằm đánh giá về hiện trạng canh tác, tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục
của hiện tượng khô đầu múi, đề tài “Điều tra và khảo sát hiện tượng khô đầu múi
trái quýt Hồng (Citrus reticulate Blanco) tại huyện Lai Vung, Đồng Tháp” đã được
tiến hành từ 25 - 12 - 2008 đến 15 - 01 - 2009. Điều tra ngẫu nhiên các hộ trồng
quýt có diện tích lớn hơn 1.000 m2 tại 3 xã có diện tích trồng quýt Hồng nhiều nhất
huyện. Tổng số phiếu điều tra 60 hộ kết quả cho thấy: tuổi cây quýt Hồng ở Lai
Vung trung bình là 6,5 ± 2,8 năm; tỉ lệ số hộ có vườn cây từ 4 - 9 năm tuổi chiếm tỉ
lệ gần 90% số hộ điều tra; mật độ trung bình 125 ± 41 cây/1.000 m2; 75%số hộ điều
tra trồng chuyên canh quýt Hồng; nông dân bón phân từ 5 - 9 lần/năm; có 4 giai
đoạn bón phân: sau thu hoạch, tưới ra hoa, tăng trưởng trái, trái trưởng thành;
78,33% số hộ được điều tra có bồi đất cho vườn quýt; 56,7% số hộ được điều tra có
bón vôi cho vườn quýt; 100% nông dân trồng Quýt Hồng tại Lai Vung đều xử lý ra
hoa; quýt Hồng ra chồi từ 1 - 3 lần trong quá trình phát triển trái; cây Quýt Hồng
thường xuất hiện một số sâu hại chính và đáng quan tâm nhất là: sâu vẽ bùa, nhện
đỏ, nhện vàng, bọ trĩ; hai bệnh mới xuất hiện là rễ tre và da trăn gây thiệt hại rất
nặng về kinh tế; 100% nông hộ trồng quýt Hồng được điều tra đều bị hiện tượng
KĐM; hiện tượng KĐM trên trái quýt Hồng có thể gây ra do nhiều nguyên nhân,
trong đó nguyên nhân do cây không đủ ánh sáng chiếm tỉ lệ cao nhất (70%), trái
quýt bị KĐM thường có kích thước trái to, vỏ dày và thô, 0Brix, TA, vitamin C đều
thấp hơn so với trái không bị hiện tượng này. Cần nghiên cứu để xác định nguyên
nhân gây ra hiện tượng KĐM và biện pháp khắc phục.
12


MỞ ĐẦU
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), một vùng đất giàu tiềm năng, thích
hợp cho việc trồng cây ăn trái. Có những vùng phù sa, nước ngọt quanh năm, cây

trái bốn mùa tươi tốt như vùng trồng cây đặc sản nổi tiếng của Vĩnh Long với địa
danh cam sành Tam Bình, bưởi Năm Roi Bình Minh; sầu riêng, chôm chôm, bòn
bon, bưởi Da Xanh Cái Mơn, Chợ Lách (Bến Tre); cam Mật Phong Điền; mận
Trung Lương, vú sữa Vĩnh Kim, xoài Cát Hòa Lộc….(Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh
Phong, 2004). Cũng góp phần vào sự đa dạng của trái cây miệt vườn sông nước
Cửu Long thì từ lâu Đồng Tháp đã nổi tiếng với nhiều loại trái ngon như quýt Hồng
Lai Vung, xoài Cao Lãnh, bưởi Phong Hòa, nhãn Châu Thành trong đó Lai Vung
được mệnh danh là “vương quốc quýt Hồng” với diện tích lớn nhất, sản lượng cũng
đứng đầu cả nước ( Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi (ven bờ sông
Hậu, tiếp giáp với Cần Thơ và Vĩnh Long) nên Lai Vung rất phù hợp với loại cây
có múi như quýt Hồng. Loại cây này được trồng nhiều ở các xã Tân Phước, Tân
Thành và Long Hậu với diện tích 1.200 ha ().
Trong đó, Long Hậu là xã trồng nhiều nhất với trên 420 ha.
Quýt Hồng có danh pháp khoa học là Citrus reticulata Blanco. Theo Nguyễn
Bảo Vệ và Lê Thanh Phong (2004) quýt Hồng được trồng cách nay không lâu, và
xuất hiện ào ạt trong thời gian gần đây. Theo Nguyễn Văn Luật (2006) quýt Hồng
có nguồn gốc ở tỉnh Phúc Châu, Trung Quốc. Thời gian từ khi trổ hoa đến khi trái
ăn được khoảng chín tháng, để cho trái có màu sắc đẹp phải mất đến 10 tháng. Tuy
quýt Hồng cũng có nhiều hột, vách múi dai, nhưng được ưa chuộng nhờ trái chín có
màu vàng cam rất đẹp nên thường được sử dụng để chưng trong dịp Tết hay đám
tiệc, vì màu vàng cam của trái quýt rất phù hợp với truyền thống của người Á Đông.
Theo phòng Nông nghiệp huyện Lai Vung (2008) thì 1.200 ha cho sản lượng
quýt là 36.000 tấn với giá bán từ 8.000 - 10.000 đ/kg. Quýt Hồng được xem là lợi
thế kinh tế của huyện Lai Vung bởi 1.000 m2 quýt cho lợi nhuận gấp 10 đến 20 lần
so với trồng lúa.Tuy nhiên trong những năm gần đây thì nổi lo đầu ra cho trái quýt
đang là một bài toán khó đối với nhà vườn, bên cạnh đó còn xuất hiện hiện tượng
khô đầu múi trên trái quýt Hồng vừa làm giảm chất lượng của trái quýt vừa ảnh
hưởng khá lớn đến giá trị thương phẩm. Nhằm hệ thống lại kỹ thuật canh tác của
nông dân để tìm ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng khô đầu múi và đề xuất biện
pháp khắc phục hiện tượng này góp phần giúp nhà vườn làm tăng hơn nữa chất


13


lượng của trái quýt Hồng Lai Vung đề tài: “Điều tra hiện trạng canh tác và khảo
sát hiện tượng khô đầu múi trái quýt Hồng (Citrus reticulata Blanco) tại huyện
Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp” đã được thực hiện. Mong muốn cùng bà con làm giàu
và đưa đặc sản quýt Hồng Lai Vung vươn xa hơn trên thị trường trong nước và thế
giới.

14


CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1

NGUỒN GỐC, SỰ PHÂN BỐ CỦA NHÓM CÂY CÓ MÚI

Khó xác định nguồn gốc của cây có múi vì có rất nhiều chủng loại và đó là
những cây trồng lâu năm có diện phân bố rộng (Vũ Công Hậu, 2000). Cam quýt nói
riêng, cây có múi nói chung là những loài trái cây phân bố rất rộng, gần như có mặt
ở hầu hết các lục địa và ở mỗi vùng tùy theo điều kiện tự nhiên mà có những giống
thích hợp, những đặc tính riêng (Nguyễn Hữu Đống, 2003). Cam quýt có sự phân
bố rộng là do khả năng dễ thích nghi với nhiều môi trường sống khác nhau; do khả
năng dễ lai tạo giữa các chủng mới có khả năng thích nghi cao hơn.
Theo Nguyễn Hữu Đống (2003) ở Châu Âu, cam quýt được trồng nhiều ven
Địa Trung Hải. Người ta trồng chủ yếu các giống cam, kéo dài từ ven biển lên đến
đồi núi bên trong hay có khi sâu vào lục địa. Ở đây có nhiều vùng trồng cam nổi
tiếng như Malaga, Gơnat,….. Ở Châu Phi, cam quýt trồng nhiều ở Ai Cập, Angiêri.

Ở Châu Mỹ, cam quýt trồng nhiều ở vùng Caribê nhất là Cuba, Nam mỹ, Trung
Mỹ, song nhiều nhất vẫn là Hoa Kỳ. Châu Úc có giống cam Tahiti là loại cam ngon
nổi tiếng bậc nhất thế giới. Còn ở Châu Á, cam quýt trồng nhiếu ở Xiri, đảo Kio,
Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Mã-lai và Việt Nam.
Việt Nam, cam quýt được trồng khắp các tỉnh từ Bắc chí Nam. Các vùng
cam quýt nổi tiếng thường là vùng đất phù sa cũ, cao, đất tương đối nhẹ ven sông.
Có nơi dân còn vực đất phù sa lên đắp các chân ruộng để trồng cam quýt. Miền Bắc
Việt Nam có vùng trồng cam nổi tiếng ven sông Thương, sông Sỏi, sông Hồng,
sông Lô, sông Ngàn Phố, sông Châu Giang, sông Thái Bình. Vùng ĐBSCL, đất
rộng người thưa có nhiều vườn cam lớn đến hai ba nghìn hecta như Tiền Giang,
Cần Thơ, Vĩnh Long….. (Nguyễn Thị Ngọc Ẩn, 1999).
Theo Anghe và Tanaka (1979 trích dẫn bởi Nguyễn Hữu Đống, 2003) vùng
phát sinh ra cam quýt có thể là Ấn Độ, Myanma. Cũng có ý kiến cho rằng nơi phát
sinh ra loài cam quýt chính là ở Trung Quốc, với lý do hiện nay ở Trung Quốc có
những giống cam chanh ngon và tốt. Nhưng nói chung, về vùng phát sinh cam quýt
hiện nay được trồng hầu khắp thế giới, các nhà khoa học đều thống nhất về đại thể
rằng là vùng Đông Nam Á kể cả lục địa và quần đảo. Những người dân lao động
vùng này đã nhặt từ trong rừng nhiều giống cây có múi có hương vị, màu sắc riêng
biệt, hoa thơm về để trồng lấy quả, làm thuốc và trang trí, qua quá trình trồng trọt
lâu đời, chúng đã xuất hiện biến dị và được chọn lọc duy trì, chăm bón cho đến
15


ngày nay. Do sống trong vùng Đông Nam Á có khí hậu nóng ẩm mà các loài cam
quýt kém chịu rét và có bộ lá xanh quanh năm (Nguyễn Hữu Đống, 2003).
1.2 NGUỒN GỐC CỦA CÂY QUÝT HỒNG
Quýt Hồng có danh pháp khoa học là Citrus reticulata Blanco, thuộc nhóm
Citrus, họ Rutaceae (Trần Thượng Tuấn và ctv., 1994), còn được gọi là quýt Tiều
(Trần Thế Tục và ctv., 1998) được trồng cách nay không lâu, và xuất hiện ào ạt
trong thời gian gần đây. Theo Nguyễn Văn Luật (2006) quýt Hồng có nguồn gốc ở

tỉnh Phúc Châu, Trung Quốc. Quýt Hồng có vỏ màu cam đậm, bề mặt vỏ láng, nổi
múi khá rõ. Trái hình cầu, dẹp hai đầu, vỏ rất dễ bóc, thịt trái màu cam đậm, mềm,
vị hơi chua hơn quýt Đường, khá nhiều nước, ít hạt. Trọng lượng trái trung bình 180
g. Quýt Hồng trước đây được trồng bằng hột lâu cho trái, người dân thường trồng
câu tháp hay chiết để mau ăn, nhất là chiết chỉ sau 2 năm là có trái chiến, nhưng tán
cây chưa lớn. Cây 5 tuổi có năng suất trung bình 27 kg/cây. Thời gian từ khi trổ hoa
đến khi trái ăn được khoảng chín tháng, để cho trái có màu sắc đẹp phải mất đến 10
tháng. Quýt Hồng có nhiều rễ chùm ăn cạn trên mặt đất, chịu úng ngập kém và dễ bị
bệnh vàng lá nên được trồng ở những nơi thoát thủy tốt (Nguyễn Đồng Quan,
1998). Tuy quýt Hồng cũng có nhiều hột, vách múi dai, nhưng được ưa chuộng nhờ
trái chín có màu vàng cam rất đẹp nên thường được sử dụng để chưng trong dịp Tết
hay đám tiệc, vì màu vàng cam của trái quýt rất phù hợp với truyền thống của người
Á Đông.
1.3 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÂY CÓ MÚI TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG
NƯỚC
 Trên thế giới
Trong những năm ở nửa sau của thế kỷ XX, sản xuất cam quýt trên thế giới
tăng nhanh. Nhu cầu đối với các loại cây có múi đang tăng và ngày càng có nhu cầu
lớn hơn. Theo tài liệu của tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên hiệp quốc
(FAO trích dẫn bởi Đường Hồng Dật, 2000) trong vòng 20 năm (từ 1975 đến 1995)
sản lượng cam quýt trên thế giới tăng từ 22 triệu lên đến 48 triệu tấn. Tổng sản
lượng cam quýt trên thế giới trong những thập niên 90 của thế kỷ XX bình quân
hàng năm là 60 - 70 triệu tấn với tổng diện tích là 6,5 triệu hecta, tập trung ở các
nước có khí hậu á nhiệt đới và một phần ở các vĩ độ cao hơn 20 - 220 Bắc và Nam
bán cầu. Giới hạn phân bố của cam quýt lên đến 350 Bắc và Nam, có khi lên đến 400
(Đường Hồng Dật, 2000).
Sản lượng cây có múi tháng 8/2007 đạt 71 triệu tấn tăng 3% so với tháng
7/2006. Trung Quốc và Brazin đứng đầu thế giới về sản xuất cây có múi với sản
lượng tương ứng là 17,6 triệu tấn và 17,1 triệu tấn. Tổng xuất khẩu cây có múi trên
thế giới tháng 8/2007 đạt 9 triệu tấn tăng 8% so với tháng 6/2007.

16


 Trong nước
Theo thống kê của ngành nông nghiệp thì đến năm 1993 diện tích trồng cam
quýt ở nước ta 27.640 ha, tăng hơn năm 1989 trên 10.000 ha (năm 1989 - 17.205
ha). Những năm gần đây diện tích trồng cam quýt ở một số nơi, nhất là ở các tỉnh
ĐBSCL tăng nhiều. Sản lượng cam quýt ở nước ta năm 1993 được thống kê là
167.778 tấn, tăng khoảng 63.000 tấn so với năm 1989 (100.998 tấn). Năm 1999 ước
tính sản lượng cam quýt trong cả nước là 300.000 tấn. Điều kiện đất đai và khí hậu
nước ta phù hợp cho phát triển sản xuất các loại cây ăn quả có múi. Theo Nguyễn
Minh Châu, viện trưởng viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam những năm gần đây
diện tích cây có múi ở ĐBSCL là 80.000 ha với sản lượng là 532.000 tấn/năm.
Thị trường thế giới có nhu cầu về cam quýt rất lớn. Nước ta nằm trong vùng
sản xuất cam quýt của thế giới nhưng chỉ sản xuất bình quân hàng năm gần 3
kg/người không đủ đáp ứng cho nhu cầu trong nước. Phát triển cam quýt để thỏa
mãn nhu cầu trong nước đang tăng lên nhanh chóng do đời sống của nhân dân đang
ngày càng được cải thiện và góp phần từng bước tăng nguồn hàng xuất khẩu là yêu
cầu cấp thiết và đang mở ra triển vọng to lớn cho nghề trồng cam quýt ở nước ta
(Đường Hồng Dật, 2000).
1.4 ĐẶC TÍNH THỰC VẬT
1.4.1 Rễ
Theo Đường Hồng Dật (2000) phần lớn rễ cam quýt phân bố ở tầng đất sâu
10 - 30 cm. Rễ hút tập trung ở tầng sâu 10 - 25 cm. Rễ hoạt động mạnh ở thời kỳ 1 8 năm tuổi sau khi trồng. Rễ cam quýt tái sinh kém và suy giảm dần sau thời kỳ cực
thịnh vào năm thứ 7 - 8.
Quýt Hồng thuộc loại rễ trụ có rễ nhánh rất phát triển. Có nấm (Micorhiza)
sống cộng sinh ở lớp biểu bì hút nước cung cấp cho cây, đồng thời cung cấp muối
khoáng và lượng nhỏ chất hữu cơ. Do đặc điểm này mà rễ thường tập trung gần lớp
đất mặt. Thích hợp với đất có sa cấu sét nhẹ, thoáng khí không bị rã khi gặp mưa.
Mỗi năm rễ có ba lần sinh trưởng phát triển và có ba cao điểm. Lần thứ nhất rễ phát

triển sau đợt cây ra hoa, ra chồi và phục hồi sinh trưởng, lần này số lượng rễ ra rất
nhiều. Lần thứ hai giữa đợt chồi hè và thu nên số lượng rễ phát triển ít. Lần thứ ba
sau khi trái và hạt đã phát dục xong (Lê Thanh Phong và ctv., 1999).
Đất vùng ĐBSCL thuờng là đất thấp, do đó các giống cam quýt trồng bằng
hột hay gốc tháp có rễ mọc sâu thường dễ bị ảnh hưởng do mực nước ngầm cao,
làm rễ cây bị suy yếu hay do ngập (nhất là trong mùa mưa). Trái lại, các cây chiết

17


hay giâm cành thường có rễ ăn cạn hơn nên ít bị ảnh hưởng (Nguyễn Bảo Vệ và Lê
Thanh Phong, 2004).
1.4.2 Thân, cành
Cam quýt thuộc loại thân gỗ, dạng bụi hay nửa bụi. Các cành trên thân mọc
dài đến chiều dài nhất định thì ngừng lại. Cây trưởng thành có thể có 4 - 6 cành
chính (Đường Hồng Dật, 2000). Nếu không chú ý tạo tán ngay từ đầu cây cam quýt
ít khi có thân chính. Tán cây cam quýt rất đa dạng: có loại tán rộng, có loại tán thưa,
phân cành hướng ngọn hoặc phân cành ngang; hình tròn, hình cầu,... Cành có thể có
gai hoặc không có gai, cũng có thể có gai khi cây còn non và rụng gai khi cây đã
lớn, già. Một số giống loài không có gai nhưng khi nhân giống bằng hạt lại xuất
hiện rất nhiều gai trên thân và cành, nhưng càng ở cấp cành cao thì ít gai và gai
ngắn (Trần Thế Tục, 2000). Các mầm bên dưới đỉnh sinh trưởng ngọn và cành thứ
cấp cũng mọc đến mức nhất định thì ngừng và tiếp tục chu kỳ cũ.
Theo Trần Thượng Tuấn và ctv. (1994) thì trong một năm cây có thể cho 3 4 đợt cành. Tùy theo chức năng của cành trên cây, chúng có thể gọi như sau:
 Cành cho trái: Là những cành mang trái, thường ra trong mùa xuân. Cành
ngắn nhỏ, mau tròn mình, dài trung bình 3 - 9 cm, trên cành có lá hoặc vết lá. Cành
cho trái mọc từ những cành lớn hơn gọi là cành mẹ. Những cành mọc ở ngọn hay
gần ngọn cành mẹ là những cành đậu trái tốt so với các cành mọc bên trong. Vì phải
tập trung chất dinh dưỡng để nuôi trái nên thường cành cho trái không tiếp tục cho
ra những cành mới, sau khi thu hoạch thường héo khô đi.

 Cành mẹ: Là cành tạo ra cành cho trái, thường phát triển mạnh trong mùa
hè và mùa thu. Cành to khỏe, lâu tròn mình. Cần nắm vững thời vụ ra cành mẹ để
có biện pháp bồi dưỡng tích cực giúp cây tạo được nhiều cành cho trái hơn trong
mùa xuân.
 Cành dinh dưỡng: Chỉ chung tất cả các loại cành trong giai đoạn chưa ra
hoa trái, thường mọc ra ở các mùa trong năm.
 Cành vượt: Là loại cành mọc thẳng lên trong tán cây từ những cành chính
hay thân. Cành mọc ra trong mùa hè, phát triển mạnh, dẹp, màu xanh, lá to bong
láng, đôi khi có gai dài. Loại cành này phát triển thường sử dụng nhiều chất dinh
dưỡng của cây mà không ích lợi nhiều, chúng lại là nơi sâu bệnh thích tấn công. Do
đó, khi cây còn tơ có thể giữ lại cành vượt để tạo khung tán, nhưng khi cây trưởng
thành thì nên cắt bỏ.
Nhìn chung, sự phát triển của cành tùy thuộc vào số trái trong năm. Trong
điều kiện tự nhiên, nếu trong năm cây sai trái thì năm sau số trái ít đi vì số lượng

18


cành mọc ra không nhiều. Do đó, cần chú ý tới bồi dưỡng cho cây sau thu hoạch để
giúp cây có đủ dinh dưỡng tạo nhiều cành mới.

1.4.3 Lá
Lá cam quýt thuộc loại lá đơn, gồm cuống, cánh và phiến lá. Phần cánh lá có
kích thước thay đổi tùy giống. Trong các loài thì bưởi có cánh lá to nhất, kế đến lá
cam, chanh, cam sành và quýt…. Trên cùng loài thì kích thước cánh lá cũng thay
đổi theo mùa. Lá có thể sống trên một năm hay hơn, tùy điều kiện khí hậu và chăm
sóc.
Lá cam quýt có hình dạng rất khác nhau, thường có hình ovan, hình trứng lộn
ngược, hình thoi. Lá thường có eo hoặc không có eo (Đường Hồng Dật, 2000). Lá
mang nhiều khí khổng (từ 400 - 500 khí khổng/mm2), tập trung nhiều nhất ở mặt

lưng. Lá còn chứa các túi tinh dầu (Lê Thanh Phong và ctv., 1999). Cây cam quýt
trưởng thành thường có 150.000 - 200.000 lá. Tổng diện tích lá khoảng 200 m2.
Tuổi thọ của lá cam quýt từ 2 - 3 năm tùy thuộc vào vị trí lá, tình trạng sinh trưởng
của cây, cành mang lá, vị trí cấp cành và tùy thuộc vào vùng sinh thái (Trần Thế
Tục, 2000).
1.4.4 Hoa
Hoa cam quýt thuộc dạng hoa đơn hay hoa chùm, mọc từ nách lá. Hoa
thường mọc trong mùa xuân, nhưng nếu gặp hạn kéo dài và sau đó có mưa hay tưới
nước thì cây cũng ra hoa rộ (như trong kỹ thuật xiết nước để kích thích ra hoa)
(Trần Thượng Tuấn và ctv., 1994). Ở ĐBSCL, hoa cam quýt mọc ở cành phát triển
vào đầu và cuối mùa mưa nên cho nhiều vụ trái trong năm (Nguyễn Bảo Vệ và Lê
Thanh Phong, 2004).
Hoa cam quýt có hình thuôn tròn, đường kính 2,5 - 4 cm, thơm và thường là
hoa lưỡng tính. Hoa có 4 - 8 cánh (thường là 5), màu trắng. Hoa có 20 - 40 nhị đực
hợp thành từng nhóm, dính liền nhau ở đáy. Đầu nướm nhụy cái to, bầu noãn có từ
8 - 15 ngăn (tạo thành các múi) dính liền nhau tại một trục giữa cái, mỗi ngăn 0 - 6
tiểu noãn (tạo thành hột) (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2004). Mầm hoa
thường bắt đầu thành lập từ sau khi thu hoạch trái đến trước khi mọc cành mùa
xuân, nhưng cũng thay đổi tùy điều kiện khí hậu. Thông thường, cây phân hóa từ
tháng 11 dương lịch đến đầu tháng 2 dương lịch năm sau (Trần Thượng Tuấn và
ctv., 1994).
Hầu hết các loài cam quýt đều tự thụ. Thường thì nhị đực và nhị cái chín
cùng một lúc và nướm có thể nhận được phấn trong thời gian kéo dài 6 - 8 ngày.
Côn trùng (ong, bướm) cũng góp phần quan trọng trong việc thụ phấn. Theo

19


Nguyễn Hữu Đống (2003) thì hoa thường ra đồng thời với cành non, trên một cây
có thể tới 60 nghìn hoa và chỉ cần 1% hoa đậu là mỗi cây có thể thu được 100 kg

quả. Thời gian từ khi ra hoa đến khi hoa tàn thay đổi tùy giống và điều kiện khí hậu,
trung bình là một tháng.
1.4.5 Trái
Trái có hình cầu dẹp ở hai đầu, đỉnh và đáy trái lõm, có từ 6 - 10 múi, mỗi
múi có từ 0 - 4 hạt, vỏ có quả màu hồng đặc trưng rất đẹp và không có lớp vỏ trắng
xốp. Mặt ngoài vỏ có lớp sừng chứa nhiều túi tinh dầu. Theo Trần Thượng Tuấn và
ctv. (1994) trái cam quýt gồm có ba phần: ngoại, trung và nội quả bì.
Ngoại quả bì: Là phần vỏ ngoài của trái, gồm biểu bì với lớp cutin dày, lớp
nhu mô, các túi tinh dầu và các khí khổng. Vỏ trái màu xanh và có khả năng quang
hợp khi trái còn xanh. Khi chín, vỏ trái đổi sang màu vàng hay cam. Màu sắc trái
khi chín ở vùng khí hậu mát (á nhiệt đới) thường đẹp, tươi hơn vùng nhiệt đới (khi
chín trái vẫn còn xanh nhạt).
Trung quả bì: Là phần vỏ trong, nằm kế ngoại bì. Đây là các lớp tế bào có
màu trắng, đôi khi màu vàng hay hồng nhạt (bưởi), dày mỏng tùy loài. Vỏ trong
chứa nhiều đường bột, vitamin C và pectin. Khi trái còn non, hàm lượng pectin cao
(20%) giúp trái hút nước dễ dàng.
Nội quả bì: Là các múi trái bao quanh bởi vách mỏng. Trong múi có nhiều
“con tép” chiếm đầy múi, chỉ chừa ít khoảng trống cho hột. Tép múi chứa đầy dịch
trái gồm đường và acid (chủ yếu là acid citric). Khi trái chín, lượng acid giảm dần,
lượng đường và chất thơm tăng lên. Tỷ lệ đường và acid thay đổi tùy loài trồng và
điều kiện canh tác. Ở các loại cam quýt, thời gian chín của trái thay đổi từ 7 - 14
tháng kể từ khi thụ phấn. Thông thường cây có thể cho nhiều hoa, nhưng chỉ một tỷ
lệ nhỏ trái phát triển được. Hoa và trái non có thể bị rụng (thời kỳ này có thể kéo dài
10 - 12 tuần sau khi hoa nở).
1.4.6 Hột
Hình dạng, kích thước, trọng lượng, số lượng hột trong trái và mỗi múi thay
đổi tùy giống (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2004). Ngoại trừ bưởi có hột
đơn phôi, hầu hết các loài cam quýt đều có hột đa phôi (cho nhiều cây con mọc từ
mỗi hột). Các phôi hữu tính hình thành do thụ tinh. Khoảng sáu phôi vô tính phát
triển từ tế bào sinh dưỡng của phôi tâm và vì vậy cây con rất giống mẹ. Cây mọc ra

từ phôi hữu tính thường yếu ớt, dễ chết. Tuy nhiên, sự thụ phấn cũng cần thiết phát
triển phôi vô tính (Lê Thanh Phong và ctv., 1999).
1.5 ĐẶC TÍNH SINH HỌC VỀ SỰ RA HOA VÀ ĐẬU TRÁI
1.5.1 Sự phân hóa và sự kích thích ra hoa
20


Sự hình thành hoa là dấu hiệu cây chuyển từ giai đoạn sinh trưởng phát triển
dinh dưỡng sang giai đoạn sinh trưởng phát triển sinh sản: chuyển hướng từ hình
thành mầm lá sang hình thành mầm hoa. Nó biểu hiện về phản ứng di truyền và
trạng thái sinh lý nhất định khi gặp điều kiện ngoại cảnh thích hợp. Sau khi cảm ứng
được mầm hoa thì hoa được hình thành và phân hóa (Phạm Văn Côn, 2003).
Theo Trần Thượng Tuấn và ctv. (1994) sự phân hóa mầm hoa thường xảy ra
sau khi thu hoạch trái đến trước lúc mọc cành mùa xuân, nói chung là thay đổi tùy
theo điều kiện khí hậu, nước. Cây thường phân hóa trong tháng 11 dl đến đầu tháng
2 dl trong năm. Trên loài cam mật Ôn châu trồng ở Nhật có thời gian phân hóa mầm
hoa kéo dài từ tháng 9 dl đến tháng 3 dl năm sau.
Mầm hoa được kích thích trong điều kiện khô hạn nhưng chỉ phát triển khi
nhiệt độ ấm lên hoặc ẩm độ đất tăng (không còn “xiết nước”). Thường cây sẽ ra hoa
sau khi tưới nước 3 - 4 tuần. Thời gian từ khi cảm ứng ra hoa đến khi hoa nở thay
đổi từng năm. Áp dụng GA3 trong giai đoạn kích thích ra hoa sẽ ngăn cản sự kích
thích và sự ra hoa tiếp theo (Davenport, 1990 trích dẫn bởi Trần Văn Hâu, 2008).
1.5.2 Sự ra hoa và đậu trái
Sự ra hoa là một bước ngoặt chuyển từ giai đoạn sinh trưởng các cơ quan
dinh dưỡng sang giai đoạn mới hình thành cơ quan sinh sản. Đây là kết quả của một
quá trình biến đổi về chất liên tục và lâu dài để có được những cơ quan sinh sản với
chức năng hoàn toàn thay đổi (Phạm Văn Côn, 2003). Theo Trần Văn Hâu (2008)
cây có múi có nhiều đợt sinh trưởng trong năm tùy theo giống. Chồi mới thường
xuất phát từ mầm ngủ của chồi bên. Chồi mới có thể ra lá, hoa hoặc vừa ra lá vừa ra
hoa. Mầm hoa không có thể nhận thấy trong giai đoạn mầm ngủ. Dấu hiệu sớm nhất

của hoa được nhìn thấy khi mầm phát triển thành chồi.
Hai đợt đâm chồi Hè và Thu chủ yếu tạo thành cành dinh dưỡng và một phần
cành quả. Người ta có thể nhìn vào đợt đâm chồi Hè và Thu mà dự đoán được năng
suất quả của năm sau. Người làm vườn có kinh nghiệm có thể dùng biện pháp kỹ
thuật canh tác như: bón phân, tưới nước, tỉa cành...để thúc đẩy phát triển mạnh về
số lượng và chất lượng của loại cành này (Đường Hồng Dật, 2003). Trên cam
Washington Navel, tỉ lệ phát triển cành cao nhất là cành mùa thu 5 tháng tuổi. Tuổi
cành càng lớn tỉ lệ phát triển cành càng giảm. Rất ít chồi xuất hiện trên cành già.
Theo Nguyễn Hữu Đống (2003) ở Việt Nam lứa hoa tốt nhất là hoa ra vào
tháng 2 - 3 (miền Bắc), tháng 5 - 6 (miền Nam). Trong một cây cành ở ngọn thường
ra hoa sớm hơn cành ở gốc. Cành sinh trưởng yếu ra hoa sớm hơn cành sinh trưởng
mạnh. Từ khi ra nụ cho đến thành hoa, thụ phấn xong và rụng đi thay đổi theo giống
và điều kiện môi trường. Nếu nhiệt độ thấp thời kỳ này kéo dài hơn nhiệt độ cao từ
3 - 6 ngày.
21


Hoa hình thành và phát triển trên cành một năm tuổi. Trên cành vượt thường
ra bông lá trong khi trên gỗ già thường ra bông không mang lá. Cây còn tơ, ra hoa
chưa ổn định thường ra hoa không tốt như cây trưởng thành. Hầu hết các loại cam
quýt đều tự thụ phấn. Một số loài quýt có đặc tính tự bất thụ là quýt Clementine,
quýt Orlando, Quýt Minneola, quýt Sunburst. Do đó, khi thiết kế vườn cần chú ý
nguồn phấn giúp cho các cây nầy đậu trái. Cây cho phấn thường được bố trí theo tỉ
lệ 3:1 hay 4:2. Côn trùng như ong mật thụ phấn hiệu quả hơn gió. Một đàn ong có
khả năng thụ phấn cho 0,8 ha diện tích trồng cây có múi (Trần Văn Hâu, 2008).
Sự đậu trái bị ảnh hưởng rất mạnh bởi nhiệt độ và sự khô hạn. Thời tiết lý
tưởng cho cây thụ phấn là: nắng, nhiệt độ vừa phải, không có gió lớn, điều kiện để
bao phấn dễ nảy nở, nẩy mầm thuận lợi, côn trùng môi giới hoạt động tốt, số lượng
hạt phấn mang đến đầu nhụy nhiều (Phạm Văn Côn, 2003). Còn theo Trần Thượng
Tuấn và ctv. (1994) tỉ lệ đậu trái bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: chất dinh

dưỡng, lượng nước cung cấp, khí hậu, sâu bệnh..... Bộ tán lá của cây cũng có ảnh
hưởng đến tỉ lệ đậu trái, nếu mỗi trái được nuôi bởi một số lá thích hợp thì sẽ phát
triến tố hơn. Ví dụ: bưởi cần khoảng 60 lá/trái, chanh khoảng 20 lá/trái, cam quýt
khoảng 50 lá/trái (trung bình là 20 - 25 lá/trái). Do đó, nên duy trì bộ tán lá khỏe,
nhiều sức giúp đậu trái tốt.
Hầu hết các loại cây có múi quan trọng đều không đều hỏi thụ phấn chéo để
đậu trái hoặc tạo trái, ngoại trừ một số loài quýt lai như “Orlando”, “Robinson”.
Tuy nhiên để tạo hạt hoặc thúc đẩy bầu noãn phát triển ở những cây có đặc tính
trinh quả sinh yếu (parthenocarpic) như cam ngọt Hamlin, nhưng đối với giống có
đặc tính trinh quả sinh mạnh như bưởi chùm Marsh có thể tạo trái ngay khi cắt chỉ
nhụy và nướm trước khi thụ phấn.
1.5.3 Sự rụng trái non
Sự rụng là sự phân tách một phần của cây như: hoa, lá, trái, cành khỏi cơ
thể mẹ. Sự rụng trái cũng là một quá trình thích ứng của cây khi thiếu chất dinh
dưỡng, nước và hoocmon cho sự sinh trưởng của chúng, buộc chúng phải rụng đi
một số lượng nhất định các trái non, để tập trung chất dinh dưỡng và hoocmon cho
những trái khác. Sự rụng của trái thường mạnh mẽ vào lúc phôi sinh trưởng nhanh
và lúc phình to của trái. Về mặt giải phẫu sự rụng trái là do sự hình thành tầng rời ở
gốc của cuống trái. Tầng rời là một vài lớp tế bào mô mềm (nhu mô) đặc biệt có đặc
trưng giải phẫu là: tế bào bé hơn, tròn, chất nguyên sinh đặc hơn, gian bào bé,
không hóa suberin và linhin. Ngoài ra yếu tố mạch dẫn thường ngắn và ở các vùng
này thường thiếu yếu tố sợi trong hệ thống dẫn…. Tất cả các cấu trúc đó làm cho
vùng tế bào này yếu hơn các vùng khác. Khi có những yếu tố cảm ứng sự rụng thì
tầng rời xuất hiện nhanh chóng. Trong lớp tế bào này xảy ra những biến đổi mạnh

22


mẽ. Biến đổi trao đổi chất theo hướng phân giải các hợp chất pectin gắn các tế bào
với nhau nhờ các enzim pectinaza. Kết quả là các tế bào rời rạc, không còn dính

nhau và trái chỉ còn được giữ lại bằng bó mạch mỏng manh. Dưới tác dụng của khối
lượng trái và các tác động cơ học như gió…thì trái có thể bị rụng dễ dàng (Vũ Văn
Vụ và ctv., 2005).
Sự rụng trái non bắt đầu sau khi ra hoa cho đến 3 - 4 tuần sau khi hoa nở. Sự
rụng trái non xãy ra nghiêm trọng khi nhiệt độ trên bề mặt lá từ 35 - 40oC hoặc khi
cây bị khô hạn. Nhiệt độ cao và sự khô hạn nghiêm trọng làm cho khí khẫu bị đóng
dẫn đến giảm sự đồng hóa khí CO2 và sự rụng trái non gây ra bởi sự mất cân bằng
của carbon (Hoàng Đức Phương, 2000).
1.5.4 Sự phát triển trái
Sự phát triển trái của cây có múi theo đường cong đơn giản, gồm ba giai
đọan như các loại trái cây khác:
(1) Giai đoạn phân chia tế bào: 4 - 6 tuần sau khi ra hoa
(2) Sự phát triển kích thước trái:
 Chanh: 2 - 3 tháng
 Cam: hơn 6 tháng
(3) Giai đoạn trưởng thành: ngắn hơn 2 tháng
Một số đặc tính của trái (như kích thước, hình dạng trái, cấu trúc và bề dày
của con tép) được xác định trong 2 tháng đầu sau khi ra hoa. Cây mang nhiều trái
ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ phát triển trái (Trần Văn Hâu, 2008).
1.6 YÊU CẦU SINH THÁI
1.6.1 Khí hậu
 Nhiệt độ
Cây có múi (cam, quýt, bưởi) có thể sống và phát triển được trong khoảng
nhiệt độ 13 - 380C, thích hợp nhất là 23 - 290C. Dưới 130C cây ngừng sinh trưởng,
dưới -50C cây sẽ bị chết. Nhiệt độ không khí ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quá
trình sinh trưởng và phát triển của cây. Theo Đường Hồng Dật (2000); Trần Thế
Tục và ctv. (1998); Hoàng Ngọc Thuận (2000) nhiệt độ đất và không khí ảnh hưởng
đến toàn bộ hoạt động của họ cam quýt như phát lộc và tái sinh cành mới, sự hoạt
động của bộ rễ…., sự chênh lệch nhiệt độ lớn giữa ngày và đêm sẽ làm cho quả phát
triển mạnh, ảnh hưởng đến khả năng vận chuyển, tích lũy đường bột và acid trong

cây và quả, tốc độ chín và màu sắc của vỏ.
 Ánh sáng
23


Quýt Hồng thích hợp với điều kiện ánh sáng tán xạ, ánh sáng có cường độ
10.000 - 15.000 Lux tương ứng với 0,6 calo/cm2, tương đương với ánh sáng lúc 8
giờ và 16 - 17 giờ vào những ngày quang mây mùa hè. Do đó nên bố trí trồng dầy
hợp lí nhằm tạo bóng râm cho cây quýt (Trần Thế Tục, 2000).
 Gió
Gió nhẹ với tốc độ 5 - 10 km/h có tác dụng hạ thấp nhiệt độ của vườn trong
mùa hè, cây được thoáng mát, giảm sâu bệnh. Khi lập vườn cây cũng cần lưu ý
hướng gió có hại (như hướng gió Tây nam ở ĐBSCL) để bố trí cây trồng chắn gió,
giúp điều hòa được không khí trong vườn, giảm đổ ngã, cây thụ phấn tốt trong mùa
hoa nở (Lê Thanh Phong và ctv, 1999).
1.6.2 Nước
Quýt Hồng có khả năng chịu ẩm và chịu hạn tốt. Đa số các loài và giống yêu
cầu nhiều nước ở các thời kỳ nảy mầm, phân hóa mầm hoa, thời kỳ kết trái và trái
phát triển. Cây cam quýt rất sợ úng, mùa mưa úng nước đất bị thiếu oxy bộ rễ hoạt
động sẽ rất kém, thối, chết, rụng lá, rụng trái non (Trần Thế Tục và ctv.,1998). Ẩm
độ và nước ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình bốc thoát hơi nước của cây, ảnh
hưởng đến sinh trưởng và nhất là làm cho vỏ dầy, ít thơm, chất lượng kém.
1.6.3 Đất
Đất vừa cung cấp nước vừa cung cấp chất dinh dưỡng cho cây. Đất trồng
cam quýt tốt nhất là đất giàu chất hữu cơ, xốp, thoáng mát, đủ nước nhưng phải
thoát nước tốt (Nguyễn Hữu Đống, 2003). Quýt Hồng là cây rất kén đất chỉ có vùng
Lai Vung là thích hợp (Trần Thế Tục và ctv., 1998) tại đây đất thông thoáng, thoát
nước tốt, hàm lượng hữu cơ cao lớn hơn 3,5%. Đất phải có tầng canh tác cao hơn 80
cm, pH đất từ 5,5 - 6,5 là thích hợp.
1.6.4 Nhu cầu dinh dưỡng

Cam quýt cần được cung cấp đầy đủ và cân đối các nguyên tố dinh dưỡng
NPK cũng như các nguyên tố vi lượng (Trần Thế Tục và ctv., 1998). Cây cam quýt
hấp thu chất dinh dưỡng quanh năm nhưng nhiều nhất là trong thời kỳ nở hoa và khi
cây đã phát triển chồi non. Trong các nguyên tố đa lượng cây hút nhiều nhất là kali,
kế đến là đạm, canxi và lân (Đỗ Thanh Ren, 2003).
 Vai trò của đạm: Đạm là nguyên tố không thể thiếu được trong quá
trình sinh trưởng và có vai trò quyết định đến năng suất, phẩm chất của quả (Đường
Hồng Dật, 2000). Đạm xúc tiến sự phát triển của cành lá. Cây cam quýt ở nước ta
hấp thụ đạm quanh năm và mạnh nhất vào những tháng ấm trời (từ tháng 2 - 12).
Thừa đạm ảnh hưởng xấu đến chất lượng quả: quả to, vỏ dày, phẩm chất quả kém,
quả lên mã chậm, màu sắc quả đậm hơn bình thường, hàm lượng vitamin C trong
24


quả giảm. Thiếu đạm lá mất diệp lục, màu ngả sang vàng, nhánh quả nhỏ mảnh, lá
bị rụng, nhánh dễ chết khô, quả nhỏ, vỏ quả mỏng, năng suất cây giảm nhiều (Trần
Thế Tục và ctv., 1998).
 Vai trò của lân: Lân cũng rất cần cho cây trong quá trình phân hóa
mầm hoa. Thiếu lân cành lá sinh trưởng kém, lá rụng nhiều, rễ không phát triển
được. Lân có ảnh hưởng rõ rệt đến phẩm chất quả, lân có tác dụng làm giảm lượng
acid trong quả, nâng cao tỉ lệ đường/acid làm cho hương vị quả thơm ngon, giảm
hàm lượng vitamin C, vỏ quả mỏng, trơn, lõi quả chặt không rỗng (Đường Hồng
Dật, 2003).
 Vai trò của kali: Theo Nguyễn Hữu Đống (2003) kali rất cần cho cây
cam quýt trong thời kỳ ra lộc non và trái phát triển mạnh. Kali ảnh hưởng rõ rệt đến
cả hai mặt: năng suất và phẩm chất trái. Cây được bón kali đầy đủ cho trái to, ngọt,
chóng chín, chịu được cất giữ vận chuyển. Ngược lại nếu thừa nguyên tố kali cây
cành sẽ sinh trưởng kém, đốt ngắn, cây không lớn được; quá nhiều kali cũng gây
hiện tượng hấp thu Ca, Mg trái tuy to nhưng xấu, vỏ dày, thịt trái thô.
Bên cạnh đó nguyên tố Ca cũng cần thiết như N, P, K, thiếu Ca lá sẽ vàng,

rụng sớm, cành non dễ bị khô (Đường Hồng Dật, 2003). Các nguyên tố vi lượng
khác có ảnh hưởng rõ rệt đến cam quýt (B, Fe, Cu, Zn, Mn,....), tùy từng loại đất và
mức độ thiếu hụt mà biểu hiện ảnh huởng này nhiều hay ít. Tuy nhiên bón đầy đủ
phân chuồng và thường xuyên có thể khắc phục được tình trạng thiếu vi lượng trong
đất.
1.7 KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC
1.7.1 Thiết kế vườn
 Địa điểm, vị trí vườn
Ở ĐBSCL, các vườn cam quýt thường được xây dựng trên đất phù sa ven
sông, nơi đây cây trồng phát triển tốt vì đa số vùng này có nước ngọt quanh năm.
Nhưng phần lớn có thể bị ngập nước hàng năm vào các tháng 9 - 10 dl, mặt khác đất
có mực thủy cấp cao, do đó khi thành lập vườn cần phải đào mương lên liếp để
nâng cao độ dày tầng đất canh tác, hạ thấp tầng phèn, hạ thấp mực thủy cấp trong
đất, tránh ngập trong mùa mưa. Mương vườn dùng để dẫn nước tưới, rửa phèn, vận
chuyển khi chăm sóc, thu hoạch và nuôi thủy sản, …..(Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh
Phong, 2004).
 Đào mương, lên liếp
Đất ở ĐBSCL thường thấp và có tầng phèn nên có tầng canh tác mỏng. Do
đó, khi thành lập vườn thì điều kiện đầu tiên cần phải quan tâm, chú ý là việc đào
mương, lên liếp cho thích hợp (Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2004). Ở
25


×