Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm trong luật hình sự việt nam ( trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.96 KB, 75 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN THỊ NHƢ QUỲNH

TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN THỊ NHƢ QUỲNH

TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
Chuyên ngành: Luật Hình sự & Tố tụng Hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng

Hà nội – 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Đoàn Thị Nhƣ Quỳnh

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

TAND

: Tòa án nhân dân


TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................ii
MỤC LỤC ...........................................................................................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM. ..................... 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm ............................................ 6
1.1.1. Khái niệm tội sản xuất, buôn bán hàng cấm ................................................................ 6
1.1.2. Các dấu hiệu cấu thành tội sản xuất, buôn bán hàng cấm ........................................... 7
1.1.3. Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng cấm với một số tội danh khác trong nhóm tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ......................................................................................... 24
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm qua từng
giai đoạn ............................................................................................................................... 30

1.2.1. Từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985 ....... 30
1.2.2. Quy định về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng cấm trong BLHS năm 1985 ......... 31
1.2.3. Quy định về tội sản xuẩt, buôn bán hàng cấm trong BLHS năm 1999 ..................... 33
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .................................................................................................. 37
Chƣơng 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BLHS VỀ TỘI SẢN XUẤT,
BUÔN BÁN HÀNG CẤM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ CÁC YÊU
CẦU, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM .................... 38
2.1. Thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm trên địa bàn
thành phố Hà Nội ................................................................................................................. 38
2.1.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế - chính trị - xã hội của thành phố Hà Nội ảnh hưởng đến
tình hình tội phạm về sản xuất, buôn bán hàng cấm ............................................................ 38
2.1.2. Tổng quan diễn biến của tội sản xuất, buôn bán hàng cấm và kết quả xét xử tại Tòa
án hai cấp thành phố Hà Nội ................................................................................................ 39
2.1.3. Những vi phạm, sai lầm trong áp dụng pháp luật và nguyên nhân ............................ 43
2.2. Các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật đối với tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm .............................................................................................................. 46

iii


2.2.1. Các yêu cầu ................................................................................................................ 46
2.2.2. Các giải pháp ............................................................................................................. 48
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .................................................................................................. 55
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 58
PHỤ LỤC

iv



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến nay, qua hơn 20
năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn và quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với sự
phát triển không ngừng về kinh tế, văn hóa- xã hội, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội. Đời sống nhân dân từng bước ổn định và ngày một nâng
cao do có sự tác động tích cực của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo bằng cơ chế quản lý kinh tế và chính sách mở cửa hội nhập quốc tế
năng động trong xu thế toàn cầu hoá. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có
những mặt trái ảnh hưởng tiêu cực và làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, trong
đó có các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh tế; với nhiệm vụ chính là sản xuất
hàng hóa, tạo điều kiện cho xã hội phát triển, hoạt động kinh tế mang ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với đất nước nhưng hiện nay, các loại tội phạm về kinh tế
lại xuất hiện ngày càng nhiều và trở nên tinh vi hơn.
Thành phố Hà Nội – Thủ đô của đất nước là một trong những thành phố
lớn tập trung đông dân cư, phát triển năng động. Từ vị trí địa lý đặc thù, thuận
lợi, cộng với nguồn nhân lực dồi dào, đa dạng, thành phố Hà Nội có những điều
kiện tốt để phát triển về kinh tế. Bên cạnh các yếu tố thuận lợi cho việc phát triển
kinh tế thì đây cũng chính là điều kiện cho một số loại tội phạm phát triển, đặc
biệt là các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà điển hình là tội sản xuất, buôn
bán hàng cấm. Trong khi đó, trên thực tế hoạt động điều tra xử lý tội phạm sản
xuất, buôn bán hàng cấm hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu trấn áp
tội phạm cũng như những diễn biến phức tạp của tội phạm.
Những năm gần đây, tội sản xuất, buôn bán hàng cấm trên địa bàn thành
phố Hà Nội có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Đồng thời việc xét xử tội

1


`


phạm này trong thực tiễn vẫn còn nhiều bất cập, các quy định của pháp luật còn
nhiều mâu thuẫn, không đồng bộ và chưa có văn bản hướng dẫn kịp thời.
Để nhận thức đúng, áp dụng thống nhất quy định của BLHS Việt Nam và
áp dụng đúng những quy định mới của BLHS về tội sản xuất, buôn bán hàng
cấm phù hợp với thực tiễn thì việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, nghiên cứu
thực tiễn áp dụng pháp luật về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm là rất quan trọng.
Qua đó xác định được những vấn đề bất cập, những hạn chế thiếu sót trong định
tội danh và quyết định hình phạt đối với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm nhằm
góp phần đáp ứng yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn đang đặt ra tại thành phố
Hà Nội hiện nay.
Bên cạnh đó, khi bắt tay vào nghiên cứu đề tài này, Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13 mới được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số
12/2017/QH14 (Sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) và có hiệu lực vào
ngày 01 tháng 01 năm 2018. Vì lẽ đó, các văn bản hướng dẫn thi hành, các công
trình nghiên cứu về đề tài này chưa nhiều.
Từ những vấn đề nêu trên, tôi lựa chọn đề tài: “Tội sản xuất, buôn bán
hàng cấm trong luật Hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn Thành
phố Hà Nội)” làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
về sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong Luật Hình sự Việt
Nam, trong thời gian qua nhiều nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề tội phạm nói
chung và tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong Luật
Hình sự Việt Nam nói riêng. Trong đó đáng chú ý là những công trình sau:
Thứ nhất, hệ thống các giáo trình, sách chuyên ngành: Giáo trình luật
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Giáo trình luật Hình sự Việt Nam, tập II, của


2

`


Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Bình luận khoa
học Bộ Luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 – Phần các tội
phạm” của TS. Phạm Mạnh Hùng do NXB Lao động xuất bản năm 2019; “Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017” của
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên);
Thứ hai, hệ thống các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ luật học: Phòng
ngừa tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm của lực lượng
cảnh sát kinh tế trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, Luận án tiến sĩ của Lê Trung
Kiên năm 2015; Điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
trên địa bàn tỉnh An Giang của Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về
TTQLKT&CV, Luận văn thạc sĩ của Học viên cao học Nguyễn Nhật Trường
năm 2007; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong Luật
Hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Cao Bằng), Luận văn
Thạc sĩ của Lục Thị Út năm 2014; Tội buôn bán hàng cấm theo Pháp luật Hình
sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ của Trần Bích Liên.
Thứ ba, hệ thống các bài viết, đề tài khoa học: “Hoàn thiện các quy định
về hình phạt đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật Hình
sự” (Tạp chí Tòa án số 3(2015) – Tác giả: Nguyễn Chí Công; “Những điểm mới
của Bộ luật Hình sự năm 2015 về nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và
một số vấn đề cần lưu ý” (Tạp chí Tòa án số 6 (2016) – Tác giả: Nguyễn Chí
Công); “Điều 155 Bộ luật Hình sự và kiến nghị hoàn thiện” (Tạp chí Tòa án số
3 (2014) – Tác giả: Lê Văn Sua).
Những Công trình kể trên đã tiến hành nghiên cứu những vấn đề mang
tính lý luận cũng như thực tiễn của tội phạm nói chung cũng như tội phạm sản

xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm nói riêng. Hiện nay cùng với sự
phát triển của đất nước, các vấn đề xã hội luôn được chú trọng, quan tâm; đặc
biệt tình hình diễn biến của tội phạm liên quan đến hàng cấm ngày càng phức tạp

3

`


và diễn ra trên diện rộng. Do vậy, nghiên cứu tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
trong luật Hình sự Việt Nam, để đánh giá thực trạng áp dụng, xác định những
khó khăn, vướng mắc để đưa ra những giải pháp nhằm áp dụng đúng các quy
định của Bộ luật Hình sự về tội phạm củng cố ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng tội sản xuất, buôn bán hàng cấm trên cơ sở thực tiễn tại
thành phố Hà Nội để đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng có hiệu quả quy
định của Bộ luật Hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn:
- Về mặt lý luận: Phân tích những vấn đề lý luận về tội phạm sản xuất
(như lịch sử lập pháp, khái niệm, đặc điểm, các dấu hiệu cấu thành tội phạm)
về Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm tại Việt Nam để người đọc có thể tiếp
cận và hình dung một cách rõ nhất về tội này.
- Về mặt thực tiễn: Đánh giá tình hình hoạt động của tội phạm này trên
cơ sở thực tiễn tại địa bàn thành phố Hà Nội. Thông qua các bản án chỉ ra
những vướng mắc trong công tác điều tra, truy tố, xét xử từ đó rút ra những
kết quả, thành tựu cũng như vướng mắc tồn tại, nguyên nhân làm phát sinh
loại tội phạm này.
- Về giải pháp: Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định

của luật hình sự Việt Nam đối với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn là tội phạm sản
xuất, buôn bán hàng cấm trong luật Hình sự Việt Nam. Luận văn nghiên cứu
thực trạng áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết các vụ án về tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm trong khung thời gian từ 2015 đến tháng 6 năm 2018.

4

`


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách
hình sự; quan điểm, đường lối xử lý đối với tội buôn bán hàng cấm.
Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự
như: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp số liệu dựa
trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của
TANDTC và VKSNDTC để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và
luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của luận văn
Luận văn phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận và các quy định của pháp
luật về tội sản xuất buôn bán hàng cấm; khái quát lịch sử pháp luật về tội sản
xuất, buôn bán hàng cấm và so sánh tội sản xuất, buôn bán hàng cấm.với một số
tội phạm về vi phạm trật tự quản lý kinh tế để làm sáng tỏ tội sản xuất, buôn bán
hàng cấm.
Đồng thời, luận văn cũng thể hiện rõ thực trạng áp dụng pháp luật, nêu
những bất cập, khó khăn, vướng mắc và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy
định của pháp luật Hình sự Việt Nam về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm.

7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 2 chương
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật Hình sự
Việt Nam về tội Sản xuất, buôn bán hàng cấm.
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về tội sản xuất, buôn
bán hàng cấm trên địa bàn thành phố Hà Nội và các yêu cầu, giải pháp bảo đảm
áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội sản xuất, buôn bán
hàng cấm

5

`


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG CẤM.
1.1. Một số vấn đề lý luận về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
1.1.1. Khái niệm tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
- Khái niệm hàng cấm:
Hàng hóa là sản phẩm do lao động tạo ra và dùng vào mục đích buôn
bán trên thị trường. Tuy nhiên mỗi loại hàng hóa có những đặc tính riêng. Có
những loại hàng hóa có tính chất đặc biệt mà việc sản xuất, lưu thông, sử
dụng các loại hàng hóa đó trên thị trường gây tác động tiêu cực đến con
người, môi trường và xã hội, gây thiệt hại nghiêm trọng đến an ninh quốc
phòng, chính trị, kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa dân tộc, môi trường và
sức khỏe của người dân thì Nhà nước quy định không được sản xuất, lưu
thông, kinh doanh, sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành , chưa được phép
sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam. Những loại hàng hóa này được liệt kê trong

danh mục cấm cá nhân, tổ chức tự do buôn bán và được gọi là “hàng cấm”.
+ Theo từ điển pháp luật hình sự: Hàng cấm là hàng hóa Nhà nước cấm
kinh doanh [73, tr 110].
+ Theo Khoản 6 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013
của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại
thì, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng có nêu: “Hàng cấm là những mặt hàng bị cấm sử dụng; hàng hóa chưa
được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam” [17, tr 13].
Danh mục các loại hàng cấm của Việt Nam có sự thay đổi theo thời
gian và thường xuyên được điều chỉnh tương thích với các đặc điểm kinh tế xã hội. Ví dụ, trước đây, một số vật nuôi và cây trồng được phép nhập về Việt

6

`


Nam nhưng hiện nay thì bị cấm. Hoặc trước đây pháo là mặt hàng được phép
nhập khẩu nhưng ngày nay lại bị cấm.
- Sản xuất hàng cấm: Được hiểu là hành vi làm ra hàng cấm bằng bất kỳ
phương pháp nào, kỹ thuật công nghệ nào.
- Buôn bán hàng cấm: Được hiểu là hành vi dùng tiền, tài sản (không
phải là tiền) hoặc các giấy tờ có giá trị như tiền để trao đổi, thanh toán lấy hàng
cấm hoặc ngược lại.
Trên cơ sơ các phân tích trên có thể đưa ra khái niệm tội sản xuất, buôn
bán hàng cấm như sau: Tội sả
n xuất, buôn bán hàng cấm là hành vi sản xuất, buôn bán những hàng hóa
mà Nhà nước cấm sản xuất, kinh doanh, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự hoặc do pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ
độc quyền quản lý của Nhà nước trong việc sản xuất, kinh doanh đối với một số
mặt hàng đặc biệt.

1.1.2. Các dấu hiệu cấu thành tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
Theo quan điểm của TS. Phạm Mạnh Hùng trong Bình luận khoa học
Bộ Luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 – Phần các tội
phạm do NXB Lao động xuất bản năm 2019 và những nghiên cứu của bản
thân, các dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng cấm được phân tích
như sau:
*Khách thể của tội phạm:
Đối tượng tác động của tội phạm là hàng cấm.Hàng cấm là hàng hóa mà
Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, hàng hóa chưa được
phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam. [17]
Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm là tội xâm phạm trật tự quản lý của
Nhà nước trong việc sản xuất, kinh doanh một số mặt hàng đặc biệt. Khách
thể trực tiếp cuả tội này là quan hệ xã hội trong lĩnh vực sản xuất, buôn bán

7

`


những hàng hóa Nhà nước độc quyền quản lý. Các mặt hàng này không
được nhà nước cho phép san xuất, lưu hành trên thị trường. Nhưng không
phải tất cả đỏ đều thuộc phạm vi đối tượng của tội này. Có những mặt hàng
cũng bị Nhà nước cấm sản xuất, lưu hành trên thị trường nhưng đã được
quy định trong những điều luật riêng: ma túy, vũ khí quân dụng, … thì
không còn là đối tượng của điều luật này nữa.
* Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở 2 hành vi sản xuất, buôn bán
hàng cấm.
Sản xuất hàng cấm: Là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động chế tạo, chế bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái

chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoặt động khác làm
ra hàng cấm.
Buôn bán hàng cấm: Là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất
khẩu, nhập khẩu và hoạt động khác đưa hàng cấm vào lưu thông.
Hành vi sản xuất, buôn bán hàng cấm cấu thành tội sản xuất, buôn bán
hàng cấm nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Sản xuất, buôn bán thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh,
cấm lưu hành, cấm sử dụng 50 kilôgam trở lên hoặc 50 lít trở lên;
- Buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu 1.500 bao trở lên;
- Sản xuất, buôn bán pháo nổ 06 kilôgam trở lên;
- Sản xuất, buôn bán hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm
lưu hành, cấm sử dụng trị giá 100.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính
50.000.000 đồng trở lên;
Thu lợi bất chính 50.000.000 trở lên là trường hợp thu được lợi ích vật
chất không chính đáng từ việc phạm tội trị giá 50.000.000 đồng trở lên.

8

`


- Sản xuất, buôn bán hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép
sử dụng tại Việt Nam trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính
100.000.000 đồng trở lên;
- Sản xuất, buôn bán hàng hóa dưới mức quy định tại các điểm a, b, c, d
và đ khoản 1 Điều 190 BLHS nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một
trong các hành vi quy định tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193,
194, 195, 196 và 200 của BLHS mà còn vi phạm.
* Dấu hiệu về nhân thân cũng được chú ý trong điều luật:

Đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi quy định tại một trong
các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của BLHS là đã bị
xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi sau đây: sản xuất, buôn
bán hàng cấm; buôn lậu; vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới;
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm; sản xuất, buôn bán hàng giả; sản xuất, buôn bán
hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gi thực phẩm; sản xuất, buôn bán hàng
giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; sản xuất, buôn bán hàng giả là thức
ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây
trồng, vật nuôi; đầu cơ; trốn thuế.
Bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi trên
đây mà còn vi phạm, nếu trước đó đã bị người có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính về một trong các hành vi trên, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là
chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn thực hiện hành vi sản xuất, buôn
bán hàng cấm.
- Sản xuất, buôn bán hàng hóa dưới mức quy định tại các điểm a, b, c, d
và đ khoản 1 Điều 190 BLHS nhưng đã bị kết án về một trong các tội quy định
tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của
BLHS, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại một trong các điều 188, 189,
190, 191, 192, 193, 194, 195 và 200 của BLHS là đã bị kết án về một trong các

9

`


tội sau đây: tội buôn lậu (Điều 188); tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ
qua biên giới (Điều 189); tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190); tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191); tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều
192); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực

phẩm (Điều 193); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc
phòng bệnh (Điều 194); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn
nuôi, phân bón thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi
(Điều 195); tội đầu cơ (Điều 196); tội trốn thuế (Điều 200).
Bị coi là đã bị kết án về một trong các tội trên đây, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm nếu người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội đã bị Tòa án
kết án về một trong các tội trên, nhưng chưa được xóa án tích theo quy định của
BLHS mà lại thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng cấm.
Cần lưu ý, hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa mà nhà nước cấm
kinh doanh nhưng hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa đó thỏa mãn dấu
hiệu của một trong các tội được quy định tại một trong các điều 232, 234,
244, 246, 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 BLHS, thì người
thực hiện hành vi đó không bị truy cứu TNHS về tội sản xuất, buôn bán
hàng cấm mà bị truy cứu TNHS về một trong các tội tương ứng được quy
định tại các điều luật cụ thể đó của BLHS. Cụ thể là, tùy từng trường hợp,
người thực hiện hành vi có thể bị truy cứu TNHS về một trong các tội sau
đây: Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản (Điều 232);
tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234); tội vi phạm
quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244); tội nhập khẩu,
phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 246); tội sản xuất trái phép chất ma
túy (Điều 248); tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251); tội mua bán
tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 253); tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc

10

`


sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 254); tội chế tạo, mua bán

trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304); tộ chế
tạo, mua bán trái phép vật liệu nổ (Điều 305); tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ,
vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ và các vũ khí khác có tính năng tác dụng
tương tự (Điều 306); tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, phát tán,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân (Điều
309); tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép
chất cháy, chất độc (Điều 311).
* Về cấu thành tăng nặng:
- Các dấu hiệu khác thuộc về mặt khách quan của CTTP không đóng vai
trò định tội mà chỉ đóng vai trò là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt hoặc
đóng vai trò là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS. Về thủ đoạn phạm tội
đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm: các đối tượng
phạm tội sử dụng nhiều thủ đoạn phạm tội khác nhau, từ đơn giản đến tinh vi,
với cách thức quy mô từ nhỏ lẻ, phân tán đến sản xuất hàng loạt, có tổ chức...
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Lỗi cố ý được quy định tại
Điều 10 BLHS 2015. Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
và mong muốn thực hiện hành vi đó.
Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm, lỗi cố ý thể hiện ở chỗ: Người
phạm tội hoặc người có thẩm quyền thực hiện hành vi phạm tội nhân danh pháp
nhân thương mại nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
* Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm là người đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực TNHS và
pháp nhân thương mại thỏa mãn điều kiện được quy định tại Điều 75 BLHS.

11


`


Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm này không có gì đặc biệt so với các
tội phạm khác, chỉ cần người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi
nhất định theo quy định của pháp luật là có thể trở thành chủ thể của tội phạm
này. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự 2015 về tuổi chịu trách nhiệm
hình sự thì người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này. Khoản 2
Điều 12 liệt kê về các tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổ phải chịu
trách nhiệm hình dự thì tội phạm này không được liệt kê, bởi vậy, người phạm
tội sản xuất, buôn bán hàng cấm chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
khi họ trên 16 tuổi.
Ngoài chủ thể là cá nhân, pháp nhân thương mại cũng là đối tượng phải
chịu TNHS. Đây là quy định hoàn toàn mới, mang tính đột phá của BLHS năm
2015 so với quy định của BLHS năm 1999. Pháp nhân thương mại phải chịu
TNHS khi thỏa mãn một trong các điểm quy định tại Điều 75 BLHS năm 2015
như sau:
“1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các
điều kiện sau đây:
a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp
thuận của pháp nhân thương mại;
d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2
và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.”
2. Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ
trách nhiệm hình sự của cá nhân.”
*Hình phạt đối với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm và các điểm mới
của BLHS 2015 so với BLHS 1999
So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

cũng quy định 02 loại hình phạt đối với tội buôn bán hàng cấm là hình phạt

12

`


chính và hình phạt bổ sung. Điều 190 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm
2017 quy định 03 khung hình phạt đối với cá nhân phạm tội buôn bán hàng
cấm (tương đồng với BLHS năm 1999) và 04 khung hình phạt đối với pháp
nhân thương mại phạm tội thì từ khung 1 đến khung 3 (từ khoản 1 đến khoản
3 Điều 190 BLHS) tương đồng nhau. Trong đó khung 1 (quy định tại khoản
1) là khung cơ bản, khung 2 và khung 3 (quy định tại khoản 2 và khoản 3) lần
lượt là khung tăng nặng thứ nhất và khung tăng nặng thứ hai với nhiều tình
tiết định khung tăng nặng khác nhau.
Hình phạt chính được áp dụng đối với cá nhân gồm hình phạt tiền và
hình phạt tù có thời hạn. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội gồm hình
phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Hình phạt chính của tội buôn bán hàng cấm theo khung hình phạt cơ
bản: Khung hình phạt cơ bản được áp dụng đối với trường hợp phạm tội
không có tình tiết định khung tăng nặng. Hình phạt chính được áp dụng đối
với cá nhân phạm tội gồm hình phạt tiền và hình phạt tù có thời hạn. Đối với
pháp nhân thương mại phạm tội hình phạt chính chỉ là hình phạt tiền.
Khung hình phạt cơ bản được quy định trong BLHS năm 2015 sửa đổi
bổ sung năm 2017 nặng hơn so với BLHS năm 1999
a) Hình phạt đối với người phạm tội
* Khung hình phạt tại khoản 1:
Người phạm tội bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000
đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. (Được áp dụng đối với trường hợp
phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan)

Hình phạt chính của tội buôn bán hàng cấm theo khung hình phạt tăng
nặng thứ nhất: BLHS năm 2015 bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính vào
khoản 2 của điều luật. Đây là một trong những quy định thể chế hóa chính
sách hình sự của Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp

13

`


là “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý nghười
phạm tội, giảm bớt các hình phạt nghiêm khắc như tử hình, tù chung thân;
tăng các hình phạt không tước quyền tự do của công dân như phạt tiền, cải tạo
không giam giữ” [3, tr 4].
Hình phạt chính của tội buôn bán hàng cấm theo khung hình phạt tăng
nặng thứ nhất đối với cá nhân gồm hình phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến
3.000.000.000 đồng (BLHS năm 1999 không quy định hình phạt tiền trong
khung tăng nặng thứ nhất) hoặc hình phạt tù có thời hạn từ 05 năm đến 10
năm (BLHS năm 1999 quy định từ 03 năm tháng đến 10 năm). Đối với pháp
nhân thương mại phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng.
Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất được quy định tại khoản 2 Điều
190 BLHS, áp dụng cho những trường hợp phạm tội sau:
* Khung hình phạt tại khoản 2:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến
10 năm:
- Có tổ chức:
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm.
Trong thực tế, sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội

phạm có thể được thể hiện dưới các dạng sau đây: Những người đồng phạm
đã tham gia một tổ chức phạm tội; những người đồng phạm đã cùng nhau
phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước; những người đồng
phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm
theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện
hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm.
Trường hợp phạm tội có tổ chức mà người phạm tội là người đồng
phạm cùng với những người khác thực hiện tội phạm 02 lần trở lên theo một

14

`


kế hoạch thống nhất trước mà những lần đó chưa bị xử lý về hình sự, chưa hết
thời hiệu truy cứu TNHS, được đưa ra truy tố xét xử cùng một lúc, thì cùng
với việc bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt “có tổ chức”. người phạm
tội còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội 02 lần trở lên” được
quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn:
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được quy định tại Chương XXIII phần
các tội phạm về chức vụ. Theo đó Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội
là trường hợp người có chức vụ, quyền hạn sử dụng chức vụ, quyền hạn của
mình để thực hiện hành vi phạm tội.
Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm thì đây là trường hợp mà chủ
thể đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình khi thực hiện hành vi phạm tội.
- Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức:
Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để phạm tội là trường hợp người
làm việc trong cơ quan, tổ chức hoặc được cơ quan, tổ chức giao làm việc gì
đó đã sử dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi phạm tội.

- Có tính chất chuyên nghiệp:
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS; đồng thời là
tình tiết định khung hình phạt quy định tại 6/13 tội xâm phạm sở hữu thuộc
chương XVI BLHS và một số tội phạm khác như: Tội sản xuất trái phép
chất ma túy (Điều 248); Tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
(Điều 214); Tội gian lận bảo hiểm y tế (Điều 215); Tội Sản xuất, mua bán,
trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục
đích trái pháp luật (Điều 285) …
Theo đó phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp” là phạm tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm từ 05 lần trở lên, không phân biệt đã bị truy cứu TNHS

15

`


hay chưa bị truy cứu TNHS nếu chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa
được xóa án tích và người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc
phạm tội làm nguồn sống chính.
Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp đồng thời thuộc
trường hợp phạm tội có tổ chức, tái phạm nguy hiểm, thì người phạm tội phải
bị áp dụng them tình tiết định khung hình phạt “có tổ chức”, “tái phạm nguy
hiểm” theo quy định tại điểm a, 1 khoản 2 Điều 190 BLHS.
Trường hợp phạm tội sản xuất, buôn bán hàng cấm có tính chất chuyên
nghiệp nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều
190 BLHS, thì người phạm tội phải bị truy cứu TNHS theo quy định tại các
điểm tương ứng của khoản 3 Điều 190 BLHS, đồng thời bị áp dụng tình tiết
tăng nặng TNHS “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” theo quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS.

- Thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành,
cấm sử dụng từ 100 kilôgam đến dưới 300 kilôgam hoặc từ 100 lít đến dưới
300 lít: Đây là trường hợp phạm tội mà vật phạm pháp là thuốc bảo vệ thực
vật có số lượng từ 100 kg đến dưới mức 300 kg hoặc từ 100 lít đến dưới mức
300 lít
- Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao: Đây là
trường hợp phạm tội mà vật phạm pháp là thuốc lá điệu nhập lậu có số lượng
từ 3.000 bao đến dưới mức 4.500 bao;
- Pháo nổ từ 40 kilôgam đến dưới 120 kilôgam: Đây là trường hợp
phạm tội mà vật phạm pháp là pháo nổ có số lượng từ 40 kg đến dưới mức
120 kg;
- Hàng hóa khác mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử
dụng trị giá từ 300 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc thu lợi bất chính
từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng: Đây là trường hợp phạm tội mà

16

`


vật phạm pháp là hàng hóa khác không thuộc các trường hợp ở trên mà Nhà
nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng trị giá từ 300 triệu đồng
đến dưới mức 500 triệu đồng hoặc người phạm tội thu lợi bất chính từ 200
triệu đồng đến dưới mức 500 triệu đồng;
- Hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt
Nam trị giá từ 500 triệu đồng đến dưới 01 tỷ đồng hoặc thu lợi bất chính từ
300 triệu đồng đến dưới 700 triệu đồng: Đây là trường hợp phạm tội mà vật
phạm pháp không thuộc các trường hợp nói trên mà là hàng hóa chưa được
phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam có trị giá từ 500 triệu
đồng đến dưới mức 01 tỷ đồng hoặc người phạm tội thu lợi bất chính từ 300

triệu đồng đến dưới mức 700 triệu đồng;
- Buôn bán qua biên giới, trừ hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu;
Buôn bán hàng cấm qua biên giới là trường hợp người phạm tội đưa
hàng cấm ra khỏi biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không và
trong long đất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc ngược lại
để trao đổi lấy tiền hoặc hàng hóa khác trái với các quy định của pháp luật.
Cũng được coi là buôn bán qua biên giới nếu người phạm tội đã hoàn thành
các thủ tục thông quan đối với hàng cấm đó.
Tuy nhiên, đối với hành vi buôn bán hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu
qua biên giới thì không áp dụng tình tiết định khung hình phạt “buôn bán qua
biên giới” theo quy định tại điểm k khoản 2 Điều 190 BLHS đối với người
thực hiện hành vi mà tùy từng trường hợp xử lý như sau: Nếu người có hành
vi buôn bán hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu dưới 1.500 bao và không thuộc
trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 BLHS thì không truy cứu
TNHS đối với người đó; nếu buôn bán hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu từ
3.000 bao đến dưới 4.500 bao thì truy cứu TNHS đối với người thực hiện
hành vi theo điểm e khoản 2 Điều 190 BLHS; nếu buôn bán hàng hóa là thuốc

17

`


lá điếu nhập lậu từ 4.500 bao trở lên thì truy cứu TNHS đối với người thực
hiện hành vi theo điểm b khoản 3 Điều 190 BLHS.
- Tái phạm nguy hiểm:
Điều 53 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tái phạm, tái phạm nguy
hiểm như sau:
“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại
thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội

phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm
tội do cố ư.”
Như vậy, theo bộ luật hnh sự các trường hợp được coi là tái phạm nguy
hiểm có thể hiểu như sau:
- Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, chưa được
xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.
- Đã tái phạm, chưa được xóa án mà lại phạm tội do cố ý. Đối với
trường hợp này, người phạm tội khi bị tòa án kết luận có tái phạm và đã bị kết
án, khi chưa được xóa án tích mà lại phạm tội thì sẽ bị coi là tái phạm nguy
hiểm, không phân biệt tội ít nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng.
Khoản 3 điều 9 Bộ luật hình sự 2015 định nghĩa tội phạm rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng như sau:
“3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ
luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;

18

`


4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do
Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung

thân hoặc tử hình.”
Có thể thấy một trong những điều kiện quan trọng để có thể coi là tái
phạm nguy hiểm đó là người phạm tội đã phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng hoặc đã bị kết án tái phạm mà vẫn tiếp tục phạm tội trong thời
gian chưa được xóa án tích.
Theo đó, đối với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm thì tái phạm nguy
hiểm ở đây là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại
thực hiện hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng cấm được quy định tại
một trong các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k khoản 2 Điều 190 BLHS hoặc đã
tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm được quy định tại khoản 1 hoặc một trong các điểm a, b,
c, d, đ, e, g, h, I, k khoản 2 Điều 190 BLHS.
Trường hợp phạm tội vừa là tái phạm nguy hiểm vừa thuộc một trong
các trường hợp được quy định tại một trong các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, I, k
khoản 2 Điều 190 BLHS, thì cùng với việc áp dụng tình tiết định khung hình
phạt :tái phạm nguy hiểm” theo điểm 1 khoản 2 Điều 190 BLHS, người phạm
tội còn phải bị áp dụng điểm tương ứng trong khoản 2 Điều 190 BlHs.
Ví dụ: người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội buôn bán pháo nổ
100 kilôgam thì người phạm tội phải bị áp dụng cả 02 tình tiết định khung
hình phạt tại điểm g, l khoản 2 Điều 190 BLHS.
Trường hợp người phạm tội bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích

19

`



×