Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

NIEN LUAN CHINH THUC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.19 KB, 39 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bất cứ giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng, cán bộ và công
tác cán bộ cũng đều giữ bị trí đặc biệt quan trọng, cán bộ là một trong
những nhân tố cơ bản quyết định thành công hay thất bại của cách mạng.
Qua hơn 20 năm đổi mới, đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) của
nước ta không ngừng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng; kiến thức
về năng lực thực tiễn không ngừng được nâng lên, hầu hết có bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định lập trường, quyết tâm thực hiện công cuộc
đổi mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, có tâm huyết và hoài bão
góp phần xây dựng và phát triển đất nước toàn diện và thu hoạch được
nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và quốc
phòng an ninh...
Để thực hiện thành công công cuộc đổi mới trong thời kỳ hội nhập và
phát triển, trong đó có vấn đề cải cách hành chính nói chung, cũng như cải
cách các thủ tục hành chính nói riêng thì một trong những vấn đề quan
trọng là cần giáo dục, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ
CBCC, có như vậy mới có thể đáp ứng được nhu cầu công tác trong thời kỳ
mới.
Trong phạm vi là niên luận của đề tài nghiên cứu, chắc chắn sẽ không
phản ánh được hết các mặt mạnh cũng như những hạn chế của CBCC đã và
đang diễn ra trong thực tế. Kính mong quý Thầy, Cô và bạn đọc tiếp tục
góp ý để niên luận được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô giáo trong Hội đồng Đào tạo
Trường Đại học Luật, đặc biệt là cô Nguyễn Thị Nữ đã giúp đỡ em làm tốt
niên luận này.

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Trong gần 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất vinh dự và tự hào
được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện trong thời gian rất dài,
Đảng đã tiếp thu và vận dụng tư tưởng, quan điểm của Người về vai trò của
cán bộ vào công tác xây dựng Đảng và vào quá trình lãnh đạo cách mạng
nên Đảng ta ngày càng lớn mạnh, đưa nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Trong suốt thời gian đó, Đảng luôn coi trọng và đánh giá rất cao
vai trò của cán bộ. Điều đó được thể hiện xuyên suốt và nhất quán trong
các văn kiện của Đảng, các Nghị quyết của Đảng và của cấp uỷ các cấp.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Đảng ta nhận định: Vấn đề cán
bộ có tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn bộ công tác Đảng... Cán bộ
quyết định hết thẩy.
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, cùng với việc đưa ra
quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã đưa ra quan
điểm chỉ đạo đổi mới cán bộ, nhất là cán bộ quản lý các cấp, và khẳng
định: Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà
Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách
mạng.
Hiện nay đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đang trên con đường hội nhập với nền kinh tế, văn hóa, xã hội của khu
vực và quốc tế. Chính vì vậy đòi hỏi Đảng và Nhà nước có những đường
lối, chính sách xây dựng hoàn thiện mọi mặt về kinh tế xã hội để xây dựng
đất nước kiên định trong mục tiêu đã đặt ra. Và để đạt được mục tiêu đó thì
đội ngũ cán bộ công chức có vai trò rất quan trọng. Chức năng và nhiệm vụ
của Nhà nước có hoàn thành không? Chương trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước được đảm bảo thực hiện hay không? v.v... đều được quyết
định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả họat động của đội ngũ cán bộ
công chức. Từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới sâu
sắc trong mọi lĩnh vực, Đảng đã xác định: “Đất nước ta bước vào thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhiệm vụ chính trị rất nặng nề,
khó khăn và phức tạp đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng một đội ngũ cán bộ

công chức ngang tầm góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
2


VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước đã chỉ rõ “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã dày công đào tạo, huấn luyện và xây dựng được một đội ngũ cán bộ tận
tuỵ, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách
mạng”.
Với trách nhiệm của mình trong quá trình lãnh đạo công tác cán bộ,
trong những năm qua, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành nhiều Nghị
quyết, nhiều chủ trương về công tác cán bộ; các cấp, các ngành, cơ quan
đơn vị và các địa phương có nhiều quan tâm đối với lực lượng cán bộ từ
khâu tuyển dụng, bố trí, sử dụng, quy hoạch đạo tạo, chính sách cán bộ.
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cùng với sự phát triển chung của
đất nước sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tỉnh Thừa Thiên
Huế đã được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực.
Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XIII
kiểm điểm giữa nhiệm kỳ 2005-2010 đã nhận định: nền kinh tế - xã hội tiếp
tục tăng trưởng ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 13%, thu
nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 780 USD, thu ngân sách đạt 2.000
tỷ đồng; quốc phòng an ninh, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống của nhân dân được cải

thiện và ngày càng phát triển, vị thế tỉnh nhà ngày càng được khẳng định
trong vùng kinh tế trọng điểm miền trung và cả nước. Những thành tựu nêu
trên là sự nổ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ, của quân và dân trên địa bàn
toàn tỉnh, trong đó có sự đóng góp quan trọng và tích cực của đội ngũ cán
bộ, công chức tỉnh nhà.
Tuy vậy, trong quá trình kinh tế đang phát triển như hiện nay cuộc
sống của nhân dân được nâng cao thì nạn tham ô, tha hóa, biến chất của
một số bộ phận cán bộ công chức (CBCC) có xu hướng tăng. Thực trạng về
chất lượng của đội ngũ CBCC còn nhiều bất cập, yếu kém đòi hỏi các tổ
chức Đảng, Nhà Nước và đoàn thể cần nghiên cứu, tìm ra những khuyết
điểm và nguyên nhân của nó. Từ đó, có các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ cho CBCC, tránh sự tụt hậu ngày càng xa so với yêu cầu
phát triển của thời kỳ hội nhập. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý,
3


xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cần nhìn nhận lại đội ngũ cán bộ công
chức hiện nay và tìm ra giải pháp để giải quyết khắc phục những gì còn
vướng mắc là vấn đề rất cấp thiết.
Với ý nghĩa trên, bản thân tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công chức tại tỉnh Thừa Thiên Huế”.
2. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là thông qua các cứu văn bản
của Đảng và Nhà nước về công tác quản lý, sử dụng, tuyển dụng CBCC nói
chung và tại tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng, căn cứ tình hình thực tiễn tại
địa phương để đánh giá thực trạng đội ngũ CBCC, đưa ra những giải pháp
khắc phục và nâng cao hơn nữa năng lực đội ngũ cán bộ công chức tại tỉnh
Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm nâng cao
hơn nữa trách nhiệm của cán bộ công chức, cũng qua đó để Đảng và cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý cán bộ công chức nhìn nhận lại
công tác quản lý cán bộ công chức của mình đã đạt được hiệu quả chưa.
Cần khắc phục những gì để tìm ra được giải pháp tích cực góp phần xây
dựng quê hương, đất nước ngày càng phát triển.
3. Nhiệm vụ của đề tài:
Chính sự cấp thiết của đề tài là cần làm rõ tình hình đội ngũ CBCC
hiện nay như thế nào, đặc biệt là CBCC ở cơ sở đã đáp ứng đầy đủ về số
lượng, chất lượng hay chưa? Việc áp dụng văn bản pháp luật vào thực tiễn
để xử lý công việc hằng ngày đã nghiêm túc chưa? Những quy định của
pháp luật về quản lý, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo CBCC trong giai đoạn
hiện nay đã đầy đủ và phù hợp với thực tiễn hay không? Qua đó người
nghiên cứu kiến nghị những giải pháp để góp phần vào công cuộc xây dựng
đội ngũ CBCC vừa hồng, vừa chuyên, đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH đất
nước trong thời gian đến.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Từ thực tiễn đến lý luận trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi vận
dụng phương pháp nghiên cứu dựa trên lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh kết hợp với phương pháp so sánh, thống kê, phương pháp phân
tích tổng hợp.
5. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của của đề tài được
trình bày thành 3 chương:
4


Chương 1: Những vấn đề chung về cán bộ công chức.
Chương 2:Thực trạng đội ngũ cán bộ công chức tại tỉnh Thừa Thiên
Huế trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nâng cao năng lực đội ngũ
cán bộ công chức tại tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay.


5


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁN BỘ CÔNG CHỨC
1.1 Khái niệm về cán bộ công chức:
Công chức là một khái niệm có trong pháp luật của hầu hết các quốc
gia trên thế giới, nhằm để chỉ những người làm việc thường xuyên trong bộ
máy Nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên
khái niệm công chức ở các quốc gia khác nhau cũng có những điểm khác
nhau, vì phạm vi khái niệm công chức phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Chính trị, lịch sử, kinh tế-xã hội...Do đó có quốc gia quan niệm công chức
là tất cả những người làm việc trong cơ quan Nhà nước và hưởng lương từ
ngân sách Nhà nước. Có quốc gia lại quy địng công chức chỉ bao gồm
những người làm việc trong hệ thống cơ quan hành pháp; có quốc gia lại
mở rộng khái niệm công chức bao gồm tất cả những người làm việc trong
cơ quan hành pháp và ở các đơn vị dịch vụ công.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam quy định mọi mặt về phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội để hướng mọi người
sông và làm việc theo pháp luật, trong có quy định của pháp luật về nghĩa
vụ của cán bộ công chức. Theo điều 4: Luật cán bộ công chức, bao gồm:
1.Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt
nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương( sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh ( sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2.Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,

chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan,
đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân dân chuyên
nghiệp, công dân quốc phòng, trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quan lí của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ( sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập) trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, đối
6


với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lí của đơn vị sự nghiệp công
lập thì lương được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp của công
lập theo quy định của pháp luật.
3.Cán bộ xã, phường, thị trấn ( sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử, giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, UBND, Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ công chức là những người làm việc trong cơ quan bộ máy Nhà
nước và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, nên đội ngũ CBCC được quy
định cụ thể từ công tác tuyển dụng đến khi hưởng chế độ hưu trí và quy
định nhưỡng quyền, nghĩa vụ, công tác tổ chức,quản lý xây dựng đội ngũ
CBCC được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật. Cán bộ công chức
làm việc trong biên chế được hưởng lương trong ngân sách Nhà nước nên
chịu giám sự giám, quản lý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền dưới các
hình thức được cụ thể hóa dưới dạng pháp lệnh, Nghị định,quy định chế tài
để CBCC tuân thủ thực hiện. Ngoài ra, CBCC còn chịu sự giám sát của
nhân dân.

1.2 Vấn đề tuyển dụng cán bộ công chức:
Tuyển dụng CBCC là việc tuyển vào cơ quan Nhà nước sau khi đạt
kết quả của kỳ thi tuyển, việc tuyển CBCC do cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền tiến hành căn cứ như cầu công việc, vị trí công tác của các chức
danh CBCC trong cơ quan tổ chức mình và chỉ tiêu biên chế được giao.
Việc tuyển dụng cán bộ công chức phù hợp với trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, phải tuân những quy định của pháp luật và đảm nhiệm công
việc, chức danh chuyên môn theo Nghị định hướng dẫn của chính phủ về
việc thi hành pháp lệnh CBCC.
Tuyển dụng CBCC là việc quan trong và được pháp luật quy định chặt
chẽ như căn cứ vào nhu cầu công việc, trình độ chuyên môn để có chế độ
phân bổ phù hợp với những CBCC. Người được tuyển dụng phải có phẩm
chất đạo đức, đáp ứng tiêu chuẩn nghiệp vụ và phải trải qua thi tuyển theo
quy định của pháp luật.
Sau khi đạt kết quả thi tuyển người được tuyển dụng phải thực hiện
chế độ tập sự. Hết thời gian tập sự, người đứng đầu cơ quan tổ chức đơn vị
sử dụng CBCC đánh giá phẩm chất đạo đức và kết quả công việc của người
7


đó, nếu đạt yêu cầu thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết
định bổ nhiệm chính thức vào ngạch. Pháp luật quy định như vậy tạo cơ
chế quản lý chặt chẽ, đánh giá đúng năng lực của mỗi CBCC, góp phần vào
việc tìm ra những nhân tài, có phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực
chuyên vững vàng, góp phần trẻ hóa đội ngũ CBCC, đáp ứng nhu cầu
CNH, HĐH đất nước. Qua đây, cũng sàng lọc và loại bỏ những CBCC mất
phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn kém, từng bước hoàn thiện công
tác tuyển dụng cán bộ ngày càng tốt hơn.
1.3 Bầu cử cán bộ công chức:
Bầu cử được áp dụng trong trường hợp cần trao cho CBCC đảm

nhiệm một chức vụ nhất định trong thời gian nhất định (theo nhiệm kỳ).
Việc bầu cử để đưa những người đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
phù hợp, bảo đảm mọi quyền lợi khi họ thực hiện công việc được bổ nhiệm
và được hưởng mọi chế độ như bảo hiểm xã hội, chế độ tiền lương... Việc
bầu cử phải tuân theo quy định của hiến pháp, luật tổ chức Quốc hội, luật tổ
chức Chính phủ, luật tổ chức HĐND và UBND,….
Bầu cử là dựa vào sự tín nhiệm của mọi người để bầu ra những người
giữ chức vụ chuyên môn nhất định. Do vậy việc bầu cử CBCC phải phù
hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng được nhu cầu của
xã hội.
1.4 Vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức
Đất nước ngày càng phát triển, do vậy trình độ của đội ngũ CBCC là
một mối quan tâm hàng đầu để đáp ứng được nhu cầu phát triển toàn diện
của đất nước trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc
phòng an ninh.
Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý CBCC có trách nhiệm xây
dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn
và nâng cao trình độ, năng lực CBCC. Theo khoản 1 điều 48 Luật cán bộ
công chức: Nội dung, chương trình, hình thức, thời gian đào tạo, bồi dưỡng
công chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh chức vụ lãnh đạo, quản lý
tiêu chuẩn của ngạch công chức và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.
Trong tình hình hiện nay CBCC phải đủ trình độ để đảm nhiệm và
hoàn thành tốt công việc, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước. Để
đạt được điều này, việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ CBCC phải
được thực hiện thường xuyên. Nhà nước cần có những chính sách hợp lý để
8


tạo điều kiện thuận lợi cho CBCC đi học tập nhằm đáp ứng đủ số lượng,

đạt chất lượng, hoàn thành tôt công việc được giao.
1.5 Về điều động, biệt phái:
Trong công tác quản lý đội ngũ CBCC, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm mục đích quản lý CBCC
được chặt chẽ đảm bảo được đội ngũ CBCC ngày càng vững mạnh. Trong
đó điều động, biệt phái cũng là một hình thức quản lý CBCC.
- Điều động là trường hợp CBCC được giao một công tác khác ở một
cơ quan tổ chức khác. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý CBCC có
quyền điều động cán bộ, công chức đến làm việc tại cơ quan tổ chức ở TW
hoặc địa phương theo yêu cầu của nhiệm vụ, công vụ. Việc điều động
CBCC đến làm việc tại cơ quan tổ chức ở TW hoặc địa phương phải tuân
thủ các nguyên tắc quản lý CBCC và bảo đảm quyền lợi của CBCC được
điều động. Theo điều 50 Luật cán bộ công chức.
- Biệt phái là trường hợp CBCC đến làm việc có thời hạn ở cơ quan,
tổ chức khác theo yêu cầu nhiệm vụ, công vụ. Tại điều 53 Luật Cán bộ
công chức: Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức biệt phái công chức
đến làm việc ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác theo yêu cầu nhiệm vụ. Thời
hạn biệt phái không quá 03 năm, trừ một số ngành, lĩnh vực do Chính phủ
quy định công chức biệt phái phải chấp hành phân công công tác của cơ
quan, tổ chức, đơn vị nơi cử đến biệt phái. Không thực hiện biệt phái công
chức nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Điều động, biệt phái cán bộ công chức được pháp luật quy định khá cụ
thể đáp ứng được số lượng CBCC trong cơ quan, tổ chức ở TW hoặc địa
phương.
1.6 Hưu trí, thôi việc:
Nhằm đảm bảo cho công việc đạt hiệu quả, tương ứng với trình độ
cũng như nhiệm vụ được giao, trong quá trình làm việc của CBCC được
pháp luật quy định rõ độ tuổi để CBCC về hưu hoặc được hưởng chế độ
hưu trí, thôi việc đảm bảo đúng quyền lợi của mỗi người theo quy định của
Bộ Luật lao động.

Việc mỗi CBCC tùy theo mỗi ngành, nghề, mỗi công việc mà quy
định độ tuổi được hưởng hưu trí thôi việc khác nhau. Dù vậy đều phải đảm
bảo đúng nguyên tắc của cơ quan, tổ chức sử dụng cán bộ có nhu cầu,
CBCC tự nguyện và có đủ sức khỏe để tiếp tục làm việc, đảm bảo công
việc được giao thì có thể kéo dài thêm thời gian làm việc. Trường hợp do
9


yêu cầu công việc ở một số ngành nghề và vị trí công tác thì thời gian công
tác của CBCC đã có đủ điều kiện được hưởng chế độ hưu trí có thể kéo dài
thêm nhưng không quý 5 năm. Trong trường hợp đặc biệt thì có thể kéo dài
thêm.
Theo quy định tại điều 6 luật CBCC, có đủ điều kiện về tuổi đời và
thời gian đóng BHXH tạị điều 145 của bộ luật lao động thì được hưởng chế
độ hưu trí và các chế độ khác quy định tại điều 146 của bộ luật lao động.
Hiện nay việc quy định chế độ hưu trí thôi việc được quy định một
cách rõ ràng cụ thể đảm bảo tốt quyền lợi cũng như cuộc sống của CBCC,
tránh tình trạng CBCC đang làm vào tình trạng lão hóa.
Tại điều 59 Luật Cán bộ công chức quy định: Công chức được hưởng
chế độ thôi việc nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Do sắp xếp tổ chức; theo nguyện vọng và được cấp có thẩm quyền
đồng ý; theo quy định tại khoản 3 Điều 58 của luật Cán bộ công chức.
Công chức xin thôi việc theo nguyện vọng thì phải làm đơn gửi cơ
quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xem xét, quy định. Trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày nhận được đơn, cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền
phải trả lời bằng văn bản, nếu không đồng ý cho thôi việc thì phải nêu rõ lí
do, trường hợp chưa được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền đồng ý
mà tự ý bỏ việc thì không được hưởng chế độ thôi việc và phải bồi thường
chi phí đào tạo, bồi dưỡng theo quy định của pháp luật.
Không giải quyết thôi việc đối với công chức đang trong thời gian

xem xét kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Không giải quyết thôi việc đối với công chức nữ đang mang thai hoặc
nuôi con dưới 36 tháng tuổi, trừ trường hợp xin thôi việc theo nguyện
vọng.
Ngoài việc quy định các chính sách chế độ còn quy định việc xử lý kỷ
luật của CBCC khi tự ý bỏ việc thì không được hưởng chế độ thôi việc và
quyền lợi khác, phải bồi thường chi phí đào tạo theo quy định của pháp
luật. Quy định chặt chẽ như vậy để cho mỗi CBCC thấy được sai lầm của
mình khi bị kỷ luật và có hình thức kỷ luật đúng đắn khi áp dụng cho họ để
họ khắc phục những sai lầm, khuyết điểm của mình. Trong thời gian đang
bị xem xét kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì CBCC không
được thôi việc trước khi họ có quyết định xử lý.
1.7 Quản lý cán bộ công chức:

10


Quản lý cán bộ công chức là hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt góp
phần vào việc nâng cao hiệu lực của Nhà nước. Nội dung quản lý CBCC
được quy định tại Điều 65 Luật Cán bộ công chức: Nội dung quản lý cán
bộ công chức bao gồm: Bna hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật về cán bộ, công chức; xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ,
công chức; Quy định chức danh và cơ cấu cán bộ; Quy định ngạch, chức
danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức
để xác định số lượng biên chế; các công tác khác liên quan đến quản lý cán
bộ, công chức quy định tại luật này;
Cơ quan có thẩm quyền của Đảng CSVN, Ủy ban thường vụ quốc hội,
chính phủ quy định cụ thể nội dung quản lý cán bộ, công chức quy định tại
điều này.
Việc quản lý CBCC được thực hiện theo quy định phân cấp của Đảng

Cộng Sản Việt Nam và của Nhà nước. Quản lý CBCC là nhiệm vụ rất quan
trọng của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm góp phần vào công cuộc
xây dựng đất nước. Hiện nay, việc quản lý CBCC cần phải có sự đổi mới,
đặc biệt là trong vấn đề phân cấp quản lý đồng thời cần phải sửa đổi bổ
sung hoàn thiện hơn nữa văn bản pháp luật để tạo điều kiện cho việc quản
lý CBCC có hiệu quả hơn.

11


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC
TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Khái quát chung về thực trạng đội ngũ cán bộ công chức hiện
nay:
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải xây dựng
được một đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức, đủ tài đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ. Sau hơn hai mươi năm đổi mới,chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ,
công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách
mạng; có kiến thức, trình độ và năng lực hoạt động thực tiễn, đã góp phần
quan trọng vào những thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Bên
cạnh những kết quả đã đạt được, đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn bất
cập, hẫng hụt về một số mặt như: tri thức và năng lực quản lý nhà nước về
xã hội, kinh tế thị trường, pháp luật, hành chính, kỹ năng thực thi công vụ
cũng như khả năng vận dụng khoa học công nghệ hiện đại trong công tác
quản lý... Mặt khác, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một
bộ phận cán bộ, công chức còn yếu, còn có hiện tượng quan liêu, tham
nhũng gây nên những tiêu cực trong thi hành công vụ, làm giảm hiệu lực
của bộ máy nhà nước. So với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập sâu, rộng vào kinh tế thế giới thì với thực trạng
đội ngũ cán bộ, công chức như hiện nay, rõ ràng là vẫn còn một số điểm
hạn chế. Để khắc phục các hạn chế này, Đảng và Nhà nước ta đang triển
khai các chương trình nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đặc
biệt là đối với cán bộ công chức hành chính nhà nước.
2.2 Thực trạng đội ngũ cán bộ công chức tại tỉnh Thừa Thiên Huế
trong giai đoạn hiện nay
2.2.1 Đặc điểm, tình hình
Tỉnh Thừa Thiên Huế nằm ở duyên hải miền trung Việt Nam bao gồm
phần đất liền và phần lãnh hải thuộc thềm lục địa biển Đông.
Thừa Thiên Huế có chung ranh giới đất liền với tỉnh Quảng Trị,
Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và
giáp biển Đông.

12


Thừa Thiên Huế có diện tích 5.062,59km 2 (số liệu thống kê năm
2008), kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, nơi dài nhất 120 km (dọc
bờ biển), nơi ngắn nhất 44 km (phần phía Tây); mở rộng chiều ngang theo
hướng Đông Bắc - Tây Nam với nơi rộng nhất dọc tuyến cắt từ xã Quảng
Công (Quảng Điền), thị trấn Tứ Hạ (Hương Trà) đến xã Sơn Thủy - Ba Lé
(A Lưới) 65km và nơi hẹp nhất là khối đất cực Nam chỉ khoảng 2-3km.
Phần thềm lục địa biển Đông của Thừa Thiên Huế kéo dài tự nhiên từ
đất liền đến đường cơ sở rộng 12 hải lý gọi là vùng nội thủy. Chiều rộng
vùng nội thủy của thềm lục địa Thừa Thiên Huế được tính theo đường
thẳng nối liền điểm A11 (đảo Cồn Cỏ, Quảng Trị) với tọa độ 17 010'00'' vĩ
Bắc và 107000'26" kinh Đông đến điểm A10 (đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi) với
tọa độ 15023'01'' vĩ Bắc và 109009'00" kinh Đông. Vùng đặc quyền kinh tế

mở rộng đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Vị trí địa lý như trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Thừa Thiên Huế
phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng giao lưu kinh tế - xã hội với các
tỉnh trong cả nước và quốc tế.
Thừa Thiên Huế là tỉnh cực Nam của miền duyên hải Bắc Trung bộ,
nằm gọn trong phạm vi 15059’30”-16044’30” vĩ Bắc và thuộc vùng nội chí
tuyến nên thừa hưởng chế độ bức xạ phong phú, nền nhiệt độ cao, đặc
trưng cho chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Mặt khác, do nằm ở
trung đoạn Việt Nam, lại bị dãy núi trung bình Bạch Mã án ngữ theo
phương á vĩ tuyến ở phía Nam nên khí hậu Thừa Thiên Huế mang đậm nét
vùng chuyển tiếp khí hậu giữa hai miền Nam - Bắc nước ta.
Tính đến năm 2010, dân số tỉnh Thừa Thiên Huế có 1.090.9 người. Về
phân bố, có 401.628 người sinh sống ở thành thị và 746.696 người sinh
sống ở vùng nông thôn.
Trong các dân tộc thiểu số sinh sống ở Thừa Thiên Huế thì các dân
tộc: Cơtu, Tà Ôi, Bru-Vân Kiều được xem là người bản địa sinh sống ở
phía Tây của tỉnh. Trải qua quá trình sinh sống lâu dài, các dân tộc này đã
tạo cho mình bản lĩnh dân tộc và nét văn hóa đặc trưng, thống nhất trong đa
dạng, làm nên một tiểu vùng văn hoá ở phía tây tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế Được tách ra từ tỉnh Bình Trị Thiên năm 1989, tỉnh
Thừa Thiên Huế hiện nay có diện tích tự nhiên là 5.062,59 km2, bao gồm
thành phố Huế và 6 huyện, 2 thị xã, 151 xã, phường, thị trấn (119 xã, 24
phường và 9 thị trấn) (số liệu thống kê năm 20010).

13


Thành phố Huế có diện tích tự nhiên là 83,3 km2, tiếp giáp với các
huyện Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang. Dân số: 350.400 người (2003),
mật độ dân số bình quân 4.200 người/km 2. Toàn thành phố có 27 đơn vị

hành chính, bao gồm 27 phường.
Huyện A lưới là huyện vùng cao của tỉnh Thừa Thiên Huế có diện
tích tự nhiên 1.232,70 km2. Dân số: 42.490 người (2010), mật độ dân số
bình quân 34,4 người/km2; có các dân tộc chính như: Cơtu, Tà ôi, Kinh.
Toàn huyện có 21 đơn vị hành chính, bao gồm 20 xã và 1 thị trấn.
Thị xã Hương Thủy có diện tích tự nhiên là 458,17km2, dân số toàn
thị xã 96.525 người (2010), mật độ dân số bình quân 211 người/km 2. Toàn
huyện có 12 đơn vị hành chính, gồm 5 phường và 7 xã.
Thị xã Hương Trà có diện tích tự nhiên là 518,53 km2, dân số
118.534 người, mật độ dân số bình quân 228 người/km 2. Toàn huyện có 16
đơn vị hành chính, bao gồm 7 phường và 9 xã.
Huyện Nam Đông có tổng diện tích tự nhiên 650,5 km 2. Dân số
20.700 người, trong đó người Cơtu chiếm 42% dân số. Mật độ dân số bình
quân 32 người/km2. Toàn huyện có 10 xã và 01 thị trấn; trong đó có 07 xã
đặc biệt khó khăn, 6 xã là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 70%.
Huyện Phong Điền có diện tích tự nhiên là 953,99 Km2. Dân số:
107.122 người, mật độ dân số bình quân 112,3 người/km 2. Toàn huyện có
16 đơn vị hành chính, bao gồm 15 xã và 01 thị trấn.
Huyện Phú Lộc có diện tích tự nhiên 729.56 km 2. Dân số: 151.636
người, mật độ dân số bình quân 207,8 người/km 2. Toàn huyện có 18 đơn vị
hành chính, bao gồm 16 xã và 2 thị trấn.
Huyện Phú Vang có diện tích tự nhiên 279,87 km2. Dân số: 176.896
người, mật độ dân số bình quân 632,1 người/km 2. Toàn huyện có 20 đơn vị
hành chính, bao gồm 19 xã và 1 thị trấn.
Huyện Quảng Điền có diện tích tự nhiên 163,29 km 2, Dân số trung
bình 91.799 người, mật độ dân số bình quân 562,2 người/km 2. Toàn huyện
có 11 đơn vị hành chính, bao gồm 10 xã và 01 thị trấn.

14



Các chỉ tiêu tổng hợp chủ yếu về phát triển kinh tế xã hội giai
đoạn năm 2006-2010
CHỈ TIÊU
Tổng giá trị sản xuất (GO) - (triệu
đồng)

2006

2007

16.110.569 20.016.034

Tổng sản phẩm
GDP- Giá thực tế (triệu đồng)

8.518.803

10.260.965

GDP - Giá so sánh năm 1994

3.934.037

4.469.622

Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%)
Giá trị sản xuất nông nghiệp theo
giá thực tế (triệu đồng)
Giá trị sản xuất nông nghiệp theo

giá so sánh năm 1994 (triệu đồng)

13,4
1.617.371

1.950.044

911.713

932.809

Sản lượng lương thực có hạt (tấn)
Giá trị sản xuất lâm nghiệp theo
gia so sánh (triệu đồng)

259.857

266.180

119.598

123.487

Diện tích rừng trồng tập trung (ha)
Giá trị sản xuất thủy sản theo giá
so sánh (triệu đồng)
Giá trị sản xuất công nghiệp theo
giá so sánh năm 1994 (triệu đồng)
Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản
(triệu đồng)

Tổng giá trị xuất khẩu (1000
USD)
Tổng giá trị nhập khẩu (1000
USD)

3.890

4.749,70

533.581

534.026

3.385.639

4.040.999

4.544.900

5.448.000

61.233

80.881

49.243

54.683

456.354


593.500

Tổng thu ngân sách (triệu đồng)

1.294.287

1.554.453

Tổng chi ngân sách (triệu đồng)

1.896.812

1.950.740

Doanh thu du lịch (triệu đồng)

2.2.2 Thực trạng đội ngũ cán bộ công chức tại tỉnh Thừa Thiên
Huế trong giai đoạn hiện nay
15


2.2.2.1. Những thành tựu đạt được:
Qua hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về chiến lược cán bộ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và các chủ trương
của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về cán bộ
và công tác cán bộ. Đến nay toàn tỉnh hiện có 24.702 cán bộ, công chức,
viên chức (thuộc đảng, chính quyền, đoàn thể); có 2.073 đồng chí tham gia
cấp uỷ, trong đó 574 đồng chí có trình độ chuyên môn Đại học và cao

đẳng, 333 đồng chí có trình độ trung cấp; 342 đồng chí có trình độ lý luận
chính trị cao cấp và cử nhân, 908 có trình độ lý luận chính trị trung cấp; cán
bộ nữ 320 đồng chí; cán bộ dân tộc ít người 335 đồng chí. Đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức có sự chuyển biến nhanh cả về số lượng và chất
lượng, nhiều cán bộ được đào tạo cơ bản, trưởng thành, có triển vọng phát
triển tốt, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số tăng.
Cán bộ lực lượng vũ trang gồm 417 đồng chí; là lực lượng bảo vệ
Đảng, chính quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa, luôn có quan điểm lập
trường vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với chế độ, ý thức cảnh
giác cách mạng, tổ chức kỷ luật cao, chịu đựng gian khó, trình độ năng lực
chỉ huy thực hiện nhiệm vụ được nâng lên.
Cán bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ có trên 319 tiến sĩ, 96 giáo sư,
phó giáo sư, trên 700 thạc sĩ và nhiều cán bộ khoa học hoạt động trên các
lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống; phát triển
nhanh về số lượng, có nhiệt tình, tâm huyết, có năng lực sáng tạo, tiếp thu
khoa học công nghệ mới trên nhiều lĩnh vực, nhiều công trình khoa học
được triển khai trên địa bàn góp phần vào thành quả toàn diện của tỉnh.
Cán bộ trong các doanh nghiệp với 518 đồng chí, luôn năng động,
nhanh nhạy, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất kinh doanh; tích cực
trong quan hệ với cấp ủy địa phương, phối hợp thực hiện công tác xây
dựng Đảng, quốc phòng, an ninh và các hoạt động xã hội.
Cán bộ chủ chốt cấp xã, phường (Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó
chủ tịch HĐND, UBND) 956 đồng chí.
Đến nay số cán bộ trẻ là đại biểu HĐND cấp huyện chiếm 8,28 %;
cấp xã phường 21,02 %; đội ngũ cán bộ trẻ cấp huyện, tỉnh là 159/687
đ/c chiếm 23,1%.
Đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác thanh niên

16



- Cấp tỉnh: 50% cán bộ dưới 30 tuổi; 38,2 % cán bộ từ 31 đến 35
tuổi, 3 % cán bộ dưới 40 tuổi, 8,8 % cán bộ trên 40 tuổi; trong đó cán bộ
nữ chiếm 35,3%.
- Cấp huyện: 59,5% cán bộ dưới 30 tuổi; 35,5 % cán bộ từ 31 đến 35
tuổi; 4,7% cán bộ dưới 40 tuổi; trong đó cán bộ nữ chiếm 28,6 %.
- Cấp xã, phường: 73% cán bộ dưới 30 tuổi, 24,4% cán bộ từ 31 đến
35 tuổi; 2,6% cán bộ dưới 40 tuổi; cán bộ nữ chiếm 13,8 %.
- Cán bộ làm công tác thiếu nhi toàn tỉnh là 351; trong đó: 28,77%
cán bộ dưới 30 tuổi, 34,76% cán bộ từ 31 đến 35 tuổi; 27% cán bộ dưới 40
tuổi, 9,4 % trên 40 tuổi; cán bộ nữ chiếm 24,2%.
Ngoài lực lượng cán bộ chuyên trách công tác thanh niên, tại các cơ
quan, đơn vị và doanh nghiệp, lực lượng vũ trang còn có đội ngũ cán bộ
kiêm nhiệm làm công tác thanh niên với 366 đồng chí, phần lớn đội ngũ
cán bộ kiêm nhiệm có độ tuổi cao.
Phần lớn đội ngũ cán bộ có tư tưởng chính trị vững vàng, trung thành
với sự nghiệp cách mạng của Đảng, có kiến thức, trình độ, năng lực tiếp
thu, triển khai và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhiều cán bộ trưởng thành từ cơ sở,
có kinh nghiệm công tác; tinh thần trách nhiệm trong công việc, giữ gìn
phẩm chất, đạo đức, uy tín tốt.
Ngày nay cùng với sự phát triển của đất nước, với yêu cầu của thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với đội ngũ cán bộ công
chức toàn tỉnh đã tăng về số lượng và chât lượng, ngày càng có nhiều đóng
góp xứng đáng trong sự nghiệp xây dựng và bảo bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Đa số đội ngũ cán bộ công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có lối sống lành mạnh giản dị, gắn bó mật thiết với công việc, nhận thức
về chính trị, có trình độ kiến thức chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao,
khả năng sẵn sàng cống hiến cho Tổ quốc, cho sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa; luôn năng động sáng tạo, khả năng tiếp thu cái mới,
khả năng ứng dụng khoa học công nghệ, khoa học quản lý trong thực
tiễn, và muốn được thể hiện khả năng của mình đối với công việc...
Thực tế trong nhiều năm qua, được sự quan tâm của các cấp uỷ
Đảng, sự tạo điều kiện của chính quyền, sự phối hợp của các ngành các
cấp, và thông qua môi trường lao động thực tiễn, bằng sự nổ lực của bản
thân, đội ngũ cán bộ công chức toàn tỉnh thật sự trưởng thành trên mọi
17


lĩnh vực từ học tập, lao động sản xuất và công tác và hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao và ngày càng có uy tín đối với nhân dân.
2.2.2.2 Những tồn tại, hạn chế:
Tuy vậy, so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, công tác
cán bộ còn nhiều bất cập, nhất là việc đánh giá, qui hoạch bố trí năng lực
thực hiện nhiệm vụ chưa cao, thiếu cán bộ giỏi về quản lý hành chính, quản
lý kinh doanh, thiếu khả năng tham mưu chiến lược, xác định biên chế của
từng đơn vị chưa có cơ sở khoa học. Vẫn còn một bộ phận cán bộ chưa đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hạn chế về kỹ năng lãnh đạo, quản lý, tính toàn
diện, khả năng tập hợp, vận động quần chúng; một số ít cán bộ vẫn còn
biểu hiện chủ quan, đơn giản, quan liêu, thiếu ý thức rèn luyện và phấn đấu.
Vẫn còn một bộ phận cán bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ chưa được bố
trí đúng ngành nghề đào tạo, nên hạn chế đến khả năng nghiên cứu, sáng
tạo và áp dụng các nghiên cứu vào thực tiễn cuộc sống. Một bộ phận cán
bộ trong các doanh nghiệp chưa theo kịp sự chuyển đổi cơ chế, chính sách,
yêu cầu, nhiệm vụ mới; tính năng động, sáng tạo, khả năng thích ứng với
cơ chế thị trường và hội nhập chưa cao; ít chăm lo công tác giáo dục chính
trị tư tưởng, công tác Đảng cho cán bộ, viên chức, người lao động; một số
ít còn tiêu cực, vi phạm trong quản lý kinh tế.

Đội ngũ cán bộ trẻ các cấp chiếm tỷ lệ thấp (cấp huyện và tỉnh là
12,37%), cán bộ làm công tác thanh thiếu nhi các cấp trên 40 tuổi chiếm từ
2,6% đến gần 10%; đội ngũ cán bộ trẻ còn nhiều hạn chế so với tiềm năng
và sự kỳ vọng của Đảng, tư duy làm việc độc lập chưa cao, khả năng tham
mưu chưa tương xứng, yếu về năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, trình độ chuyên
môn còn bất cập, chưa xác định tinh thần trách nhiệm chung, chưa có
phương pháp làm việc cụ thể, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn còn thiếu,
số ít thiếu bản lĩnh bị chi phối và tác động nhiều chiều của xã hội.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Nội dung, chương trình bồi
dưỡng còn nhiều trùng lặp; còn mang tính khái quát, chung chung, chưa đạt
được kiến thức cần thiết cho từng loại cán bộ, công chức; còn mang nặng lý
thuyết, thiếu kinh nghiệm thực tiễn; chưa chú trọng đào tạo; bồi dưỡng kỹ
năng thực thi nhiệm vụ, công vụ. Thông tin kiến thức của đội ngũ cán bộ,
giáo viên tại các cơ sở đào tạo, nhất là các trường chính trị chậm được đổi
mới, chậm bổ sung, cập nhật; chưa bắt kịp tốc độ phát triển kinh tế - xã hội;
phương pháp đào tạo cũng như phương tiện dạy và học chưa phù hợp với
18


đặc điểm, tâm lý người học là người lớn tuổi, cán bộ, công chức. Công tác,
Kế hoạch vẫn còn hình thức, chưa thật sự có các căn cứ khoa học, còn thiếu
những thông tin xác thực. Việc quản lý, theo dõi quá trình đào tạo cũng như
việc kiểm tra bố trí, sử dụng cán bộ, công chức sau đào tạo chưa được chặt
chẽ; Việc nhận xét đánh giá kết quả đào tạo còn thiếu cụ thể. Chế độ thù lao
cho giảng viên còn thấp nhất là giảng có học hàm, học vị cao. Việc quy
định định xuất kinh phí đào tạo một người/ 10 tháng làm hạn chế đến việc
tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn ngày.
2.2.2.3. Nguyên nhân:
Thứ nhất, hiện nay, chúng ta chưa có cơ chế, chính sách rõ ràng, nhất
quán từ TW đến địa phương về công tác quy hoạch, bố trí cán bộ. Việc bổ

nhiệm cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ trẻ thiếu công tâm, khoa học, dân
chủ.
Thứ hai, tư tưởng cũ “sống lâu lên lão làng” còn ảnh hưởng đến một
số cán bộ lãnh đạo. Đâu đó còn nặng tư tưởng xếp hàng, những người có
kinh nghiệm, thâm niên phải được bổ nhiệm trước.
Thứ ba, người làm công tác tổ chức cán bộ khi tham mưu cho lãnh
đạo về việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt không tránh khỏi tính cá
nhân chưa mạnh dạn đột phá.
Thứ tư, việc phân loại công chức chưa bảo đảm khoa học, khách quan,
dẫn đến việc bố trí, sử dụng, quy hoạch, đánh giá và đào tạo, bồi dưỡng
công chức chưa phát huy hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
từng giai đoạn. Chưa mạnh dạn đưa cán bộ trẻ vào diện quy hoạch hoặc
gánh vác nhiệm vụ chuyên môn. Các nhóm đối tượng cán bộ, công chức
trẻ ở mặt này hoặc mặt khác còn chưa đạt các tiêu chuẩn theo qui định, đặc
biệt đội ngũ cán bộ cơ sở, xã, phường trình độ còn thấp và còn nhiều bất
cập.
Thứ năm, xuất phát từ tư tưởng của cán bộ trẻ, lười ý chí phấn đấu,
ngại đấu tranh, nỗ lực. Hoặc kiểu quan niệm, mình có kiến thức, có chuyên
môn nên xem thường lãnh đạo, có tư tưởng chống đối nên không được lãnh
đạo đánh giá cao về mặt tư tưởng, đạo đức.
Thứ sáu, chính là chế độ, chính sách đãi ngộ quá thấp, mức thu nhập
từ lương của cán bộ, công chức chưa đảm bảo đời sống của bản thân và gia
đình dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ trẻ có thực tài bỏ công sở ra ngoài,
thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao.

19


Thứ bảy là khi bố trí, phân công lại cán bộ chủ chốt thì vẫn ưu tiên
người có kinh nghiệm, nhiều cán bộ trẻ có năng lực lại không được thử

thách.
Hậu quả là việc sử dụng cán bộ chưa đúng, chưa đạt các tiêu chuẩn
qui định. Việc qui hoạch cán bộ chưa đạt yêu cầu, không có cán bộ thay thế
trước mắt. Chưa có nhiều cán bộ trẻ nắm các cương vị chủ chốt mà những
con số thống kê ở trên đã chỉ rõ cả ở cấp sở, ban ngành đến xã phường.

20


CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC
TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1 Những yêu cầu đối với công chức trong thời kỳ công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước.
Từ năm 1986 kể từ khi Đảng và nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi
mới sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là sự đổi mới về cơ chế
quản lý. Đảng ta xác định: “Đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và
phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng một đội ngũ cán bộ ngang tầm,
góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XNCH”.
Như vậy, để nâng cao hiệu lực quản lý, để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra
trong giai đoạn mới đòi hỏi đội ngũ công chức nhà nước phải có sự thay
đổi và một cách toàn diện cả về lượng và chất.
Theo V.I Lê Nin thì phẩm chất cao quý của cán bộ được hiểu là họ có
lòng trung thành với sự nghiệp, có năng lực… cụ thể trong giai đoạn hiện
nay, cán bộ, công chức, phải có những tiêu chuẩn sau:
3.1.1. Tiêu chuẩn chung:
Theo tinh thần nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần

thứ III khóa VIII ngày 18/6/1997, tiêu chuẩn chung của cán bộ công chức
trong giai đoạn hiện nay phải bao gồm các yếu tố sau:
- Phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có
kết quả đường lối của Đảng, Chính sách pháp luật của nhà nước.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng và cương
quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực
không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết lý luận chính trị, quan điểm đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, có trình độ văn hóa chuyên môn,
đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ
được giao.
Như vậy, có thể thấy ở nước ta hiện nay yêu cầu hàng đầu của công
chức là yêu cầu về chính trị, bởi vì công chức là người thực thi công vụ mà
21


ở nước ta nền hành chính nhà nước lệ thuộc vào chính trị và thực thi chính
trị của Đảng và nhà nước, phẩm chất chính trị của người công chức thể
hiện ở việc trung thành với đường lối của Đảng.
3.1.2. Các tiêu chuẩn cụ thể đối với công chức hành chính:
- Tiêu chuẩn về chính trị: Phải hiểu biết rộng về chính trị, có bản lĩnh
lập trường tư tưởng vững vàng, tích cực tham gia công cuộc đổi mới, trung
thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng “có năng lực dự báo và định hướng
sự phát triển, tổng kết phát triển, tham gia xây dựng đường lối chính sách
pháp luật, thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện, có ý thức và khả
năng bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
nhà nước”.
Đây là tiêu chuẩn đồng thời cũng là yêu cầu về chính trị của công
chức trong giai đoạn hiện nay khi mà đường lối của Đảng và nhà nước có

sự đổi mới “Thiết lập quan hệ ngoại giao với mọi quốc gia trên thế giới
không phân biệt chế độ chính trị”. Khi mà các thế lực thù địch tìm mọi
cách để xoá bỏ chế độ XHCN, thì bản lĩnh và tư tưởng chính trị của người
công chức phải vững vàng, không những thế công chức còn phải tham gia
xây dựng đường lối chính sách pháp luật và đặc biệt phải biết tổ chức vận
động nhân dân thực hiện đúng đường lối chủ trương của Đảng và nhà nước.
- Gương mẫu về đạo đức lối sống, có tác phong dân chủ khoa học có
khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết chính trị: Đây cũng là một tiêu chí
hết sức quan trọng đối với đội ngũ công chức trong giai đoạn hiện nay, khi
mà lối sống phương tây du nhập vào nước ta, những tư tưởng vị kỷ cá
nhân, lối sống thực dụng, bàng quan thờ ơ với thời cuộc đang manh nha
trong đời sống xã hội thì vấn đề gương mẫu về đạo đức lối sống là hết sức
quan trọng, bởi vì công chức nhà nước là người đại diện cho nhà nước, là
tấm gương của quần chúng nhân dân, nên cần có đạo đức lối sống lành
mạnh. Mặt khác nhà nước ta đang tiến hành xây dựng một nền hành chính
dân chủ, nền hành chính phục vụ nhân dân, cho nên tác phong dân chủ của
người công chức phải được phát huy, cần phải xoá bỏ ngay tệ nạn quan liêu
cửa quyền, hách dịch trong đội ngũ công chức, xóa bỏ tư tưởng quan lại là
“phụ mẫu chi dân”, mỗi người công chức phải tự xác định thực hiện công
vụ là phục vụ nhân dân. Phải sát dân, gần dân, vì lợi ích của dân, lắng nghe
ý kiến của dân và thậm chí hy sinh vì dân.
- Tiêu chuẩn chuyên môn: Thể hiện ở trình độ hiểu biết và trình độ
chuyên môn thích hợp, như hiểu về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước,
22


lý luận khoa học quản lý như tổ chức bố trí dân sự, chủ đề, thách thể quản
lý, nguyên tắc, hình thức, phương pháp, lĩnh vực quản lý.
- Tiêu chuẩn về phẩm chất cá nhân: Có ý chí cách mạng, kiên định
về lập trường tư tưởng, có khả năng sáng tạo, lựa chọn sử dụng con người,

sắp xếp bố trí đúng trình độ năng lực của công chức; có ý thức tổ chức kỹ
luật, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và
nhà nước; nghiêm túc, tự giác thực hiện công khai hóa dân chủ hóa XHCN;
có khả năng tổng hợp, chọn lọc ý kiến của các chuyên gia, cán bộ tham
mưu, có khả năng dự đoán, hoạch định chính sách cho tương lai, biết vận
dụng lý luận vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của họat động quản lý.
Qua những tiêu chuẩn chung của cán bộ công chức như đã nêu, cho
thấy những yêu cầu đối với công chức trong giai đoạn hiện nay là rất cao
và toàn diện, điều đó xuất phát từ yêu cầu đổi mới của nền hành chính của
nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2 Những giải pháp chung:
- Đổi mới công tác cán bộ: Trong bất cứ giai đoạn nào của sự nghiệp
cách mạng, cán bộ và công tác cán bộ cũng đều giữ vị trí đặc biệt quan
trọng, cán bộ là một trong những nhân tố cơ bản quyết định thành công hay
thất bạ của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập tổ chức và
rèn luyện Đảng ta khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
“công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Trong suốt một thời kỳ dài, công tác cán bộ của đất nước chúng ta có
nhiều điểm yếu kém, tùy tiện dẫn đến tình trạng một bộ phận cán bộ còn
non kém về nghiệp vụ, sa sút về phẩm chất lại được giữ những cương vị
trực tiếp quản lý tài sản của Nhà nước và nhân dân, thậm chí giữ những
cương vị trọng trách của một số ngành, một số địa phương. Đây vừa là
nguyên nhân của tệ tham nhũng, vừa là khâu yếu nhất, nhạy cảm nhất của
cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Đổi mới công tác cán bộ phải bao gồm
từ khâu đào tạo, tuyển chọn, bồi dưỡng, đánh giá và quản lý cán bộ đến
khâu phân công, phân nhiệm rõ ràng cho từng vị trí công tác.
- Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng: Đại hội
X của Đảng cũng đã chỉ rõ: một trong những giải pháp nhằm đổi mới,
chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là
phải “Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt,

nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Có cơ chế, chính sách
bảo đảm phát hiện, đánh giá, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng
23


và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài, dù là đảng viên hay người
ngoài Đảng”.
Thực hiện những chủ trương trên của Đảng, trong những năm qua,
công tác đào tạo, bồi dưỡng đã góp phần nâng cao trình độ, năng lực của
đội ngũ cán bộ, công chức; từng bước tiêu chuẩn hóa ngạch, bậc theo quy
định của nhà nước, đảm bảo cho công tác quy hoạch gắn liền với nhu cầu
sử dụng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển
của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới, vẫn còn những bất hợp lý trong việc
thực hiện chế độ tiền lương. So với các đơn vị sản xuất kinh doanh, đặc
biệt là các Công ty liên doanh với nước ngoài, thì nguồn thu nhập của cán
bộ, công chức, viên chức còn thấp hơn nhiều, nếu sống chủ yếu bằng nguồn
lương Nhà nước; môi trường làm việc và trang thiết bị, cơ sở vật chất còn
thiếu, nhất là những nơi vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, chưa tạo động lực cho
cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác. Thời gian qua, ở nhiều nơi,
sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng
chưa đạt hiệu quả cao, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa kiểm tra kỷ luật
đảng với hoạt động kiểm tram, thanh tra của Nhà nước. Việc xem xét, xử lý
đối với đảng viên có sai phạm chưa nghiêm minh, thậm chí có nơi còn né
tránh, bao che cho người vi phạm. Ở một số nơi, cấp ủy Đảng còn đứng
ngoài cuộc, bàng quang với việc chống tham nhũng hoặc ở một số nơi
khác, cấp ủy đảng lại can thiệp trái pháp luật vào hoạt động điều tra, thanh
tra của cơ quan có thẩm quền. Vị vậy, sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với
cuộc đấu tranh chông tham nhũng cần phải được tăng cường và đổi mới cả
về phương thức lẩm mội dung. Sự lãnh đạo của Đảng phải cụ thể, sâu sát,

thiết thực đối với quá trình xử lý từng vụ việc trên cơ sở các quy định của
pháp luật. Cần phát huy tinh thần dân chủ và công khai trong sinh hoạt
Đảng. Cần có biện pháp xử lý kỷ luật đối với đảng viên có hành vi tham
nhũng phải kịp thời, nghiêm minh.
Quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính
nhà nước, Thủ tướng Chính phủ vừa ra Quyết định số 770/QĐ-TTg phê
duyệt Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức (CBCC) hành chính nhà nước giai đoạn 2008-2010. Theo đó, sẽ tiến
hành tổng điều tra, đánh giá đội ngũ CBCC nhà nước, trên cơ sở đó xây
dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC, xây dựng hệ thống
dữ liệu quản lý CBCC bằng hệ thống tin học.
24


Chương trình này nhằm tạo được bước chuyển biến căn bản về thể chế
quản lý đội ngũ CBCC và khắc phục những bất cập trong cơ chế quản lý
hiện hành. Về đào tạo bồi dưỡng, Chương trình sẽ bảo đảm công chức ở
các ngạch, các vị trí được đào tạo, bồi dưỡng các kỹ năng hành chính hàng
năm theo chế độ bắt buộc. Gắn việc đào tạo với bố trí, sử dụng CBCC.
Bên cạnh đó, chương trình tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống
công cụ quản lý đội ngũ CBCC nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý
đội ngũ công chức bằng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu của nền
hành chính hiện đại.
Nội dung của chương trình giai đoạn 2008-2010 tập trung chủ yếu vào
một số vấn đề như chú trọng xây dựng và triển khai Luật cán bộ, công chức
là cơ sở để việc quản lý đội ngũ CBCC hành chính nhà nước đạt hiệu quả.
Chương trình này sẽ được thực hiện thông qua 3 đề án cụ thể: Tiếp tục đổi
mới và hoàn thiện thể chế quản lý đội ngũ CBCC hành chính; Nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC hành
chính và đổi mới, hoàn thiện công cụ quản lý CBCC.

Một số nội dung cụ thể của chương trình giai đoạn này là: Tăng cường
phân cấp đào tạo bồi dưỡng nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị
chủ động đào tạo, bồi dưỡng CBCC đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quản
lý của Bộ, ngành, địa phương và nhu cầu hội nhập quốc tế, hướng tới xây
dựng Chính phủ điện tử. Hoàn thiện hệ thống chương trình đào tạo, bồi
dưỡng trên cơ sở 3 loại đào tạo phù hợp. Tiến hành xây dựng, nâng cấp,
hoàn thiện phần mềm quản lý CBCC thống nhất trong toàn quốc trên cơ sở
kế thừa và phát triển phần modul hiện có. Đến năm 2010 thực hiện vận
hành đồng bộ hệ thống thông tin quản lý CBCC trong toàn quốc và có quy
chế rõ ràng quản lý hồ sơ điện tử về CBCC.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng: Hiện nay họat động chống tham
nhũng của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu sự phối hợp thống nhất.
Thậm chí, giữa một số ngành như kiểm sát, Thanh tra, Công an còn có sự
chống chéo lẫn nhau, làm giảm đáng kể hiệu quả công tác chống tham
nhũng. Trong khi các quy định của pháp luật chữa thật sự đồng bộ, chặt chẽ
thì sự phối hợp giữa các cơ quan này là hết sức cần thiết. Một mặt, cần có
những văn bản phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan
mặt khác cần có một cơ chế thống nhất giữa các cơ quan trong việc điều
tra, xử lý những vụ việc tham nhũng. Trước mắt, cần khắc phục ngay tình
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×