Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Chính sách hướng đông của ấn độ và tác động của chính sách này đến mối quan hệ việt ấn trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.26 KB, 91 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH HƯỚNG ĐÔNG CỦA ẤN ĐỘ.....................9
1.1. Những nhân tố hình thành Chính sách hướng Đông............................9
1.1.1. Các nhân tố quốc tế.................................................................................9
1.1.2. Các nhân tố khu vực..............................................................................10
1.1.3. Các nhân tố có tính chất quốc gia.........................................................12
1.2. Nội dung của Chính sách hướng Đông.................................................14
1.2.1. Các mục tiêu chủ yếu của Chính sách hướng Đông..............................14
1.2.2. Quá trình phát triển của Chính sách hướng Đông.................................18
1.2.3. Vai trò của ASEAN trong Chính sách hướng Đông..............................23
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH HƯỚNG ĐÔNG ĐẾN
QUAN HỆ VIỆT NAM - ẤN ĐỘ.................................................................31
2.1. Vị trí chiến lược của Việt Nam trong Chính sách hướng Đông........31
2.1.1. Việt Nam có vị trí địa chiến lược quan trọng đối với Ấn Độ................31
2.1.2. Việt Nam là “cầu nối” gắn kết Ấn Độ với ASEAN...............................32
2.2. Tình hình quan hệ Việt - Ấn từ khi Ấn Độ triển khai Chính sách
hướng Đông (từ 1991 đến nay).....................................................................34
2.2.1. Trên lĩnh vực chính trị...........................................................................34
2.2.2. Trên lĩnh vực kinh tế.............................................................................41
2.2.3. Trên lĩnh vực an ninh và quốc phòng....................................................52
2.2.4. Trên lĩnh vực khoa học và công nghệ....................................................59
2.2.5.Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực................................66
2.2.6. Trên lĩnh vực văn hóa và du lịch...........................................................70
CHƯƠNG 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ MANG TÍNH GIẢI PHÁP NHẰM
THÚC ĐẨY QUAN HỆ VIỆT NAM - ẤN ĐỘ...........................................78
3.1. Cơ hội và thách thức trong quan hệ Việt Nam - Ấn Độ......................78
3.1.1. Cơ hội....................................................................................................78
3.1.2. Thách thức.............................................................................................80
3.2. Một số đề xuất mang tính giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ Việt
Nam - Ấn Độ trong thời gian tới..................................................................81




3.2.1. Tăng cường các cuộc thăm hỏi giữa lãnh đạo cấp cao hai nước...........81
3.2.2. Thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước............83
3.2.3. Thắt chặt quan hệ an ninh và quốc phòng, đặc biệt trước sự trỗi dậy của Trung
Quốc................................................................................................................84
3.2.4. Kết nối nhân dân Việt Nam và Ấn Độ qua các hoạt động giao lưu văn hóa, du
lịch...................................................................................................................86
KẾT LUẬN....................................................................................................89
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................91

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ấn Độ là một nước Nam Á với số dân đứng thứ hai trên thế giới và là một
trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Ngày nay, với tốc độ phát triển kinh
tế vượt bậc, Ấn Độ đã trỗi dậy trở thành một cường quốc có vị thế quan trọng trong
khu vực và thế giới.
Kể từ khi giành độc lập vào năm 1947, Ấn Độ đã đề ra chính sách đối ngoại
duy trì mối quan hệ thân thiện với các quốc gia trên thế giới. Quyết tâm theo đuổi
mục tiêu trở thành cường quốc khu vực, phát huy vai trò ảnh hưởng đến toàn khu vực
châu Á. Để thực hiện mục tiêu này, Ấn Độ thúc đẩy quan hệ với các nước Đông Á,
coi đây là khu vực có vai trò quyết định đến vị thế của Ấn Độ ở châu Á cũng như
quan hệ của Ấn Độ với các cường quốc trên thế giới.
“Chính sách hướng Đông” được Ấn Độ hoạch định và thực hiện nhất quán
xuyên suốt từ những năm cuối của thế kỷ XX đến nay, cho thấy Ấn Độ luôn nỗ lực
để giành một vị thế xứng đáng trong trật tự thế giới mới. Trong chính sách này,
ASEAN được coi là nhân tố trung tâm, giữ một vị trí quan trọng không thể thiếu

trong các tính toán chiến lược và lợi ích của Ấn Độ tại khu vực.
Sau khi trở thành Thủ tướng Ấn Độ năm 2014, ông Narendra Modi đã điều
chỉnh “Chính sách hướng Đông” (Look East Policy) thành “Hành động phía Đông”
(Act East Policy). Trong đó, Việt Nam được coi là một trụ cột quan trọng trong chính
sách này và là một đối tác chiến lược của Ấn Độ trong ASEAN. Thủ tướng Ấn Độ
Narendra Modi trong buổi tiếp đón của Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam, Phùng
Quang Thanh đã khẳng định: “Ấn Độ sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ với Việt Nam trên
5 lĩnh vực trụ cột, trong đó có quốc phòng nhằm đưa hợp tác trong khuôn khổ quan
hệ đối tác chiến lược Việt

3


Nam - Ấn Độ đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn”[19]. Quan hệ hữu
nghị Việt Nam - Ấn Độ là mối quan hệ truyền thống lâu đời, được khẳng định
bằng những dấu ấn lịch sử qua giao lưu văn hóa giữa hai nền văn hóa, mối
quan hệ này được đánh dấu bằng những tình cảm tốt đẹp, gần gũi, tin cậy,
luôn ủng hộ lẫn nhau trong những cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của cả
hai nước. Trong thời kỳ hiện đại, hai nhà lãnh đạo kiệt xuất Hồ Chí Minh và
Jawaharlal Nehru đã đặt nền móng vững chắc cho quan hệ hai nước và tình
hữu nghị đó đã được vun đắp bởi nhiều thế hệ lãnh đạo hai nước sau này.
Việc hai nước xác lập mối quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2007 đã
đưa quan hệ Việt Nam - Ấn Độ lên một tầm cao mới, phát triển ngày càng
mạnh mẽ và bền vững.
Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây về ‘‘Chính sách
hướng Đông’’ cũng như ‘‘Hành động phía Đông’’ của Ấn Độ cùng những
nghiên cứu sâu về tác động của chính sách hướng Đông đến mối quan hệ Việt
- Ấn trên tất cả các lĩnh vực, tác giả chọn chủ đề : ‘‘Chính sách hướng Đông
của Ấn Độ và tác động của chính sách này đến mối quan hệ Việt - Ấn trong
hai thập niên đầu thế kỷ XXI’’ làm đề tài viết luận văn tốt nghiệp cho mình.

2. Tình hình nghiên cứu
Chính sách hướng Đông là một trong những trụ cột quan trọng trong
chính sách ngoại giao của Ấn Độ, thực hiện chính sách này Ấn Độ đã và đang
khẳng định được vị thế của mình không chỉ trong khu vực mà còn trở thành
một cường quốc trên thế giới. Vì vậy, những vấn đề về Chính sách hướng
Đông luôn là nguồn cảm hứng cho các nhà nghiên cứu về quan hệ quốc tế và
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập về nó.
Một số sách có thể kể đến như :
- TS. Nguyễn Trường Sơn (2015), Hướng về phía Đông – Một chiến lược
lớn của Ấn Độ, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.


- TS. Võ Xuân Vinh (2013), ASEAN trong chính sách hướng Đông của Ấn
Độ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Một số tham luận nghiên cứu trích từ các Kỷ yếu Hội thảo khoa học do
Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ,trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, tổ chức năm 2015, như sau :
- PGS.TS. Nguyễn Quốc Phẩm (2015), Chính sách hướng Đông của Ấn
Độ trong quan hệ với các nước ASEAN và Việt Nam, Hội thảo ‘‘Hợp tác phát
triển Việt Nam – Ấn Độ : Tiếp cận từ góc độ văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo’’
(30/6/2015).
- Trung tướng, PGS.TS. Hoàng Văn Đồng (2015), Quan hệ Việt Nam - Ấn
Độ trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh những năm đầu thế kỷ XX, Hội thảo ‘‘Hợp
tác phát triển Việt Nam – Ấn Độ : Tiếp cận từ góc độ văn hóa, xã hội, giáo dục,
đào tạo’’ (30/6/2015).
- PGS.TS Trần Nam Tiến, Nguyễn Thu Trang, Hợp tác văn hóa trong
quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong bối cảnh quốc tế mới, Hội thảo ‘‘Hợp tác phát
triển Việt Nam – Ấn Độ : Tiếp cận từ góc độ văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo’’
(30/6/2015).
- PGS.TS. Thái Văn Long (2015), Chính sách hướng Đông và khuôn khổ

ASEAN, Hội thảo khoa học ‘‘Hợp tác phát triển Việt Nam – Ấn Độ : Tiếp cận từ
góc độ kinh tế’’ (11/5/2015).
- Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải (2015), Quan hệ kinh tế
thương mại Việt Nam - Ấn Độ, Hội thảo khoa học ‘‘Hợp tác phát triển Việt Nam
– Ấn Độ : Tiếp cận từ góc độ kinh tế’’ (11/5/2015).
- ThS. Đoàn Trung Dũng (2015), Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ : Những
bước phát triển mới, Hội thảo khoa học quốc tế ‘‘Việt Nam, ASEAN - Ấn Độ:
Thực trạng và Triển vọng’’, Hội thảo khoa học ‘‘Hợp tác phát triển Việt Nam –
Ấn Độ : Tiếp cận từ góc độ kinh tế’’ (11/5/2015).
5


- ThS. Võ Văn Chỉ (2015), Chính sách hướng Đông của Ấn Độ và tác
động của chính sách này đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, Hội thảo khoa học
‘‘Hợp tác phát triển Việt Nam – Ấn Độ : Tiếp cận từ góc độ kinh tế’’ (11/5/2015).
Và một số bài luận khác, có thể kể đến như: ‘Hợp tác quốc phòng Việt
Nam - Ấn Độ trong bối cảnh mới’’ của PGS.TS Thái Văn Long, ‘‘Vị trí của Việt
Nam trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI’’ của
TS. Trần Xuân Hiệp, ‘‘Quan hệ kinh tế Việt Nam - Ấn Độ trong thời gian gần đây
và triển vọng trong tương lai’’ của ThS. Trần Thị Thúy, ‘‘Chính sách hướng
Đông của Ấn Độ nhìn từ góc độ kinh tế’’ của ThS. Đặng Viết Đạt,...
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu Chính sách hướng Đông của Ấn Độ và tác động của
chính sách này đến mối quan hệ Việt - Ấn, từ đó đưa ra một số kiến nghị
mang tính giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
tập trung vào:
Thứ nhất, làm rõ nội dung “Chính sách hướng Đông” và “Hành động

phía Đông” của Ấn Độ
Thứ hai, phân tích những tác động của chính sách hướng Đông đến
quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, đồng thời làm rõ vị trí của Việt Nam trong chính
sách này.
Thứ ba, đánh giá những thuận lợi và khó khăn đối với quan hệ Việt
Nam - Ấn Độ trong quá trình triển khai “Chính sách hướng Đông” cũng như
“Hành động phía Đông” của Ấn Độ và đưa ra một số kiến nghị mang tính giải
pháp nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
6


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Chính sách hướng Đông” và những
tác động của nó đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ khi được
ban hành Chính sách hướng Đông năm 1991 đến năm 2016
- Về nội dung: đề tài nghiên cứu “Chính sách hướng Đông” và những
tác động của này đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về quốc tế. Trong từng nội dung cụ thể, tác giả luận văn sử dụng phương pháp
chuyên ngành là lịch sử kết hợp logic, các phương pháp phân tích tổng hợp,
khái quát, so sánh, thống kê, hệ thống… được sử dụng nhằm làm sáng tỏ vấn
đề cần nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của đề tài
Điểm mới trong nghiên cứu này là đi sâu vào nghiên cứu những tác
động của Chính sách hướng Đông đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên tất cả

các lĩnh vực, đồng thời đưa ra một số kiến nghị mang tính giải pháp nhằm góp
phần thúc đẩy quan hệ hai nước.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, bố cục của bài Khóa luận tốt nghiệp
gồm ba chương:
Chương 1: Chính sách hướng Đông của Ấn Độ
Chương 2: Tác động của Chính sách hướng Đông đến quan hệ Việt Nam
- Ấn Độ

7


Chương 3: Những kiến nghị mang tính giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ
Việt Nam - Ấn Độ.

8


CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH HƯỚNG ĐÔNG CỦA ẤN ĐỘ
1.1. Những nhân tố hình thành Chính sách hướng Đông
1.1.1. Các nhân tố quốc tế
Chiến tranh Lạnh kết thúc – Trật tự hai cực tan rã
Từ cuối những năm 1980 đến đầu những năm 1990, bối cảnh quốc tế có
nhiều thay đổi, điều này buộc Ấn Độ phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của
mình để bắt kịp xu thế phát triển của thế giới.
Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết cũng như sự tan rã của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở các nước Đông Âu đã tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội của Ấn Độ. Tuy là một nước không kiên kết nhưng Ấn Độ
vẫn có mối quan hệ tốt đẹp với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên
Xô. Quan hệ hai nước trở nên gần gũi và sâu sắc hơn với việc ký kết Hiệp ước

Hòa bình hữu nghị và hợp tác năm 1971. Nếu như về mặt chính trị, quan hệ
Ấn – Xô là quan hệ đồng minh chiến lược, thì về mặt kinh tế, cũng như quân
sự, Liên Xô là một chỗ dựa vô cùng vững chắc cho Ấn Độ. Vì vậy, sự sụp đổ
của Liên Xô đã làm cho Ấn Độ mất đi một chỗ dựa rất quan trọng về kinh tế,
chính trị, quốc phòng cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Điều này đòi hỏi Ấn
Độ phải điều chỉnh chính sách kinh tế cũng như chính sách đối ngoại của
mình.
Chiến tranh Lạnh kết thúc và sự tan rã của trật tự hai cực đã khiến cho
Phong trào Không liên kết, một lực lượng chính trị đứng giữa hai phe tư bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa tạm thời lắng xuống. Vị thế của Ấn Độ với tư
cách là một trong những nước lãnh đạo của phong trào này vì thế cũng bị
giảm đi phần nào. Sự chấm dứt Chiến tranh lạnh đã tạo điều kiện thúc đẩy hai
quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa, trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Xu
thế tập trung phát triển kinh tế để tránh tụt hậu khiến tất cả các nước phải hợp
tác với nhau và hội nhập kinh tế quốc tế để làm giảm nguy cơ chiến tranh và
xung đột, khuyến khích xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
9


Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991
Bên cạnh đó, chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 đã tác động xấu đến nền
kinh tế Ấn Độ với tư cách là nước nhập khẩu dầu mỏ hàng năm với khối
lượng lớn từ các nước Tây Nam Á. Vào thời gian này, thương mại của Ấn Độ
cũng có những dấu hiệu sa sút. Thương mại giảm nên nhu cầu về dầu mỏ gặp
rất nhiều khó khăn do hạn chế về nguồn tài chính, nhất là khi giá dầu tăng do
Chiến tranh vùng Vịnh. Chỉ trong thời gian ngắn 1990 – 1991, giá dầu nhập
khẩu của Ấn Độ đã tăng 21,9% tính bằng đồng rupee [14, tr.3]. Sự không ổn
định về nguồn cung và giá dầu cao buộc Ấn Độ phải tìm kiếm các nguồn cung
mới.
Hơn nữa, từ khi chiến tranh vùng Vịnh nổ ra, Ấn Độ bị mất đi nguồn tài

chính lớn từ Trung Đông. Cụ thể, Ấn Độ mất khoảng 205 triệu USD kiều hối
của những lao động Ấn Độ ở Iraq và Kuwait; mất 500 triệu USD từ các khoản
nợ ở Iraq và khoảng 112 triệu USD giá trị thương mại với Iraq và Kuwait [15,
tr.254].
1.1.2. Các nhân tố khu vực
Những bất ổn ở khu vực Nam Á
Khu vực Nam Á giai đoạn những năm 80 và đầu những năm 90 của thế
kỷ XX vẫn luôn ở trong tình trạng bất ổn, chủ yếu là do các vấn đề trong mỗi
quốc gia cũng như hạn chế của Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC).
Mối quan hệ giữa Ấn Độ với các nước láng giềng Nam Á vẫn luôn căng
thẳng, nghi ngờ lẫn nhau, đặc biệt là đối với Pakistan.
Kể từ khi Ấn Độ bị tách ra làm hai quốc gia là Ấn Độ và Pakistan vào
năm 1947, tình hình chính trị của Ấn Độ luôn bất ổn. Pakistan là nước gây bất
ổn trực tiếp đối với Ấn Độ trong các vấn đề khủng bố lãnh thổ và các quyền
lợi kinh tế trong khu vực. Từ khi độc lập, Ấn Độ đã phải dành những nguồn
lực to lớn cho việc thiết lập những căn cứ quân sự dọc theo biên giới, nhất là

10


khu vực Jammu- Kashmir để chống lại sự xâm nhập của các phần tử khủng bố
từ Pakistan.
Ngoài ra, hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) phát triển chậm chạp và ít
hiệu quả cũng thúc đẩy Ấn Độ hướng tầm nhìn ra khu vực. Ấn Độ lo ngại các
nước sử dụng diễn đàn này để chỉ trích và cô lập Ấn Độ trong những vấn đề
tranh chấp song phương, còn Pakistan thì sợ thông qua tổ chức hợp tác khu
vực Ấn Độ sẽ nắm vai trò lãnh đạo, không có lợi cho Pakistan.Tình hình này
buộc Ấn Độ phải “thoát ra khỏi bối cảnh Nam Á bí bách và bị giam hãm, giúp
Ấn Độ trở thành một (trong những) nhân tố chủ chốt và là một cường quốc
khu vực đang lên”[12, tr.5], lựa chọn hướng mở rộng ra bên ngoài, tiến đến

những khu vực tiềm năng, có thị trường rộng lớnđể đem lại nhiều lợi ích cho
Ấn Độ.
Sự “trỗi dậy” của khu vực Đông Á
Ngược lại với sự phát triển trì trệ của các nước Nam Á, khu vực Đông
Á nổi lên với sự phát triển năng động và ổn định. Đông Á là khu vực nằm
trong vành đai châu Á – Thái Bình Dương và là nơi tập trung của những
cường quốc lớn trên thế giới như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc,
Australia,... Sau Chiến tranh lạnh,Trung Quốc và Nhật Bản đã nhanh chóng
điều chỉnh chiến lược và nổi lên là hai nền kinh tế năng động nhất khu vực.
Đó cũng là nguyên nhân thúc đẩy việc Ấn Độ đẩy mạnh mối quan hệ với
Đông Á.
Sự phát triển của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng là
một nhân tố quan trọng trong việc điều chỉnh chính sách của Ấn Độ sau năm
1991. Hiệp hội này xuất hiện như là một tổ chức có tiếng nói trọng lượng ở
châu Á – Thái Bình Dương do thành công trong phát triển kinh tế của mỗi
nước thành viên cũng như đã tạo được những cơ chế hợp tác khu vực đầy
triển vọng. Ấn Độ luôn thể hiện mong muốn hợp tác chặt chẽ với các nước

11


ASEAN cũng như với toàn bộ Đông Nam Á. Ấn Độ coi ASEAN như một đối
tác quan trọng của mình trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.
Đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc đang ngày càng gia tăng ảnh hưởng
của mình ở Nam Á và Ấn Độ Dương, Ấn Độ buộc phải có những điều chỉnh
về chính sách đối ngoại, tăng cường hợp tác với các nước ASEAN nhằm cạnh
tranh trực tiếp với Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á.
1.1.3. Các nhân tố có tính chất quốc gia
Khủng hoảng kinh tế Ấn Độ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX
Nguyên nhân khiến cho Ấn Độ buộc phải thay đổi chính sách đối ngoại

không chỉ bởi tác động mạnh mẽ của bối cảnh quốc tế và tình hình khu vực
trong cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thể kỷ XX, mà còn xuất phát từ
tình hình kinh tế, xã hội, chính trị bất ổn của Ấn Độ tại thời điểm đó.
Nền kinh tế tự cung tự cấp đủ cho những nhu cầu cơ bản của quốc gia
cùng với lịch sử từng là thuộc địa của thực dân Anh khiến Ấn Độ khép mình
với phương Tây và đóng cửa nền kinh tế. Bên cạnh đó, những tác động tiêu
cực từ sự sụp đổ của Liên Xô, sự tan rã của các nước Đông Âu và chiến tranh
vùng Vịnh đã làm cho nền kinh tế yếu kém và trì trệ của Ấn Độ ngày càng trở
nên trầm trọng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong nước khiến Ấn Độ nảy sinh những vấn
đề kinh tế và xã hội. Nợ nước ngoài của Ấn Độ trong những năm tài khóa
1990 – 1991 lên tới 23%. Từ năm 1986, Ấn Độ phải thanh toán các khoản nợ
đến hạn cho Ngân hàng Thế giới (IMF) và các chủ nợ khác. Đối với IMF,
khoản nợ phải trả của Ấn Độ năm tài khóa 1987 – 1988 là 1,4 tỉ USD, năm tài
khóa 1989 – 1990 là 1,2 tỉ USD. Tình hình bi đát đến nỗi Thủ tướng P.V.
Narasimha Rao đã phải thốt lên rằng: “Tình hình ngoại tệ gần như tuyệt vọng.
Tình hình tài chính tồi tệ. Chúng tôi đã đến mức như một nước vỡ nợ với Quỹ
tiền tệ Quốc tế trong thời gian vài ngày” [6, tr.24-25].

12


Sự bất ổn về an ninh, chính trị
Nền chính trị Ấn Độ cũng rơi vào tình trạng bất ổn. Khủng hoảng kinh
tế và những rối loạn về mặt xã hội đã dẫn đến việc dân chúng mất lòng tin đối
với chính phủ. Thêm vào đó, Ấn Độ phải đối mặt với các mối đe dọa khủng
bố ở các bang Punjab, Jammu và Kashmir cũng như sự mất ổn định ở vùng
Đông Bắc. Từ năm 1988 đến năm 1992, ở khu vực Jammu và Kashmir đã xảy
ra 14.542 vụ khủng bố, nhiều tổ chức ly khai vũ trang hay có hoạt động chống
đối chính quyền được thành lập [15, tr.264].

Nếu như chính sách đối nội của Ấn Độ vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
XX được Thủ tướng N.Rao đánh giá như “đứng trước bờ vực” thì về đối
ngoại, Thủ tướng Rajiv Gandhi đã phải thốt lên rằng: “Ấn Độ đã bị lu mờ như
thể không còn tồn tại. Chúng ta phải đảm bảo làm sao Ấn Độ xuất hiện trở lại
như một nước tiền tuyến” [6, tr.27].
Những khó khăn của tình hình quốc tế, khu vực và những bất ổn trong
nước đã buộc Ấn Độ phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình nhằm
thực hiện cải cách toàn diện nền kinh tế và tìm kiếm các đối tác kinh tế phục
vụ cho cuộc cải cách này theo hướng “mở đường” với các nước Đông Á và
Đông Nam Á, trong đó ASEAN được xem là nhân tố được quan tâm hàng đầu
của Ấn Độ. Năm 1991, chính sách cải cách toàn diện nền kinh tế được đưa ra.
Đến năm 1992, Chính phủ Ấn Độ thực hiện Chính sách Hướng Đông với
niềm tin “châu Á – Thái Bình Dương có thể trở thành tấm ván bật để Ấn Độ
tiến vào thị trường toàn cầu” [16, tr.16].
1.2. Nội dung của Chính sách hướng Đông
1.2.1. Các mục tiêu chủ yếu của Chính sách hướng Đông
Đứng trước tình hình khó khăn trong quan hệ với các nước lớn, các
nước phía Tây và sự sụt giảm vai trò của mình trong Phong trào Không liên
kết, lựa chọn của Ấn Độ là hướng tới châu Á - Thái Bình Dương. Chính sách
hướng Đông của Ấn Độ ra đời trong bối cảnh đó như một giải pháp đối ngoại
13


có tính chất đột phá thời hậu Chiến tranh Lạnh. Định hướng và mục tiêu nhất
quán của chính sách này là Ấn Độ phải xây dựng được mối liên kết ngày càng
chặt chẽ với các nước châu Á láng giềng đặc biệt là khu vực Đông Nam Á
cũng như phần còn lại của thế giới, với nhận thức rằng, tương lai cũng như
những lợi ích của Ấn Độ chỉ có thể được đảm bảo triệt để nếu nước này xây
dựng được mối quan hệ chặt chẽ và mạnh mẽ với khu vực Đông Nam Á. Như
Thủ tướng Ấn Độ Narashimha Rao đã phát biểu: “Thế giới đã thay đổi, các

nước đều thay đổi và không có gì có thể biện minh nếu Ấn Độ không thay
đổi. Chúng ta phải điều chỉnh và có cách đề cập thực tế nhưng chúng ta không
bao giờ thay đổi nguyên tắc mục tiêu”.
Với mục tiêu và định hướng đó, chính sách hướng Đông của Ấn Độ về
cơ bản là sự nỗ lực thiết lập những mối quan hệ kinh tế ngày càng sâu sắc và
toàn diện với các nước láng giềng phía Đông. Cụ thể là có sự liên kết ngày
càng chặt chẽ hơn với khu vực Đông Á, Đông Nam Á, cũng như toàn bộ khu
vực châu Á – Thái Bình Dương thông qua các nước Đông Nam Á như là
những điểm kết nối. Chính sách hướng Đông, như phát biểu của Thủ tướng
Manmohan Singh tại buổi đối thoại đặc biệt giữa lãnh đạo Hội đồng tư vấn
kinh tế ASEAN, ngày 12 tháng 12 năm 2005 tại Kuala Lumpur, “không phải
là một chính sách kinh tế đối ngoại đơn thuần, chính sách này là biểu hiện của
sự thay đổi quan điểm chiến lược của Ấn Độ đối với thế giới cũng như vị trí
của Ấn Độ trong một nền kinh tế toàn cầu đang phát triển không ngừng”.
Có thể thấy rằng, Chính sách hướng Đông của Ấn Độ được triển khai
và bổ sung những yếu tố mới xuất phát từ yêu cầu của chính bản thân Ấn Độ
trước những thay đổi của bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước. Việc triển
khai Chính sách hướng Đông nhằm thực hiện hai nhóm mục tiêu chủ yếu là
nhóm các mục tiêu chính trị - chiến lược và nhóm các mục tiêu kinh tế - xã
hội.

14


Nhóm các mục tiêu chính trị - chiến lược
Triển khai Chính sách Hướng Đông, Ấn Độ hướng tới xây dựng, mở
rộng và cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, phần nào
giúp kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc ở Nam Á và Ấn Độ Dương, những
khu vực Ấn Độ xem là phạm vi ảnh hưởng truyền thống của mình.
Sự ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng tăng ở Nam Á và Ấn Độ

Dương buộc Ấn Độ một mặt nâng cao tiềm lực về kinh tế và quốc phòng, mặt
khác trực tiếp cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc ở các khu vực có lợi ích
chiến lược đối với quốc gia Đông Bắc Á này, trong đó có khu vực châu Á Thái Bình Dương. Trong một phát biểu tại New Delhi vào tháng 9/2010, Thủ
tướng Manmohan Singh đã cảnh báo: “Trung Quốc đang nỗ lực mở rộng ảnh
hưởng ở Nam Á, gây bất lợi cho Ấn Độ” và rằng, “Trung Quốc muốn có chỗ
đứng ở Nam Á, chúng ta phải thích ứng với thực tế này và chúng ta cần phải
cảnh giác” [15].
Những nỗ lực của Ấn Độ trong việc tham gia vào các cơ chế hợp tác
quan trọng ở khu vực như Đối tác Đối thoại đầy đủ của ASEAN, ARF,
ASEAN +1, EAS, ASEM, ADMM+ đã chứng minh cho nhóm các mục tiêu
chính trị - chiến lược này của Chính sách hướng Đông.
Nhóm các mục tiêu kinh tế - xã hội
Bên cạnh các mục tiêu chính trị - chiến lược, Chính sách Hướng Đông
còn được kỳ vọng đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội không kém phần
quan trọng.
Một là, Chính sách Hướng Đông hướng tới việc duy trì mức tăng
trưởng cao và ổn định của nền kinh tế Ấn Độ thông qua các mối quan hệ kinh
tế chặt chẽ với Đông Á, đặc biệt là thương mại. Cuối thập niên 80 và tới trước
khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997 – 1998, Đông Á là khu vực đạt
được mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Sau khủng hoảng không lâu,
các nền kinh tế Đông Á đã khôi phục được mức tăng trưởng cao và ổn định
15


trở lại. “Ấn Độ tin rằng, Đông Á nắm giữ chiếc chìa khóa cho tăng trưởng
kinh tế ổn định của Ấn Độ, đặc biệt khi các hoạt động kinh tế quốc tế ngày
càng trở nên quan trọng đối với tăng trưởng của Ấn Độ trong bối cảnh các
khu vực khác đang có xu hướng tăng trưởng chậm lại cũng như gia tăng chính
sách bảo hộ” [22].
Hai là, hội nhập kinh tế với khu vực Đông Nam Á nói riêng và châu Á Thái Bình Dương nói chung là một mục tiêu quan trọng trong Chính sách

hướng Đông. Mục tiêu này nhấn mạnh đến việc xây dựng Hiệp định Thương
mại tự do (FTA), Hiệp định Hợp tác kinh tế toàn diện/Hiệp định Đối tác kinh
tế toàn diện (CECA/CEPA) giữa Ấn Độ với khu vực. Ấn Độ xác định rằng
xây dựng FTA, CECA/CEPA với ASEAN và các nước ở Đông Nam Á nói
riêng, với Châu Á – Thái Bình Dương nói chung là con đường để nước này
hiện thực hóa việc xây dựng Cộng đồng Kinh tế châu Á, một hình thức liên
kết kinh tế nhằm đối trọng với khối EU và Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ
(NAFTA) nhưng quan trọng hơn là để Ấn Độ không bị đứng ngoài các khối
kinh tế chủ đạo của thế giới và khẳng định vị thế cường quốc của mình, trước
hết là ở khu vực châu Á. Sau khi Ấn Độ tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á
lần đầu tiên được tổ chức tại Malaysia vào tháng 12/2005, với tư cách là
thành viên chính thức, Thủ tướng Manmohan Singh đã mở rộng phạm vi sáng
kiến Cộng đồng Kinh tế châu Á khi nói rằng: “Xây dựng một Cộng đồng
Đông Á, mang ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Australia
cùng New Zealand đến với nhau là mong muốn chính đáng. Cũng giống như
NAFTA và EU mở rộng, một FTA liên Á (pan- Asia) sẽ là một hiệp hội những
quốc gia năng động, mở và đặc thù ở khu vực”. Đó là lý do Bộ trưởng Ngoại
giao Pranab Mukherjee khẳng định: “Tư tưởng cơ bản của chiến lược chính
sách hướng Đông, một chính sách đã được xây dựng thành công, là Ấn Độ
phải tìm kiếm được vận mình của mình thông qua việc tự liên kết chặt chẽ
hơn với các đối tác chây Á và phần còn lại của thế giới. Chúng tôi tin rằng

16


tương lai của Ấn Độ và các lợi ích kinh tế tốt nhất của chúng tôi sẽ có được
thông qua hội nhập mạnh mẽ hơn nữa với Đông Á” [21].
Ba là, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở tám bang vùng
Đông Bắc của Ấn Độ, những bang kém phát triển về kinh tế - xã hội và bất ổn
an ninh, cũng là một mục tiêu quan trọng của Chính sách hướng Đông. Ủy

ban Đông Bắc (NEC) xác định rằng, một trong những lợi thế của khu vực là
“gần kề với một trong những khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới, là các
nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á”. Tại cuộc họp lần thứ 52 vào tháng 2
năm 2006, NEC nhấn mạnh đến việc tăng cường biện mậu, coi đây là nhiệm
vụ, là một phần của chính sách hướng Đông nên khu vực phải được hỗ trợ để
có được lợi ích đầy đủ từ thương mại với các nước Đông Nam Á. Mục tiêu
lớn nhất của Chính sách hướng Đông là góp phần đưa Ấn Độ trở thành một
cường quốc kinh tế và quân sự không chỉ ở khu vực châu Á mà còn trên phạm
vi toàn thế giới [12, tr.49].
1.2.2. Quá trình phát triển của Chính sách hướng Đông
a. Giai đoạn 1992 – 2013:“Nhìn về hướng Đông”
Thuật ngữ “Nhìn về hướng Đông” (Look East) được chính thức sử dụng
lần đầu tiên trong Báo cáo thường niên 1995 – 1996 của Bộ Ngoại giao Ấn
Độ. Tuy nhiên, phải tới Báo cáo thường niên 2006 – 2007, cơ quan này mới
khẳng định Chính sách hướng Đông ra đời vào năm 1992.
Tuy chính sách hướng Đông của Ấn Độ không được phản ánh bằng một
văn kiện cụ thể nào, nhưng nội dung của nó được thể hiện thông qua các sáng
kiến, tập trung giải quyết ba nhóm vấn đề chính như cải cách kinh tế và ổn
định chính trị trong nước, thúc đẩy hợp tác láng giềng, tăng cường chính sách
an ninh và ngoại giao.
Phạm vi không gian của chính sách này bao gồm một khu vực rộng lớn
chạy từ New Zealand lên Đông Nam Á cho đến vùng Đông Bắc Á. Mục tiêu
chung nhất của chính sách này là nhằm biến Ấn Độ trở thành một cường quốc
17


kinh tế và quân sự không chỉ ở khu vực châu Á mà còn trên phạm vi toàn thế
giới.
Sự phát triển của Chính sách hướng Đông có thể được theo dõi qua hai
giai đoạn: Giai đoạn một (1991 – 2003), phạm vi của nó chủ yếu là Đông

Nam Á; Giai đoạn hai (2003 – 2014), phạm vi được mở rộng ra toàn khu vực
châu Á – Thái Bình Dương.
***Giai đoạn 1991 – 2001:
Sự ra đời của Chính sách hướng Đông gắn với cuộc cải cách toàn diện
nền kinh tế của Ấn Độ và thời điểm Thủ tướng N. Rao lên cầm quyền năm
1991. Một số học giả khác lại chọn mốc năm 1992 với sự kiện Ấn Độ trở
thành đối tác đối thoại từng phần của ASEAN là khởi điểm của Chính sách
hướng Đông. Trong giai đoạn này, Ấn Độ lấy chính sách ngoại giao kinh tế
làm trụ cột, coi trọng Đông Nam Á và coi Đông Nam Á là “bàn đạp” để tiến
vào thị trường Đông Á. Mục tiêu của chính sách Nhìn về hướng Đông ở giai
đoạn một được thể hiện trong bài phát biểu của Thủ tướng N.Rao tại Viện
nghiên cứu Đông Nam Á, nhân chuyến thăm Singapore năm 1994. Giai đoạn
đầu của chính sách này hướng tới các mục tiêu:
Thứ nhất, khôi phục mối quan hệ chính trị với các nước ASEAN;
Thứ hai, tăng cường hợp tác kinh tế với Đông Nam Á và Đông Á, trong
đó chủ yếu trên các lĩnh vực thương mại và đầu tư;
Thứ ba, thúc đẩy các mối liên hệ về quân sự với Đông Nam Á nhằm gia
tăng sự hiểu biết, đạt được các lợi ích về chính trị và chiến lược;
Thứ tư, vận động để tham gia các tổ chức/cơ chế an ninh, chính trị và
kinh tế đa phương tại khu vực này như APEC, ARF, ASEAN+1,...
Thứ năm, đề xuất và đẩy mạnh hợp tác tiểu khu vực, liên khu vực giữa
Nam Á và Đông Nam Á như các khuôn khổ Sáng kiến vùng bịnh Bengal về
hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật đa ngành (BIMSTEC – một tổ chức quốc tế bao
18


gồm một số nước Nam Á và Đông Nam Á là Bănglađét, Ấn Độ, Mianma, Xri
Lanca, Thái Lan, Butan và Nêpan); Hợp tác khu vực các nước ven Ấn Độ
Dương (IOR – ARC); Hợp tác sông Hằng – sông Mê Công (MGC). Bộ trưởng
Ngoại giao Ấn Độ S.P. Mukherjee đã khẳng định: “MGC hay Hợp tác sông

Hằng – sông Mê Công là một thành tố khác của Chính sách hướng Đông”
[17].
***Giai đoạn 2002 –2013:
Năm 2002 là mốc đánh dấu bước khởi đầu mới trong quan hệ Ấn Độ ASEAN với việc Hội nghị cấp cao Ấn Độ - ASEAN lần đầu tiên được tổ chức
tại Phnom Penh, Campuchia. Với sự kiện này, Ấn Độ là nước đầu tiên ngoài
khu vực Đông Á (Đông Bắc Á và Đông Nam Á) tham gia vào cơ chế hợp tác
tương đương với cơ chế hợp tác ASEAN+1 của ASEAN. Năm 2002 cũng là
năm mà Ấn Độ đưa ra đề xuất thiết lập Khu vực Thương mại Tự do với
ASEAN tại Viêng Chăn, Lào.
Kể từ năm 2002, quan hệ Ấn Độ - ASEAN phát triển mạnh mẽ về chiều
sâu. Từ đây, Ấn Độ hướng tới thiết lập các cơ chế hợp tác với khu vực Đông
Á.
Ngày 26/8/2003, phát biểu tại Viện Nghiên cứu Quân sự và Chiến lược
Singapore, Ngoại trưởng Ấn Độ Yashwant Sinha khẳng định: “Với việc tổ
chức Hội nghị Thượng đỉnh Ấn Độ - ASEAN tháng 11/2002, Ấn Độ đã thực
sự bước vào giai đoạn hai của chính sách hướng Đông”.
Cũng tại Bali năm 2003, Thủ tướng Atal Behari Vajpayee đề xuất thành
lập Cộng đồng Kinh tế châu Á (Asian Economic Community) gồm mười
nước thành viên ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn quốc và Ấn Độ. Với đề
xuất này, quan niệm về phạm vi của chính sách hướng Đông đã vượt ra khỏi
không gian của khu vực của Đông Nam Á, mở rộng ra toàn khu vực Đông Á.
Trong giai đoạn này, Chính sách hướng Đông đã được xác định một
cách rõ ràng hơn:
19


Thứ nhất, hội nhập kinh tế với khu vực Đông Á thông qua việc ký kết
các thỏa thuận thương mại tự do, thiết lập những mối liên kết thể chế về kinh
tế giữa các nước trong khu vực và Ấn Độ. Từ đầu thế kỷ XXI, một số quốc
gia Đông Á như Trung Quốc, Singapore bắt đầu trở thành các đối tác kinh tế

lớn của Ấn Độ.
Thứ hai, chuyển từ những vấn đề đơn lẻ trong giai đoạn một sang
chương trình hợp tác rộng lớn hơn. Về hợp tác an ninh, các cuộc lập trận
chung và viếng thăm quân sự mà Ấn Độ triển khai với các nước ASEAN (đầu
những năm 1990) ở mức độ thấp thì nay được nâng lên thành hợp tác quốc
phòng toàn diện. Bên cạnh đó, Ấn Độ bắt đầu mở rộng hoạt động giao lưu
quốc phòng với cả Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Thứ ba, phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh vùng Đông Bắc của Ấn
Độ thông qua việc nâng cấp cơ sở hạ tầng và thúc đẩy giao thông nối liền
vùng Đông Bắc với các quốc gia phía Đông. Ấn Độ đang tích cực xây dựng
các hành lang vận tải nối Ấn Độ với Đông Nam Á, trong đó có đề án ba bên
về tuyến xa lộ nối Ấn Độ với Mianma và Thái Lan.
Thứ tư, mục tiêu quan trọng của Chính sách hướng Đông giai đoạn này
là vừa thúc đẩy hợp tác với Trung Quốc, vừa kiềm chế ảnh hưởng của nước
này, gia tăng vị thế và bảo đảm lợi ích chiến lược của Ấn Độ ở Đông Á.
Sau quá trình triển khai chính sách này, quan hệ Ấn Độ - ASEAN đã có
những bước chuyển biến tích cực. Năm 2012, ASEAN và Ấn Độ đã đưa quan
hệ lên tầm đối tác chiến lược sau 20 năm quan hệ đối thoại. Việc khởi động
Hiệp định thương mại tự do (FTA) với ASEAN đưa Ấn Độ chính thức tham
gia vào làn sóng thiết lập Khu vực Mậu dịch Tự do Đông Á, mở đường cho
Ấn Độ tăng cường hợp tác sâu rộng với khu vực kinh tế rộng lớn Châu Á –
Thái Bình Dương.
b. Giai đoạn từ 2014 đến nay: “Hành động phía Đông”

20


Từ khi thực hiện chính sách “Nhìn về hướng Đông”, New Delhi đã có
những tiến bộ trong tái kết nối với Châu Á kể từ thập niên 1990, tuy nhiên,
khoảng cách giữa tiềm năng và thực tế vẫn còn khá xa nhau. Do đó, kỳ vọng

về sự gia tăng vai trò của Ấn Độ ở Châu Á và ảnh hưởng chính trị của New
Delhi còn khá khiêm tốn.
Năm 2014, sau khi trở thành Thủ tướng Ấn Độ, Narendra Modi đã
chuyển chính sách “Nhìn về hướng Đông” (Look East) thành “Hành động
phía Đông” (Act East), nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của Chính sách
hướng Đông, đưa chính sách hướng Đông trở thành một công cụ mới nâng
cao vai trò, vị thế của Ấn Độ không chỉ ở khu vực Nam Á, Đông Nam Á, mà
cả Châu Á – Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
Chính sách “Hành động phía Đông” là sự tiếp nối chính sách “Nhìn về
hướng Đông” nhưng trong tư thế chủ động hơn, Ấn Độ sẽ thực hiện những
hành động thiết thực để bảo vệ các lợi ích của mình, đồng thời thể hiện một
vai trò lớn hơn, xứng đáng hơn với vị thế cường quốc ở khu vực và thế giới.
Trong chính sách này, Thủ tướng Modi đẩy mạnh xúc tiến các chương
trình kinh tế với các nước Đông Nam Á để thu hút đầu tư và kết nối các điểm
thương mại trong khu vực.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc chính quyền của Thủ tướng Narendra
Modi có sự điều chỉnh chính sách “Nhìn về hướng Đông” sau hơn hai thập
niên triển khai đó là do sự trỗi dậy của Trung Quốc và những vấn đề tranh
chấp chủ quyền biển đảo tại khu vực Biển Đông đã tạo ra những thách thức
nhất định đe dọa tự do hàng hải và luật pháp quốc tế, ảnh hưởng đến lợi ích
của Ấn Độ.
Khu vực Biển Đông có một vị trí địa chiến lược quan trọng, mang lại
nhiều lợi ích cho Ấn Độ. Các tuyến hàng hải đi qua Biển Đông có vai trò
quyết định đến sức mạnh kinh tế của New Delhi, với gần 55% tổng lượng

21


hàng hóa trung chuyển của Ấn Độ được chuyên chở qua eo biển Malacca để
đến Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và các điểm đến quan trọng khác.

Thêm vào đó, nếu Ấn Độ có những chính sách mạnh mẽ, thể hiện quan
điểm không đồng tình với chính sách đầy tham vọng của Trung Quốc tại Biển
Đông thì Ấn Độ sẽ có nhiều cơ hội để hóa giải điều được nhiều nhà nghiên
cứu gọi là “chuỗi ngọc trai” mà Trung Quốc đang có phần cột chặt Ấn Độ ở
Ấn Độ Dương.
Ngoài ra, vấn đề an ninh năng lượng cũng là yếu tố quyết định sự quan
tâm và can dự ngày càng tăng của Ấn Độ ở khu vực Đông Nam Á, vì hiện
nay, Ấn Độ đang khan hiếm nguồn năng lượng và phải nhập khẩu 80% nhu
cầu dầu mỏ từ nước ngoài.
Những yếu tố trên đây là lý do cơ bản để chính quyền của Thủ tướng
Modi có sự điều chỉnh chính sách nhằm rút ngắn khoảng cách từ chính sách
đến hành động trên thực tế, hướng tới củng cố quan hệ chiến lược và mở rộng
quan hệ kinh tế với các nước Đông Nam Á. Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ
Sushma Swaraj, trong chuyến thăm Singapore đã khẳng định sự cần thiết của
chính sách “Hành động phía Đông” rằng: “Hướng Đông không còn phù hợp,
giờ đây chúng tôi cần Hành động phía Đông”.
1.2.3. Vai trò của ASEAN trong Chính sách hướng Đông
Đối với Ấn Độ, tầm quan trọng của ASEAN không chỉ được thể hiện ở
vai trò của tổ chức này trong quá trình hội nhập khu vực ở Đông Á và châu Á
– Thái Bình Dương mà còn ở việc ASEAN là tổ chức hợp tác nằm ở khu vực
có vị trí địa – chiến lược quan trọng đối với Ấn Độ cả trong Thể chiến thứ hai,
thời kỳ Chiến tranh Lạnh và trong giai đoạn hiện nay.
Từ đầu thế kỷ XXI, Ấn Độ thực hiện chính sách đẩy mạnh sang hướng
Đông, coi trọng với các nước khu vực Đông Nam Á cả về kinh tế và an ninh
quốc phòng. Ấn Độ ngày càng thấy rõ lợi ích của mình ở Đông Nam Á và
Biển Đông, tham gia hợp tác nhiều mặt với ASEAN, là nước thành viên có
22


vai trò ngày càng quan trọng trong Cộng đồng Đông Á. Việc Ấn Độ và

ASEAN chuyển từ đối thoại bộ phận năm 1992, lên đối thoại đầy đủ năm
1996 và từ năm 2002 có thêm có chế họp cấp cao đã cho thấy sự hiện diện
quan trọng của Ấn Độ trong Cộng đồng ASEAN.
a. Vị thế địa chiến lược của Đông Nam Á trong Chính sách hướng
Đông
Khu vực Đông Nam Á là nơi án ngữ con đường tiến vào Thái Bình
Dương của Ấn Độ. Do đó, khu vực này có vị trí chiến lược quan trọng trong
hành động mở rộng tầm ảnh hưởng của Ấn Độ tại khu vực châu Á – Thái
Bình Dương.
Mặc dù Ấn Độ có thể tiếp cận khu vực châu Á – Thái Bình Dương
thông qua Trung Quốc hoặc vòng xuống Australia, tuy nhiên, việc tiếp cận
khu vực thông qua Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn do địa hình phức tạp
và đặc biệt vấn đề biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc vẫn chưa được giải
quyết dứt điểm. Nếu lựa chọn đi sang phía Đông bằng con đường vòng xuống
Australia thì sẽ khiến Ấn Độ mất nhiều thời gian, nguy hiểm, tốn kém trong
khi eo biển Malacca đã trở thành nơi thông thương giữa Ấn Độ với khu vực
châu Á – Thái Bình Dương kể từ những năm đầu công nguyên. Thêm vào đó,
Ấn Độ và các nước láng giềng Đông Nam Á đã giải quyết xong vấn đề về
phân chia lãnh thổ trên bộ và trên biển.
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tình hình khu vực Đông Nam Á
có những biến động đáng kể. Việc Mỹ và Nga rút khỏi các căn cứ quân sự ở
khu vực đã tạo ra mối quan ngại về khoảng trống quyền lực mà một nước
Trung Quốc năng động về chính trị và kinh tế có thể lấp đầy. Do đó, Ấn Độ
cũng lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc trong khu vực. Cùng với nỗ lực
tiến hành tự do hóa nền kinh tế trong nước, Ấn Độ đã thực hiện chính sách
hướng Đông để đối phó với tình hình này.

23



Bên cạnh đó, tình hình kinh tế - chính trị tương đối ổn định của các
quốc gia ven bờ Đông Nam Á và đặc biệt là mối quan hệ đối tác chiến lược
Ấn Độ - Việt Nam đang mở ra cho Ấn Độ nhiều triển vọng trong lĩnh vực hợp
tác khai thác dầu khí trên biển Đông, đóng góp phần quan trọng vào vấn đề đa
dạng hóa nguồn cung, đảm bảo an ninh năng lượng cho cường quốc này trong
tương lai gần.
b. ASEAN là điểm khởi đầu và trung tâm trong Chính sách hướng Đông
của Ấn Độ.
Hơn 20 năm qua, quan hệ Ấn Độ - ASEAN không ngừng phát triển, gặt
hái được nhiều thành quả tốt đẹp. Mối quan hệ này đã được hai bên nhất trí
nâng lên tầm cao mới tại Đối thoại Dehli lần thứ 8 tổ chức ở New Dehli (Ấn
Độ) vào tháng 2 năm 2016. Đây cũng là bước tiến “Hành động hướng Đông”
của Ấn Độ nhằm gắn kết hơn và tạo thế trong khu vực.
ASEAN là tổ chức hợp tác nằm ở khu vực có vị thế địa - chính trị chiến
lược quan trọng đối với Ấn Độ trong việc hội nhập khu vực Đông Á và châu
Á - Thái Bình Dương. ASEAN cũng là nhân tố quan trọng của tiến trình xây
dựng Cộng đồng kinh tế Đông Á và là đầu tàu dẫn dắt các cấu trúc hợp tác đa
phương trong khu vực, được Ấn Độ đặc biệt coi trọng.
ASEAN là điểm khởi đầu của Chính sách hướng Đông bởi ngay từ đầu,
Ấn Độ coi việc đẩy mạnh quan hệ với các nước ASEAN là một chiến lược
quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu lớn trong khu vực, cạnh tranh ảnh
hưởng với các nước lớn khác. Ấn Độ cũng xác định ASEAN là mắt xích trung
tâm, là khâu đột phá nhằm tăng cường hợp tác kinh tế, ngoại giao với khu vực
châu Á – Thái Bình Dương.
Kể từ năm 1991, Ấn Độ đã tích cực theo đuổi mối quan hệ thương mại
và chiến lược với các nước Đông Nam Á như một phần trong chính sách
“hướng Đông” của mình. ASEAN và Ấn Độ thiết lập quan hệ đối thoại vào
năm 1992 và nâng lên thành quan hệ đối thoại đầy đủ từ tháng 12/1995.
24



Tháng 12/2012, Hội nghị cấp cao kỷ niệm 20 năm quan hệ đối thoại ASEAN Ấn Độ đã trở thành điểm mốc mang tính bước ngoặt trong quan hệ hai bên
với tuyên bố nâng quan hệ ASEAN - Ấn Độ lên đối tác chiến lược. Hơn hai
thập niên qua, quan hệ giữa ASEAN và Ấn Độ không ngừng được mở rộng và
phát triển trên mọi lĩnh vực.
Từ năm 2014, khi Narendra Modi lên làm Thủ tướng, chính sách “Nhìn
về hướng Đông” của Ấn Độ có thêm động lực mới và được nâng lên thành
chính sách “Hành động phía Đông” - chính thức được công bố tại Hội nghị
Thượng đỉnh Ấn Độ - ASEAN tháng 11 năm 2014 tại Myanmar. Sự kiện này
cho thấy, Ấn Độ đã sẵn sàng đóng vai trò chiến lược năng động hơn và nổi
trội hơn trong khu vực. Ấn Độ và ASEAN cũng đã thiết lập được nhiều cơ
chế đối thoại và hợp tác như: Hội nghị Cấp cao, Hội nghị sau Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN (PMC+1), Tham vấn Bộ trưởng Kinh tế ASEAN
(AEM) và Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ (MCI), Hội nghị
các Quan chức cao cấp (SOM), các Quan chức Kinh tế cao cấp (SEOM), Ủy
ban Hợp tác chung (JCC) được tổ chức hàng năm. Ấn Độ tham gia tích cực
vào Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) từ tháng 7/1996.
ASEAN là nhân tố cốt lõi của tiến trình xây dựng cộng đồng kinh tế
Đông Á, là đầu tàu dẫn dắt trong các cấu trúc hợp tác đa phương trong khu
vực. Ngay cả các cường quốc như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc cũng nhất
trí và thừa nhận vai trò trung tâm của ASEAN. Để có thể phát huy vai trò của
mình cũng như bảo vệ lợi ích chiến lược tại khu vực, Ấn Độ lựa chọn việc
ủng hộ và dựa vào vị thế này của ASEAN. Tại Hội nghị cấp cao Ấn Độ ASEAN lần thứ 9 được tổ chức tại Bali (Indonesia) ngày 19/11/2011, Thủ
tướng Ấn Độ Manmohan Singh một lần nữa khẳng định: “Mối quan hệ của
chúng tôi với ASEAN là một trong những viên đá đặt nền của chính sách đối
ngoại và là cơ sở của Chính sách hướng Đông của chúng tôi” [20].
Trong Chính sách hướng Đông, Ấn Độ dành sự ưu tiên nhất định cho
các Nhóm các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam (CLMV) vốn là
25



×