THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN THUẾ
GIA TĂNG Ở CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG
HOÀN THIỆN.
I, Thuế giá trị gia tăng, một sự lựa chọn đúng đắn trong cơ chế kinh
tế của Việt nam hiện nay.
Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) được chính thức áp dụng rộng rãi trên phạm vi
toàn bộ nền kinh tế Việt nam từ ngày 1/1/1999. Nếu như thuế doanh thu tính trên
toàn bộ doanh thu của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong tất cả các khâu của quá
trình sản xuất xã hội, thì thuế GTGT chỉ tính trên GTGT của sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ được thực hiện ở từng khâu trong lưu thông. Chính bởi vậy, thuế GTGT
trong quá trình thực hiện nó đã thể hiện được một số vai trò nổi bật sau:
Một là, thuế GTGT góp phần thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, mở rộng lưu
thông hàng hoá, dịch vụ ...vì thuế GTGT đã khắc phục được tình trạng trùng lặp
của thuế doanh thu.
Hai là, bảo đảm nguồn thu quan trọng và ổn định cho ngân sách nhà nước, thuế
GTGT huy động và xác định ngay từ khâu đầu và việc thu thuế GTGT ở khâu sau
còn kiểm tra việc tính thuế GTGT đã nộp ở khâu trước nên đã hạn chế việc thất thu
thuế, kiểm soát được nguồn thu trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Ba là, thuế GTGT góp phần tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy
việc mua bán hàng hoá phải có đầy đủ chứng từ, hoá đơn hợp lệ theo luật định.
Việc đăng ký mã thuế cùng với phương pháp khấu trừ đã buộc cả người mua,
người bán thực hiện tốt hơn chế độ hoá đơn, chứng từ trong các hoạt động thanh
toán.
II, Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực hiện quản lý và
tổ chức hạch toán kế toán thuế GTGT và phương hướng hoàn thiện
thuế GTGT.
1, Về phương pháp tính thuế GTGT.
“Qua gần 3 năm thực hiện thuế GTGT cho thấy sử dụng hai phương pháp tính
thuế gây ra nhiều bất cập trong việc khấu trừ thuế đầu vào, doanh số như nhau
nhưng kết quả nộp khác nhau. Điều này cho thấy luật thuế chưa ổn định về phương
pháp tính thuế, dẫn đến không công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế, do đó cần
nghiên cứu kỹ phương pháp tính thuế GTGT, đây là nội dung cơ bản nhất của luật
thuế GTGT. Mặt khác, để quản lý cơ sở áp dụng phương pháp tính trực tiếp phải
huy động gần một nửa Cán bộ thuế với chi phí tương ứng nhưng thu cho ngân sách
Nhà nước chỉ chiếm gần 10% trong tổng thuế GTGT. Xuất phát từ kinh nghiệm các
nước và nguyên tắc hữu hiệu chính sách thuế, để thuế GTGT vận hành mang tính
liên tục không gián đoạn (đầu vào khi nào cũng được khấu trừ), hạn chế loại bỏ
việc khấu trừ không phải là giải pháp tính thuế, cũng như khắc phục triệt để thuế
chồng lên thuế, trùng lặp của thuế”.
Vì vậy, thiết nghĩ về cơ bản lâu dài chỉ nên áp dụng một phương pháp duy nhất
là phương pháp khấu trừ thuế.
Hiện tại phương pháp trực tiếp chỉ được quy định tồn tại trong giai đoạn quá độ
để chuẩn bị đầy đủ các điều kiện áp dụng phương pháp khấu trừ . Đồng thời đối
tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp nên thu hẹp theo hướng chuyển sang
áp dụng theo phương pháp khấu trừ, số còn lại chỉ nên áp dụng đối với đối tượng
nộp thuế có doanh số hàng năm thấp nhưng doanh số trên ngưỡng chịu thuế GTGT.
Việc xác định doanh số bao nhiêu là cao, bao nhiêu là thấp là một vấn đề hết sức
phức tạp.
2, Về thuế suất GTGT.
Từ 11 nhóm thuế suất thuế doanh thu cũ, nay chuyển sang thuế GTGT còn lại
bốn loại thuế suất: 0%, 5%, 10% và 20%. Trong thực tế, qua điều chỉnh nhiều lần,
tạm giảm thuế đầu ra, cho khấu trừ không thuế đầu vào ( theo nghị định
102/1998/NĐ - CP và nghị định 78/1999/NĐ - CP) dẫn đến không phải chỉ có bốn
nhóm thuế suất mà là rất nhiều mức thuế và nhóm thuế suất khác nhau, theo xu
hướng là giảm thuế thì các cơ sở sản suất kinh doanh mới hoạt động được. Đồng
thời qua kinh nghiệm của các nước đang áp dụng thuế GTGT với xu hướng giảm
số lượng thuế suất, giảm sự phức tạp khi áp dụng thuế suất, chính sách thuế ở nước
ta chỉ nên quy định hai loại thuế suất:
- 0% áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu;
- 10% áp dụng cho tất cả các hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh
và tiêu dùng trong nước.
Tuy nhiên để giảm số lượng thuế suất còn 2 mức phải đảm bảo các yêu cầu:
“Một là, xác định mức thuế suất phải đảm bảo không làm ảnh hưởng lớn đến
nguồn thu của ngân sách Nhà nước, đồng thời phải nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân
sách Nhà nước.
Hai là, mức thuế suất phải bảo hộ được sản xuất trong nước do phải giảm thuế
nhập khẩu vào năm 2006 theo hiệp định AFTA.
Ba là, mức thuế suất phải đảm bảo công bằng quyền lợi và nghiệp vụ giữa các
doanh nghiệp, đảm bảo ổn định thị trường trong nước, không có biến động lớn về
giá cả và không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.”
1
1
Ở Pháp từ năm 1986, thuế GTGT có 4 thuế suất:5.5%,7%.18.6% và33.3%.Để
đơn giản hoá cớ cấu hệ thống thuế suất đã giảm mức thuế chỉ còn 5.5%và18.6%.
Ở Thụy Điển cũng đă điều chỉnh hàng năm qua nhiều đợt khác nhau, hiện nay
chỉ còn hai mức thuế suất 5.5%và18.6%.
3, Về quản lý sử dụng hoá đơn , chứng từ .
Cùng với việc đưa vào, triển khai luật thuế GTGT thì hoá đơn GTGT cũng được
đưa vào sử dụng. Theo quy định hiện hành thì việc in ấn, phát hành, quản lý quá
trình sử dụng hoá đơn GTGT. Đó là, đã xuất hiện trên thị trường loại hoá đơn giả,
loại hoá đơn thật nhưng nội dung giả, nhiều tình trạng mua bán hoá đơn, tẩy xoá
hoá đơn, ghi chép trên hoá đơn sai thực tế ... tất cả đều nhằm mục đích trốn thuế,
gian lận số thuế phải nộp qua việc khấu trừ thuế đầu vào và công khai lấy khống
tiền Ngân sách Nhà nước qua việc hoàn thuế GTGT đầu vào...Vấn đề đáng quan
tâm nữa là, luật thuế GTGT vừa thông thoáng và tạo sự chủ động cho doanh
nghiệp bao nhiêu thì quy định về sử dụng hoá đơn, chứng từ càng trói buộc doanh
nghiệp bấy nhiêu. Bởi công tác quản lý sử dụng hoá đơn chỉ mới coi trọng một vế -
là các cơ quan quản lý Nhà nước (trực tiếp là cơ quan thuế), mà chưa chuyển kịp
theo nguyên tắc đã quán triệt trong nội dung của luật thuế GTGT là đề cao trách
nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trong quản lý, sử dụng, hoá đơn, chứng từ.
Trên thực tế thì Tổng cục thuế đã vận dụng nguyên tắc đề cao trách nhiệm và
quyền chủ động của doanh nghiệp trong quản lý sử dụng hoá đơn đã cho phép một
số ít doanh nghiệp đăng ký sử dụng hoá đơn tự in, tự phát hành, tự quản lý sử
dụng. Việc quản lý sử dụng hoá đơn ở các đối tượng này rất chặt chẽ và hiếm xảy
ra sai phạm.
“Hướng hoàn thiện đối với vấn đề hoá đơn GTGT là nhanh chóng nhân rộng cơ
chế doanh nghiệp sử dụng hoá đơn tự in để trao lại trách nhiệm và quyền quản lý
chủ yếu đối với hoá đơn GTGT cho doanh nghiệp; các cơ quan quản lý Nhà nước
(trực tiếp là cơ quan thuế) chỉ nhận trách nhiệm cho phép doanh nghiệp phát hành
hoá đơn theo mẫu đăng ký và thực hiện công tác giám sát, kiểm tra quá trình quản
lý, sử dụng hoá đơn của doanh nghiệp. Đồng thời cơ quan thuế chỉ phát hành số ít
hoá đơn GTGT cho các hộ kinh doanh chưa có điều kiện tự in hoá đơn. Bên cạnh
đó, Tổng cục thuế cần nhanh chóng hoàn thiện và đưa chương trình quản lý, đối
chiếu hoá đơn, chứng từ qua mạng vi tính với yêu cầu là: Mọi phát sinh chi tiết
(đầu ra, đầu vào) của đối tượng nộp thuế phải được nhập vào mạng, từ đó có các cơ
quan quản lý NN, nhất là cơ quan thuế sử dụng để đối chiếu trên máy, phát hiện
ngay các mâu thuẫn giữa đầu vào, đầu ra của đơn vị có liên quan.”.
4, Về khấu trừ thuế.
“Khấu trừ khống - một bước lùi của chính sách thuế GTGT. Luật thuế GTGT
quy định theo phương pháp khấu trừ được khấu trừ khống thuế đầu vào theo tỷ lệ
3% theo giá mua trên hoá đơn bán hàng, tỷ lệ 0% trên giá trị hàng mua vào theo
bảng kê đối với hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến, đất, đá, cát, sỏi,
các phế liệu của nguồn bán không có hoá đơn. Mặt khác quy định lỏng lẻo trong
việc lập bảng kê tạo sơ hở cho các đối tượng nộp thuế khai khống giá mua (không
đối chiếu được với nguồn bán) vừa để được khấu trừ (hoàn) thuế GTGT đầu vào,
vừa được chấp nhận chi phí hợp lý giảm thu nhập chịu thuế TNDN. Như vậy, quy
định khấu trừ vô hình chung đã gán cho doanh nghiệp một số thuế khấu trừ vượt xa
so với thực tế phát sinh. Làm cho thuế GTGT và thuế TNDN nộp vào Ngân sách
Nhà nước không phản ánh đúng thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Có thể nói đây là bước lùi của chính sách thuế GTGT; bởi nội dung
của luật càng quy định chặt chẽ bao nhiêu thì việc khấu trừ khống lại sơ hở bấy
nhiêu”.
Do đó hướng hoàn thiện nên bỏ quy định cho phép khấu trừ khống đối với tất
cả các hình thức, các hoạt động kinh tế. Điều cốt yếu là đẩy nhanh tiến độ triển
khai chế độ kế toán hộ kinh doanh cho những loại hộ lớn và vừa; còn loại hộ nhỏ
nên quy định một mức ổn định cho từng loại hình kinh doanh.
5, Thuế GTGT của hàng nhập khẩu.
Đây là một hình thức bảo hộ chưa có sự chọn lọc - Theo quy định hiện hành,
tất cả các loại hàng hoá nhập khẩu đều phải chịu thuế GTGT , trừ một số trường
hợp nhập khẩu máy móc thiết bị trong nước không sản xuất được... hoặc máy bay,
hoặc hàng hoá nhập khẩu là hàng viện trợ, hàng theo tiêu chuẩn miễn trừ ngoại
giao... hoặc hàng hoá chuyển khẩu, quá cảnh, muộn đường ...
Luật thuế GTGT quy định thuế suất của một loại hàng hoá qua các khâu: Nhập
khẩu, sản xuất, gia công, thương mại đều như nhau ; nói cách khác thuế suất thuế
GTGT hàng nhập khẩu cũng chính là thuế suất hàng nhập khẩu bán ra, nghĩa là số
thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu phải nộp sau khi tiêu thụ bằng GTGT của
hàng hoá nhập khẩu nhân với thuế suất. Từ đó có thể nhận thấy thuế GTGT đầu
vào của hàng hoá nhập khẩu không mang ý nghĩa là nguồn thu cho Ngân sách Nhà
nước - vì nó được khấu trừ đầu vào (hoặc hoàn thuế đầu vào) mà chủ yếu là mang
ý nghĩa bảo hộ hàng sản xuất trong nước thông qua cơ chế kết cấu thuế GTGT đầu
vào của hàng hoá vào giá cả, làm cho giá cả hàng hoá nhập khẩu tăng thêm một
lượng bắng số thuế GTGT đầu vào khi tiêu thụ nội địa. Điều này phù hợp với một
nền sản xuất còn non trẻ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. “Tuy nhiên
không một quốc gia nào thực hiện việc bảo hộ đại trà cho phần lớn các loại hàng
hoá mà thường bảo hộ có chọn lọc và bảo hộ có thời hạn. Đối với Việt Nam xu thế
hội nhập khu vực (AFTA) đang đến rất gần, cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh
của hàng hoá sản xuất trong nước, hơn nữa không thể bắt buộc người tiêu dùng
trong nước phải chịu thêm một lượng thuế GTGT đầu vào của tất cả các loại hàng
hoá nhập khẩu vào Việt Nam”.
Do vậy hướng hoàn thiện thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu nên cân nhắc lựa
chọn danh mục mặt hàng cần thiết phải bảo hộ để vừa tạo ra sức cạnh tranh cho
hàng hoá sản xuất trong nước, vừa giảm áp lực giá cả đối với người tiêu dùng trong
nước sử dụng hàng nhập khẩu vừa giảm thiểu chi phí, thời gian, thủ tục cho doanh
nghiệp nộp thuế và cơ quan thu thuế.
6, Vấn đề hoàn thuế GTGT.
Trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT, thủ tục hoàn thuế rất phù hợp nên trên
đó hoàn thuế chậm, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp đặc biệt là những doanh
nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của tình
hình trên một phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan
thuế chưa quen, văn bản hướng dẫn lại chưa rõ ràng. Trước tình hình đó, Bộ Tài
chính đã có các văn bản bổ sung là hoàn thuế trước, kiểm tra sau và phải xử lý
nghiêm những trường hợp vi phạm. Các văn bản này đề cao trách nhiệm và quyền
lợi của các doanh nghiệp , của người nộp thuế trong việc hoàn thuế GTGT.
“Tuy nhiên vấn đề hoàn thuế vẫn còn nhiều bất cập về thủ tục cũng như thời
gian hoàn thuế. Vấn đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ sở trước những hồ sơ xin
được hoàn thuế, đồng thời đơn giản hoá các thủ tục xin được hoàn thuế và tăng
cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế.Bên cạnh đó việc khấu trừ thuế GTGT
đầu vào theo tỷ lệ % đối với hàng hoá mua vào không có hoá đơn GTGT theo quy
định tại khoản đ.điểm1, Điều 10. Cơ chế “hoàn trước, kiểm sau” đã bị một số
doanh nghiệp lợi dụng thông qua các thủ đoạn như: gian lận trong kê khai thuế
GTGT đầu vào (khai khống một phần hoặc toàn bộ) để được khấu trừ và hoàn
thuế; gian lận trong kê khai khống một phần hoặc toàn bộ hàng xuất khẩu để được
áp dụng thuế GTGT đầu vào 0% vv… Những vi phạm đó đã gây tộn thất không
nhỏ cho ngân sách, bóp méo một chính sách thuế có nhiều tiến bộ. Các bộ, ngành
đã và đang phối hợp kịp thời có các biện pháp điều chỉnh. ở đây rất cần được sự
chỉnh sửa, bịt ngay các kẻ hở dễ bị lợi dụng; đầy mạnh tuyên truyền sâu rộng để
mọi đối tượng nộp thuế hiểu, thực hiện nghiêm và tăng cường quản lý đội ngũ cán
bộ thuế, hải quan vv, đi đôi với xử lý thất nghiêm những người vi phạm luật thuế
và chính sách thuế. Đó là yêu cầu của sự phát triển, là đòi hỏi của cuộc sống”.
7, Vấn đề miễn giảm thuế GTGT.
Thông tư 175 ngày 24/12/1998 của Bộ Tài chính có quy định những cơ sở sản
xuất kinh doanh một số loại hàng hóa, dịch vụ khi tính thuế đầu ra được giảm 50%
thuế GTGT ghi trên giá bán hàng là giảm cho người tiêu dùng song trên thực tế
đơn vị sản xuất kinh doanh không giảm trên giá thanh toán khi giảm 50% thuế
GTGT mà còn đơn vị sản xuất kinh doanh các mặt hàng được giảm 50% thuế