Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

Đánh giá việc thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm khi thu hồi đất nông nghiệp ở huyện từ liêm, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.06 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

--------- ---------

DOÃN THỊ BÌNH

ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CHUYỂN
ĐỔI NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM KHI THU HỒI ĐẤT NÔNG
NGHIỆP Ở HUYỆN TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2011
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

--------- ---------

DOÃN THỊ BÌNH
ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ
CHUYỂN ĐỔI NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM KHI THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


Chuyên ngành: Địa Chính
Mã số

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Trần Văn Tuấn

Hà Nội - 2011
2


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ

10

Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG
NGHIỆP VÀ CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CHUYỂN ĐỔI NGHỀ VÀ TẠO
VIỆC LÀM CHO NGƢỜI CÓ ĐẤT NÔNG NGHIỆP BỊ THU HỒI

13


1.1. Vấn đề thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, đô
thị hoá ở Việt Nam
1.2. Các chính sách thu hồi, bồi thường đấ nông nghiệp và hỗ trợ chuyển
đổi nghề, tạo việc làm cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi
1.3. Sự cần thiết tạo việc làm cho lao động thuộc diện bị thu hồi đất nông
nghiệp do quá trình đô thị hoá
1.4. Kinh nghiệm của một số nước trong vấn đề thu hồi đất và giải quyết

việc làm cho người dân

33

Chƣơng 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HỖ TRỢ CHUYỂN ĐỔI NGHỀ
VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG THUỘC DIỆN THU HỒI
ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN TỪ LIÊM

38


2.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
2.1.2. Tình hình quản lý, sử dụng đất của huyện Từ Liêm
2.2. Tình hình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Từ Liêm
2.2.1. Khái quát về công tác thu hồi đất nông nghiệp
2.2.2.Mục đích sử dụng đất nông nghiệp thu hồi trên địa bàn huyện Từ Liêm
2.2.3. Đặc điểm của người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa
bàn huyện Từ Liêm
2.3. Thực trạng về công tác hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm khi
thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Từ Liêm
2.3.1. Thực trạng công tác hỗ trợ về kinh tế
2.3.2. Thực trạng hỗ trợ dạy nghề và học nghề
2.3.3. Thực trạng công tác hỗ trợ tạo việc làm mới
2.4. Những vấn đề bất cập của các chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề và
tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện
Từ Liêm
3

Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM HỖ TRỢ CHUYỂN ĐỔI

NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG THUỘC DIỆN THU HỒI
ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN TỪ LIÊM

3.1. Phương hướng phát triển kinh tế trên địa bàn huyện Từ Liêm giai
đoạn 2011 – 2015
3.2. Quan điểm về hỗ trợ chuyển đổi nghề, tạo việc làm cho người lao
động bị thu hồi đất nông nghiệp do quá trình đô thị hoá ở huyện Từ Liêm
3.3. Giải pháp về hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm
3.3.1. Giải pháp về cơ chế chính sách
3.3.2.Giải pháp về kinh tế, xã hội
3.3.3. Giải pháp về công tác tổ chức, quản lý và thực hiện
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO


4


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNH – HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

KCN

Khu công nghiệp

NĐ-CP

Nghị định - Chính phủ


QĐ-CP

Quyết định - Chính phủ

UBND

Ủy ban nhân dân

TTCN

Tiểu thủ công nghiệp

HTX

Hợp tác xã

TTGTVL

Trung tâm giới thiệu việc làm

GTVL

Giới thiệu việc làm

XKLĐ

Xuất khẩu lao động

5



DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Tình hình thu hồi đất ở một số địa phương trên cả nước………………18
Bảng 2.1: Giá trị sản xuất các ngành kinh tế của huyện Từ Liêm năm 2011……..39
Bảng 2.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Từ Liêm qua các năm………...40
Bảng 2.3: Diện tích và cơ cấu các loại đất của huyện Từ Liêm năm 2011……….42
Bảng 2.4: Diện tích và cơ cấu đất nông nghiệp huyện Từ Liêm năm 2011………43
Bảng 2.5: Biến động các loại đất của huyện Từ Liêm giai đoạn 2006-2011……..44
Bảng 2.6: Tổng hợp kết quả giao, thu hồi đất nông nghiệp từ năm 2000-2010…..47
Bảng 2.7: Kết quả điều tra các chỉ tiêu về thu hồi đất nông nghiệp………………49
Bảng 2.8: Mục đích sử dụng đất nông nghiệp bị thu hồi của huyện……………...51
Bảng 2.9: Kết quả điều tra về bình quân thu nhập của các hộ bị thu hồi đất trên địa
bàn 05 xã huyện Từ Liêm…………………………………………………………54
Bảng 2.10: Kết quả điều tra về thay đổi thu nhập của các hộ dân sau khi bị thu hồi
đất nông nghiệp…………………………………………………………………...56
Bảng 2.11: Lao động bị thu hồi đất trên địa bàn huyện Từ Liêm………………...57
Bảng 2.12: Cơ cấu tuổi của lao động thuộc diện bị thu hồi đất nông nghiệp được
điều tra tại 05 xã: Xuân Phương, Đông Ngạc, Mễ Trì, Mỹ Đình, Phú Diễn……...57
Bảng 2.13: Kết quả điều tra về trình độ học vấn của một số người trong độ tuổi lao
động trước và sau khi bị thu hồi đất tại 05 xã: Xuân Phương, Đông Ngạc, Mễ Trì, Mỹ
Đình, Phú Diễn …………………………………………………….…………59

Bảng 2.14: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động nông nghiệp bị mất
đất…………………………………………………………………………………60
Bảng 2.15: Tình hình việc làm của lao động trong diện bị thu hồi đất nông nghiệp
tại 05 xã: Xuân Phương, Đông Ngạc, Mễ Trì, Mỹ Đình, Phú Diễn………………62
Bảng 2.16: Việc làm trước và sau khi diễn ra thu hồi đất của lao động trong các hộ
gia đình……………………………………………………………………………65
Bảng 2.17: Tổng hợp các hộ mất đất từ ngày 1/1/2008 đến 30/9/2009 trên địa bàn

huyện Từ Liêm……………………………………………………………………69
Bảng 2.18: Hỗ trợ chuyển đổi nghề, tạo việc làm cho các hộ mất đất trên 30% từ
ngày 1/1/2008 đến 30/9/2009 tại huyện Từ Liêm………………………………...71
Bảng 2.19: Tình hình hỗ trợ đền bù và thực trạng đời sống của các hộ dân……...72
6


Bảng 2.20: Tỷ lệ người lao động được trợ giúp sau khi thu hồi đất………………73
Bảng 2.21: Kết quả đăng ký dạy nghề, học nghề năm 2011 tại huyện Từ Liêm…75
Bảng 2.22: Khu vực làm việc trước và sau khi diễn ra việc thu hồi đất…………..78
Bảng 2.23: Tình hình tuyển dụng lao động NN trên đại bàn huyện Từ Liêm…….78
Bảng 2.24: Mục đích sử dụng tiền đền bù khi thu hồi đất của các hộ gia đình…...80

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biều đồ 2.1: Biến động các loại đất giai đoạn 2006-2011………………………...45

PHIẾU ĐIỀU TRA
Phiếu số 01: Nguyễn Thị Mận - xã Xuân Phương
Phiếu số 38: Hoàng Thị Lương - xã Đông Ngạc
Phiếu số 60: Ngô Văn Lịch - xã Mễ Trì
Phiếu số 120: Nguyễn Thị Gấm - xã Mỹ Đình
Phiếu số 135: Nguyễn Ngọc Vàng - xã Phú Diễn

7


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đô thị hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi cả nước nói
chung và Hà Nội nói riêng. Ở tầm vĩ mô, một mặt đô thị hoá là một trong những

giải pháp quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đáp ứng mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá: phát triển
mạnh các ngành công nghiệp và thương mại - dịch vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề
ra trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Mặt khác đô thị hoá cũng là một trong
những chỉ tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển của một đất nước. Tuy nhiên bên
cạnh những tác động tích cực, vẫn còn có không ít những bất cập, tồn tại đặt ra cần
phải giải quyết, đặc biệt là vấn đề lao động - việc làm đối với một bộ phận lớn dân
cư nông thôn bị rơi vào tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm khi bị thu hồi đất.
Hà Nội là một trong những thành phố có tốc độ đô thị hoá thuộc loại nhanh
nhất so với các địa phương khác trong cả nước. Điều này được thể hiện qua sự mở
rộng phạm vi địa giới và sự tăng trưởng về số lượng các khu công nghiệp tập trung,
cụm công nghiệp vừa và nhỏ, các khu đô thị mới...
Từ Liêm là một huyện ngoại thành Hà Nội, có tốc độ đô thị hoá nhanh với
khoảng 300 dự án đầu tư, trong đó phần lớn là phát triển các khu đô thị với tổng
diện tích đất thu hồi hàng nghìn ha. Đi cùng những dự án, hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội ở các khu vực dân cư xung quanh vùng quy hoạch cũng được cải tạo và
nâng cấp đồng bộ. Đời sống của người dân có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích
cực, hạ tầng cơ sở và hệ thống ( y tế, giáo dục, giao thông...) ngày càng được cải
thiện hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động của đô thị hoá đối với đời sống
kinh tế - xã hội nói chung, không thể không đề cập tới những tác động của nó đối
với vấn đề lao động - việc làm.
Cùng với quá trình đô thị hoá là xu hướng diện tích đất nông nghiệp của
huyện này càng bị thu hẹp lại và cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ
trọng nông nghiệp đã tất yếu dẫn đến việc chuyển đổi cơ cấu lao động và việc làm
của người dân, ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của họ. Vấn đề đặt ra ở đây là
cơ cấu lao động và việc làm của người nông dân có đất nông nghiệp bị
8


thu hồi đã chuyển đổi như thế nào? Người dân đã thực hiện những chiến lược sinh

kế như thế nào để có thể thích nghi với hoàn cảnh và điều kiện sống mới? Và Nhà
nước ta đã có những giải pháp, chính sách như thế nào để hỗ trợ, giúp đỡ người
dân ổn định đời sống và sản xuất?
Từ tính cấp thiết trên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá việc thực
hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm khi thu hồi đất nông
nghiệp ở huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội”
2. Mục tiêu nghiên cứu
-

Đánh giá tình hình thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề, tạo việc

làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyê ̣n Từ Liêm giai
đoạn 2000-2011.
-

Đề xuất các giải pháp hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm cho người

lao động nông nghiệp bị thu hồi đất trên địa bàn huyêṇ Từ Liêm.
3. Giới hạn phạm vi, nội dung nghiên cứu
-

Phạm vi nghiên cứu: huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

-

Nội dung nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện

chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi
đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

-

Tổng quan một số vấn đề về thu hồi đất nông nghiệp và các chính sách hỗ

trợ giải quyết việc làm cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi
- Điều tra , khảo sát làm rõ thực trạng việc làm của người lao động có đất
nông nghiệp bị thu hồi và tình hình thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề,
tạo việc làm trên địa bàn huyện Từ Liêm.
-

Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách hỗ

trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
-

Phương pháp tiếp cận hệ thống: Vấn đề nghiên cứu được đặt trong mối

quan hệ tổng quan, được tiếp cận từ nhiều phía; cụ thể là tiếp cận từ tổng thể tới chi
tiết; từ lý luận, phương pháp luận tới thực tiễn; từ chính sách, pháp luật tới thực tế
9


triển khai thực hiện chính sách và thi hành pháp luật.
-

Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Thực hiện điều tra thực tế bằng

phương pháp sử dụng phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp các đối tượng liên quan tới
vấn đề nghiên cứu; thu thập và nghiên cứu các hồ sơ, tài liệu, số liệu, văn bản liên

quan tới đối tượng nghiên cứu nhằm rà soát, phát hiện và hệ thống hoá các vấn đề.
-

Phương pháp so sánh: Tiến hành phân lập các nhóm đối tượng và nhóm

chỉ tiêu, đối chiếu các chỉ số định lượng hoặc cấp độ định tính tương ứng để xác
định mức độ giống nhau, khác nhau, từ đó xác định hoặc dự đoán, dự báo các quy
luật, diễn biến của các hiện tượng hoặc mối quan hệ hay tính chất của các đối
tượng nghiên cứu;
-

Phương pháp phân tích: Thông qua các số liệu thống kê từ nguồn thông tin

thu thập được tiến hành phân tích, so sánh từ đó đưa ra những nhận định chủ quan,
những nhận định của những nhà quản lý về vấn đề nghiên cứu.
-

Phương pháp kế thừa: Khảo cứu tài liệu và kế thừa có chọn lọc các kết quả

nghiên cứu của các chương trình, công trình, đề tài khoa học có liên quan tới vấn
đề nghiên cứu;
-

Phương pháp chuyên gia: Tham vấn, trưng cầu ý kiến các nhà khoa học,

các chuyên gia có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu thông qua
đối thoại trực tiếp, góp ý hoặc phản biện kết quả nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, luận văn gồm 3 phần chính sau:
Chƣơng 1: Tổng quan các vấn đề về thu hồi đất nông nghiệp và các chính sách


hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi.
Chƣơng 2: Phân tich́ thưc ̣ trang ̣ hỗ trợ chuyển đổi nghề vàtaọ viêc ̣ làm cho
người lao đông ̣ thuôc ̣ diêṇ thu hồi đất nông nghiêp ̣ ởhuyêṇ Từ Liêm.
Chƣơng 3: Đề xuất giải pháp nhằm hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm
cho lao đông ̣ thuôc ̣ diêṇ thu hồi đất nông nghiêp ̣ tại huyêṇ Từ Liêm.

10


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ CÁC
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CHUYỂN ĐỔI NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO
NGƢỜI CÓ ĐẤT NÔNG NGHIỆP BỊ THU HỒI

1.1. Vấn đề thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, đô
thị hóa ở Viêt Nam
1.1.1. Công nghiệp hoá, đô thị hoá và sự cần thiết phải thu hồi đất
1.1.1.1. Một số khái niệm có liên quan đến thu hồi đất, bồi thường khi thu
hồi đất
Theo Luật đất đai năm 2003 và đại từ điển Tiếng Việt, các khái niệm có liên
quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất được định nghĩa như sau:
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng
đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý [17].

Bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây ra, trả lại tương xứng với giá trị
hoặc công lao [23]. Như vậy, bồi thường là trả lại tương xứng với giá trị hoặc công
lao cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì hành vi của chủ thể khác.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất [17].
Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất

thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa
điểm mới [17].
Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với
một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định [17] .
Trong bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất của
nông hộ thì Nhà nước phải tính toán “bồi thường” tiền cho người dân một khoản
tương ứng và phù hợp với giá trị hiện tại của mảnh đất đó. Ngoài ra khi thu hồi đất
thì người nông dân không có việc làm do mất tư liệu sản xuất, Nhà nước tiếp tục
tính toán “bù” thêm một khoản cho người nông dân chuyển đổi nghề mới, tạo việc
làm và ổn định cuộc sống.
Nội dung của các khoản tiền bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp gồm:
11


-

Tiền bồi thường đất: Là khoản tiền bồi thường cho hộ do bị mất tư liệu sản

xuất, cụ thể ở đây là đất nông nghiệp.
-

Tiền bồi thường hoa mầu: Là khoản tiền bồi thường do việc thu hồi đất

làm thiệt hại đến hoa mầu chưa được thu hoạch trên diện tích thu hồi. Mức bồi
thường đối với cây hàng năm tính bằng giá trị sản lượng thu hoạch một vụ tính
theo mức thu hoạch bình quân của ba vụ trước đó theo giá nông sản thực tế ở thị
trường địa phương tại thời điểm bồi thường.
-

Tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp.


-

Tiền hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất.

Các khoản hỗ trợ này nhằm mục đích giúp đỡ phần nào cho người dân sau
khi mất đất chuyển đổi nghề nghiệp, ổn định cuộc sống và ổn định sản xuất, giảm
bớt những gắng nặng kinh tế. Không nhằm mục đích giải quyết toàn bộ kinh phí
chuyển đổi nghề nghiệp và ổn định sản xuất cho nông hộ, vì các khoản hỗ trợ này
không nhiều và chỉ mang tính chất hỗ trợ.
1.1.1.2. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá ở Việt Nam
CNH - HĐH và đô thị hoá là con đường phát triển của mọi quốc gia trên thế
giới. Trong thời đại khoa học - công nghệ phát triển nhanh, thì CNH - HĐH và đô
thị hoá là con đường giúp cho các nước chậm phát triển rút ngắn thời gian so với
các nước đi trước.
Thực tiễn phát triển của nhiều quốc gia trong những năm gần đây cho thấy,
CNH - HĐH và đô thị hoá là nhân tố quyết định làm thay đổi căn bản phương thức
sản xuất, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp truyền thống, tiểu nông sang
phương thức sản xuất mới, hiện đại, do đó cũng làm thay đổi nội dung kinh tế - xã
hội nông thôn. Trong nền kinh tế hiện đại, CNH - HĐH và đô thị hoá có sự gắn bó
chặt chẽ với nhau, tạo thành một tiến trình thống nhất thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, xã hội.
Trong quá trình CNH - HĐH, tiến trình phát triển xã hội đã có sự thay đổi cơ
bản đó là: Phát triển đô thị kèm theo sự thu hẹp xã hội nông thôn, làm thay đổi căn
bản xã hội nông thôn theo hướng công nghiệp. Hiện tượng đô thị hoá được xem
như là một trong những nét đặc trưng nhất của sự biến đổi xã hội trong thời
12


đại ngày nay. Cùng với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá được xem như một

khía cạnh quan trọng của sự vận động đi lên của xã hội. Đô thị hoá là một quá trình
lịch sử trong đó nổi lên một vấn đề kinh tế - xã hội là nâng cao vai trò của đô thị
trong sự phát triển mọi mặt của xã hội. Quá trình này bao gồm sự thay đổi trong
phân bố lực lượng sản xuất, trước hết là trong sự phân bố dân cư, trong kết cấu
nghề nghiệp - xã hội, kết cấu dân số, trong lối sống, văn hoá.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi đối với sản xuất và đời sống con
người, sự phát triển nhanh chóng của các đô thị cũng là nguyên nhân chính gây ảnh
hưởng đến cân bằng sinh thái do tài nguyên đất bị khai thác để xây dựng đô thị,
giảm diện tích cây xanh và mặt nước, bùng nổ giao thông cơ giới. Cùng với đó là
sự gia tăng khối lượng khai thác và sử dụng nguồn nước sạch, mức độ ô nhiễm các
chất thải công nghiệp và sinh hoạt ngày càng một lớn. Ngoài ra, sự gia tăng dòng
người di dân từ nông thôn ra đô thị cũng gây nên những áp lực đáng kể về nhà ở và
vệ sinh môi trường,…
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống muốn trở
thành nước có nền công nghiệp hiện đại, cần phải đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH
đất nước, đó là con đường để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cũng như ở các quốc gia
khác, CNH - HĐH ở nước ta tất yếu kéo theo quá trình đô thị hoá. Tốc độ công
nghiệp hoá càng nhanh sẽ dẫn đến trình độ đô thị hoá càng cao. Đô thị hoá và sự
hình thành các đô thị hiện đại là một trong những chỉ tiêu cơ bản phản ánh trình độ
hiện đại hoá. Về thực chất, CNH - HĐH và đô thị hoá là quá trình cơ cấu lại nền
kinh tế theo hướng phát triển mạnh khu vực công nghiệp, dịch vụ, giảm mạnh lao
động nông nghiệp. Như vậy, phần lớn lao động nông thôn làm nông nghiệp sẽ phải
chuyển sang làm phi nông nghiệp, dân sống ở nông thôn trở thành dân thành thị.
Đến nay, tốc độ CNH - HĐH và đô thị hoá ở Việt Nam đã và đang được đẩy
mạnh, nhưng so với thế giới Việt Nam vẫn ở mức thấp. Theo báo cáo thống kê của
Liên Hợp Quốc, các nước công nghiệp phát triển cho thấy trình độ, đô thị hoá của
nước ta thấp hơn nhiều và năm 2009 mức thu nhập bình quân tính theo đầu người
xếp 138/193 nước. Mức thu nhập bình quân đầu người năm 2010 của Việt Nam
13



cũng mới chỉ đạt khoảng 1.160 USD/người/năm. Trong khi đó ở các nước có nền
kinh tế công nghiệp mới đã có mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người cao
hơn gấp 5 đến 24 lần, các nước tư bản cao hơn gấp 60 đến 80 lần.
Trước tình hình trên, Việt Nam cần phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình CNH HĐH và đô thị hóa, đó là một yêu cầu khách quan và cấp bách của sự phát triển.
Trên thực tế, đối với nước ta quá trình CNH - HĐH và đô thị hoá đang diễn ra với
quy mô lớn và tốc độ nhanh, góp phần quan trọng phát triển các cơ sở sản xuất,
kinh doanh và dịch vụ nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, các trung tâm thương mại và dịch vụ là yếu tố quan trọng
duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao, tạo việc làm ở các khu vực chính với chất
lượng công việc và giá trị lao động ngày càng cao.
1.1.1.3. Sự cần thiết phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất để thực hiện
công nghiệp hoá và đô thị ở nước ta
Việc thu hồi đất để xây dựng các KCN, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nước ta được tiến hành mạnh mẽ từ khi thực hiện đường lối đổi mới,
chuyển nền kinh tế từ nền kinh tế thành phần tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình này được thúc đẩy nhanh hơn từ trước năm
1990, khi nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ: Đẩy mạnh CNH - HĐH, xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ,…tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại [24].
Cùng với CNH - HĐH nền kinh tế, nhiệm vụ xây dựng đồng bộ và từng
bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng được đặt ra một cách cấp thiết. Tiến
trình CNH - HĐH ở nước ta từ những năm 1990 được gắn liền với đô thị hoá cả về
chiều rộng và chiều sâu. Chiến lược phát triển đô thị Việt Nam thời kỳ 1996 - 2020
xác định mục tiêu phát triển đô thị cả nước đến năm 2020 là: Xây dựng tương đối
hoàn chỉnh đô thị cả nước, có kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật hiện đại, có môi
trường đô thị trong sạch, được phân bổ phát triển hợp lý trên địa bàn cả nước,…
phấn đấu đến năm 2020, dân số đô thị chiếm khoảng 45% dân số cả nước.
Việc thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta trong những năm gần đây gắn với sự

14


chuyển đổi mục đích sử dụng sang các loại đất phi nông nghiệp. Nhờ đó đã xây
dựng được nhiều KCN, các cụm công nghiệp, mở rộng và xây dựng mới các khu
đô thị, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội giao thông, cấp điện, cấp thoát
nước, thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện,… hoàn thiện và phát triển các cơ
sở dịch vụ như khách sạn, nhà hàng, siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm dịch
vụ, du lịch; mở rộng và xây dựng mới các khu vui chơi giải trí, công viên, cây
xanh,… chính điều đó làm cho quá trình CNH - HĐH có bước tiến đáng kể, quá
trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ hơn.
Tóm lại, nếu CNH - HĐH và đô thị hoá là tất yếu khách quan đối với nước
ta thì việc thu hồi đất để phục vụ cho quá trình này là vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Vì vậy, trong quá trình CNH - HĐH, bất cứ nước nào cũng phải chuyển đổi một số
lượng đất đai từ mục đích nông nghiệp sang mục đích phi nông nghiệp để phục vụ
cho việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
1.1.2. Khái quát chung về thực trạng thu hồi đất nông nghiệp phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá ở Việt Nam
Thực tiễn ở nước ta trong những năm qua cho thấy, CNH - HĐH và đô thị
hoá tất yếu sẽ dẫn đến một bộ phận đất đai được chuyển đổi mục đích sử dụng.
Trong quá trình đó, Nhà nước sẽ thực hiện thu hồi đất để xây dựng các KCN, khu
đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích
quốc gia.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước cùng nhiệm vụ đặt ra trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm, quá trình thu hồi đất để
phát triển và xây dựng mới các đô thị, KCN và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở
nước ta diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt đối với đất nông nghiệp.
Theo số liệu của Viện Nghiên cứu định cư (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn), hàng năm, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi cho phát triển công
nghiệp là khoảng trên 70.000 ha, chưa kể cho phát triển đô thị là khoảng 10.000 ha.

Chỉ tính riêng một số tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Sông hồng như: Bắc Ninh, Vĩnh
Phúc, Hải Phòng và Ninh Bình, số diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi cho phát
triển công nghiệp trong những năm vừa qua đã lên hàng chục nghìn hecta
15


(Bắc Ninh: gần 2.000 ha, Hải Phòng: gần 4.000 ha, Bình Dương, trong số 24 KCN
đã đưa vào sử dụng với tổng diện tích trên 8.100 ha thì cũng chủ yếu là đất nông
nghiệp. Ninh Bình là một tỉnh nhỏ, nhưng cũng có tới 735 ha đất cho công nghiệp
được lấy từ nông nghiệp), ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của hàng chục nghìn
hộ gia đình. Trong quy hoạch từ nay đến năm 2020, một số tỉnh, diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi có thể tăng lên gấp đôi [27].
Thực tế cho thấy những diện tích đất bị thu hồi chủ yếu nằm ở những khu vực
đông dân, có tốc độ phát triển nhanh, một số địa phương có điều kiện thuận lợi, nhất
là gần các sân bay, bến cảng, các đầu mối giao thông đường sắt, đường bộ, gần các
trung tâm kinh tế lớn của đất nước. Hơn nữa, mức độ thu hồi đất còn phụ thuộc lớn
vào những tỉnh, thành phố có đội ngũ cán bộ có năng lực, năng động, sáng tạo và có
chính sách cởi mở, phù hợp với xu thế phát triển của địa phương.

Diện tích đất nông nghiệp của các tỉnh, thành phố bị thu hồi nhiều được
trình bày ở bảng sau:
Bảng 1.1. Tình hình thu hồi đất ở một số địa phƣơng trên cả nƣớc
(Tính đến tháng 3/2011)

TT

Tỉnh, thành phố

1


Tuyên Quang

2

Hà Nội

3

Hải Phòng

4

Hưng Yên

5

Hải Dương

6

Vĩnh Phúc

7

Bắc Ninh

8

Kiên Giang
Nguồn: Tổng cục Quản lý đất đai



Trong những năm gần đây diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ở nước ta rất
lớn và tập trung ở một số huyện, xã có mật độ dân số cao, diện tích đất nông
nghiệp bình quân đầu người thấp, có nhiều xã có diện tích đất nông nghiệp bị thu
16


hồi chiếm 70 - 80% diện tích đất canh tác, có nhiều xã chiếm tới 100%, điển hình ở
các huyện nằm trong khu vực Hà Nội mở rộng và các xã, huyện được quy hoạch
xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị.
1.2. Các chính sách thu hồi, bồi thƣờng đất nông nghiệp và hỗ trợ
chuyển đổi nghề, tạo việc làm cho ngƣời có đất nông nghiệp bị thu hồi
1.2.1. Chính sách thu hồi, bồi thường đất nông nghiệp và hỗ trợ chuyển
đổi nghề, tạo việc làm ở Việt Nam qua các thời kỳ
Qua nghiên cứu cách chính sách thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta cho thấy
các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ngày càng phù hợp hơn với
yêu cầu thực tế cũng như yêu cầu của các quy luật kinh tế. Các chính sách được thể
hiện qua các giai đoạn của quá trình áp dụng Luật đất đai, cụ thể như sau:
1.2.1.1. Trước khi có Luật đất đai 1993
Ngày 14 tháng 4 năm 1959, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị định
151/TTg quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất có nội dung: “Những
người có ruộng đất bị trưng dụng được bồi thường và trong trường hợp cần thiết
được giúp giải quyết công việc làm ăn”
Ngày 11 tháng 01 năm 1970 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Thông tư
1792/TTg quy định một số điểm tạm thời về bồi thường thiệt hại nhà cửa, đất đai,
cây cối hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng thành phố
trên nguyên tắc “Phải đảm bảo thoả đáng quyền lợi kinh tế của hợp tác xã và của
nhân dân”.
Thi hành Hiến pháp năm 1980, Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày

29 tháng 2 năm 1987 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước giao đất
cho các đối tượng có nhu cầu để sử dụng ổn định lâu dài, có thời hạn hoặc tạm thời
theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất được duyệt. Cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền giao đất nào thì có quyền thu hồi đất đó.
Ngày 31 tháng 5 năm 1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số
186/HĐBT về việc đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi bị chuyển mục
đích sử dụng vào mục đích khác thì phải bồi thường. UBND các tỉnh, thành phố
quy định cụ thể mức bồi thường thiệt hại của địa phương mình sát với giá đất
17


thực tế ở địa phương nhưng không thấp hơn hoặc cao hơn khung giá định mức. Tổ
chức, cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào
mục đích khác thì phải bồi thường về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước.
Trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1993 nhà nước chỉ mới có một số quy
định riêng lẻ về đền bù thiệt hại, chưa hình thành chính sách thu hồi đất. Nguyên
nhân là khi đó đất đai chỉ được xem là tài nguyên có giá trị sử dụng, mặt khác do
nền kinh tế có nhiều khó khăn nên nhu cầu thu hồi đất cũng không lớn.
1.2.1.2. Sau khi có Luật đất đai 1993 đến nay
Hiến pháp năm 1992 vẫn quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà
nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định, nhưng tiếp
theo đó tuyên bố trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì
lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá
nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường (Điều 23).
Giai đoạn này việc thu hồi và bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
đã có điều chỉnh so với giai đoạn trước trên cơ sở thực hiện Luật đất đai năm 1993
xác lập quyền sử dụng đất của hộ dân. Chính phủ ban hành Nghị định 90/CP ngày
17 tháng 8 năm 1994 của Chính phủ quy định về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng thay thế tất cả các văn bản, chính sách trước đây của Nhà nước về

bồi thường giải phóng mặt bằng.
Nhìn chung việc bồi thường đất nông nghiệp trong giai đoạn này có sự thay
đổi cơ bản về chủ thể đối với quyền sử dụng đất, nhưng vì giá bồi thường thiệt hại
đất nông nghiệp còn thấp (mới đảm bảo đủ chi phí cho việc khai hoang xây dựng
đồng ruộng) chưa phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Việc thu hồi
đất để thực thi các dự án đầu tư còn gặp nhiều khó khăn. Có thể thấy nội dung của
Nghị định 90/CP còn rất sơ sài, chưa gắn với cơ chế thị trường.
Ngày 24 tháng 4 năm 1998 Chính phủ ban hành Nghị định số 22/1998/NĐCP để thay thế cho Nghị định số 90/CP. Nghị định gồm 6 chương 40 điều quy định
rõ phạm vi, đối tượng được bồi thường thiệt hại; Nguyên tắc, giá đất đền bù, chính
sách hỗ trợ,... Đây là các văn bản quy định việc thu hồi và đền bù thiệt hại khi nhà
18


nước thu hồi đất rất rõ ràng, đầy đủ nhất từ trước đến năm 1998 ở nước ta [2].
Tuy vậy, việc quy định giá đất để đền bù còn hạn chế ở cách tính hệ số K cho
từng dự án để nhân với giá đất chung Chính phủ quy định. Việc tính hệ số K ở mỗi dự
án, mỗi địa phương rất phức tạp về cách tính toán và thủ tục hành chính, việc thực thi
đền bù đất bị kéo dài, trong khi giá cả thị trường về quyền sử dụng đất luôn biến động
nên nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong nhân dân. Tại Điều 25 quy định về Hỗ trợ để ổn
định sản xuất và đời sống nêu: “1. Hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời sống cho những
người phải di chuyển chỗ ở được tính trong thời hạn là 6 tháng, với mức trợ cấp tính
bằng tiền cho 1 nhân khẩu/1 tháng tương đương 30 kg gạo theo thời giá trung bình ở
thị trường địa phương tại thời điểm đền bù. 4. Người được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất còn có trách nhiệm: Hỗ trợ chi phí đào tạo cho những lao động nông nghiệp
phải chuyển làm nghề khác do bị thu hồi đất và nếu có nhu cầu tuyển dụng lao động
mới thì phải ưu tiên tuyển dụng lao động thuộc các đối tượng có đất bị thu hồi.”

Trên cơ sở Luật đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành
Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 về bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất gồm 7 chương, 51 điều.

Nghị định 197/2004 và Nghị định 22/1998 có bố cục về cơ bản thống nhất
với nhau, nhưng Nghị định 197 đã khắc phục được những tồn tại trong Nghị định
22, trong đó quy định “giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử
dụng” do UBND tỉnh quy định. Tại điều 29 quy định: “ 1- Hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất nông
nghiệp thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người trong độ tuổi lao động,
mức hỗ trợ và số lượng lao động cụ thể được hỗ trợ do UBND cấp tỉnh quyết định
phù hợp với thực tế địa phương. 2 - Việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp
được thực hiện chủ yếu bằng hình thức cho đi học nghề tại các cơ sở dạy nghề”.
Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ về
sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
Điểm mới là quy định trường hợp tại thời điểm có quyết định thu hồi đất mà giá
đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong
điều kiện bình thường thì UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp.
19


Sau một thời gian thực hiện Chính Phủ ban hành Nghị Định số 84/2007/NĐCP ngày 25/5/2007 đã thể hiện được tính khả thi và vai trò tích cực của các văn
bản pháp luật. Tại Điều 48 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp trong trường hợp không được
Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng mà không có nguyện vọng
nhận bồi thường bằng đất làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông
nghiệp thì được bồi thường bằng giao đất ở có thu tiền sử dụng đất tại khu tái định
cư hoặc tại các vị trí trong khu dân cư phù hợp với quy hoạch” [4].
Ngày 13/8/2009 Chính Phủ ban hành Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy
định về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư, bãi bỏ Điều 48 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và một số Nghị định
khác của Chính Phủ.
Tại Điều 22 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định:
1.


Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo một
trong các hình thức bằng tiền hoặc bằng đất ở hoặc nhà ở hoặc đất sản xuất, kinh
doanh phi nông nghiệp như sau:
a)

Hỗ trợ bằng tiền từ 1,5 đến 5 lần giá đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích

đất nông nghiệp bị thu hồi; diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất
nông nghiệp tại địa phương.
b)

Hỗ trợ một lần bằng một suất đất ở hoặc một căn hộ chung cư hoặc một suất đất

sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp. Việc áp dụng theo hình thức này được thực
hiện đối với các địa phương có điều kiện về quỹ đất ở, quỹ nhà ở và người được hỗ
trợ có nhu cầu về đất ở hoặc căn hộ chung cư hoặc đất sản xuất, kinh doanh phi
nông nghiệp mà giá trị được hỗ trợ theo quy định tại điểm a khoản này lớn hơn
hoặc bằng giá trị đất ở hoặc căn hộ chung cư hoặc đất sản xuất, kinh doanh phi
nông nghiệp; phần giá trị chênh lệch được hỗ trợ bằng tiền.
3.

Trường hợp người được hỗ trợ theo quy định tại khoản 1 Điều này có nhu

cầu được đào tạo, học nghề thì được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề và được miễn
học phí đào tạo cho một khóa học đối với các đối tượng trong độ tuổi lao động.
20



Tại Khoản 1 điều 23 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định:
1.

Ngoài việc hỗ trợ theo quy định, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa

phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác để
bảo đảm có chỗ ở, ổn định đời sống và sản xuất cho người bị thu hồi đất; trường
hợp đặc biệt trình Thủ tướng Chính phủ quyết định [5].
Như vậy, khi thu hồi đất Nhà nước có những phương thức xử lý khác nhau
về việc bồi thường, hỗ trợ cho người dân mất đất, có thể bồi thường hỗ trợ bằng
tiền, và cũng có thể bồi thường bằng đất. Tuy nhiên trên thực tế, bồi thường hỗ trợ
bằng tiền được áp dụng rộng rãi hơn cả.
Trên cơ sở các quy định của Nhà nước, để thực hiện và áp dụng cho phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, trong những năm qua
UBND thành phố Hà Nội cũng như huyện Từ Liêm đã ban hành các cơ chế chính
sách về công tác bồi thường, hỗ trợ chuyển đổi nghề, tạo việc làm khi thu hồi đất
nông nghiệp cho khu vực nông thôn nói chung, lao động trong khu vực thu hồi đất
nông nghiệp nói riêng như sau:
- Chính sách hiện hành được áp dụng theo Quyết định số 108/2009/QĐUBND ngày 29/9/2009 của UBND thành phố Hà Nội quy định:
Tại Điều 40: Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm đối với hộ
gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi đất
“ 1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ bằng tiền để chuyển đổi nghề nghiệp và tạo
việc làm bằng 05 lần giá đất nông nghiệp quy định đối với diện tích đất nông
nghiệp thực tế bị thu hồi nhưng tối đa không vượt quá hạn mức giao đất nông
nghiệp tại địa phương (diện tích tính hạn mức bao gồm cả diện tích đất đã thu hồi
trước đây).
Hộ gia đình, cá nhân đã được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm
bằng một trong các hình thức: bằng tiền một lần, đăng ký mua căn hộ chung cư,

đăng ký được giao đất và đã được UBND cấp huyện xét duyệt theo quy định tại
Quyết định số 33/2008/QĐ-UBND ngày 09/6/2008 và Quyết định số 18/2008/QĐUBND ngày 29/9/2008 của UBND thành phố Hà Nội; hộ gia đình, cá nhân đã
21


được xét giao đất đủ định mức diện tích tối đa theo quy định tại Quyết định số
1098/QĐ-UB ngày 28/6/2007 của UBND tỉnh Hà Tây; hộ gia đình, cá nhân đã được
xét giao đất hoặc hỗ trợ bằng tiền đủ định mức diện tích tối đa theo quy định tại Quyết
định số 11/2008/QĐ-UBND ngày 04/02/2008 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc thì không
được hỗ trợ bằng tiền để chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm nêu trên.
2.

Trường hợp hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh Hà Tây (trước đây) và

huyện Mê Linh đã được giao đất (đất dịch vụ, đất ở) nhưng chưa đủ hạn mức quy
định thì được hỗ trợ bằng tiền để chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm bằng 3,5
lần giá đất nông nghiệp quy định đối với diện tích đất nông nghiệp thực tế bị thu
hồi nhưng tối đa không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương.
3.

Người trong độ tuổi lao động có nhu cầu được học nghề thì được hỗ trợ

01 lần kinh phí để học một nghề bằng hình thức cấp thẻ học nghề (không chi trả
trực tiếp bằng tiền cho người lao động); mức hỗ trợ tối đa không quá 6.000.000
đồng/thẻ (sáu triệu đồng).”
Tại Điều 39. Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất
“1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp (kể cả đất vườn, ao và đất nông nghiệp) thì được hỗ trợ ổn
định đời sống theo quy định sau đây:
a)


Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ

ổn định đời sống trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong
thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở;
b)

Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ ổn

định đời sống trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong
thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở;
c)

Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu quy định tại các điểm a và b khoản này được tính

bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo thời giá trung bình ở Hà Nội
tại thời điểm hỗ trợ do Sở Tài chính công bố.
Hộ gia đình, cá nhân chỉ được hỗ trợ theo quy định này một lần, sau này khi Nhà
nước tiếp tục thu hồi đất không được hưởng khoản hỗ trợ này nữa” [13].
22


×