Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Một số vấn đề về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá qua thực trạng quản lý hệ thống đền chùa ở Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.36 KB, 21 trang )

1

Đề tài: Một số vấn đề về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hoá qua thực trạng quản lý hệ thống đền chùa ở Nghệ An.
1. Mở đầu
Luật Di sản văn hóa (DSVH) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ IX thông qua đã khẳng định: “DSVH là tài sản quý giá
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của DSVH nhân loại, có vai
trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”. Di tích lịch sử văn
hóa là một bộ phận của di sản văn hóa, nó là những bằng chứng vật chất có ý nghĩa
quan trọng minh chứng về lịch sử hào hùng trải qua hàng nghìn năm của dân tộc, của
địa phương. Đó là những dấu vết, dấu tích còn lại của quá khứ, phản ánh những biến
cố, những sự kiện lịch sử, văn hóa hay danh nhân tiêu biểu qua các thời kỳ lịch sử.
Không những thế di tích lịch sử văn hóa còn là chứng tích, là tư liệu sống để các thế
hệ mai sau tìm hiểu, nghiên cứu về các thời kỳ lịch sử đó đi qua, từ đó giáo dục thế hệ
trẻ truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Trên quan điểm kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa của cha ông, sáng
tạo ra những giá trị văn hoá mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách,
văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo tồn, tôn tạo hệ thống di tích
lịch sử văn hóa và đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa dân tộc. Hàng loạt di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng, tu bổ,
tôn tạo; rất nhiều cổ vật, di vật trong đó được bảo vệ; lễ hội truyền thống, diễn
xướng, trò chơi dân gian, thuần phong, mỹ tục được lưu giữ và phát triển.
Để tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa một cách
bền vững, chúng ta cần tăng cường vai trò công tác quản lý di tích tại các địa phương
thông qua các nghiên cứu, khảo sát, đánh giá, nắm bắt được thực trạng công tác quản
lý cũng như giá trị hệ thống di tích lịch sử văn hóa một cách toàn diện. Trên cơ sở
đó, chủ động điều chỉnh, hoàn thiện bộ máy quản lý, định hướng và xây dựng các kế
hoạch, giải pháp cho công tác quản lý, bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa giải quyết
thoả đáng mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa nói chung, giữa bảo tồn và phát triển
nói riêng.


Nghệ An là tỉnh rộng (16.500 km2), đông dân thứ 4 cả nước (3,2 triệu
người), nơi sinh sống của 6 dân tộc anh em Kinh, Thái, Thổ, H’Mông, Khơ Mú, Ơ


2

đu và là vùng đất nổi tiếng về truyền thống lịch sử, văn hiến. Quá trình kiến tạo địa
chất kéo dài hàng triệu năm cùng với hoạt động, sinh sống của con người đã để lại
nhiều di tích, danh thắng quý cho vùng đất này. Di tích, danh thắng ở Nghệ An có
số lượng nhiều, phân bố trên địa bàn rộng. Theo kết quả kiểm kê của Sở Văn hoá
Thể thao và Du lịch năm 2015, Nghệ An hiện còn 1.395 di tích, danh thắng, phân
bố trên khắp 21 huyện, thành, thị của cả tỉnh. Trong đó có 257 di tích danh thắng
đã được xếp hạng, với 132 di tích quốc gia, 125 di tích cấp tỉnh. Về giá trị, các di
tích danh thắng ở Nghệ An rất phong phú, từ di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử, di tích
kiến trúc nghệ thuật đến các danh thắng...
Trong thời gian qua, hoạt động quản lý di tích tại tỉnh Nghệ An đã được các
cấp và các ngành quan tâm và đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, công tác
này vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc: Nhiều di tích xuống cấp, nguồn
kinh phí nhà nước còn hạn hẹp, chế độ cho người trông coi trực tiếp tại di tích chưa
có quy định của tỉnh; tình trạng tự ý tu bổ, làm biến dạng di tích đã và đang xảy ra
tại một số địa phương trong tỉnh. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ biến chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước; việc hưởng ứng
tham gia bảo vệ, phát huy giá trị di tích trên địa bàn huyện của người dân còn hạn
chế.
Để đánh giá việc thực hiện một số chính sách của nhà nước và địa phương đối
với sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, tác giả lựa chọn một hệ
thống di sản văn hoá vật thể tiêu biểu của Nghệ An là hệ thống đền chùa làm đối
tượng quản lý. Thông qua những chính sách và hoạt động bảo tồn và phát huy giá
trị đền chùa ở Nghệ An sẽ phần nào làm rõ được thực trạng của chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hoá ở địa phương.

2. Nội dung
2.1. Hệ thống đền chùa Nghệ An
Nghệ An là địa phương có truyền thống lịch sử - văn hoá lâu đời nên có một
hệ thống đền, chùa khá phong phú.
Xét riêng về số lượng đền, theo phân cấp quản lý nhà nước, Nghệ An có 97 di
tích đền được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh được Ủy ban nhân dân tỉnh phân
cấp cho các địa phương bảo quản và phát huy tác dụng theo Quyết định số


3

1017/QĐ.UBND.VX ngày 01/4/2011. Đó là những di tích lưu lại những giá trị lịch
sử, văn hóa và thẩm mĩ của nhân dân Nghệ An được bảo tồn và lưu giữ theo thời
gian.
Còn về chùa, hiện nay, theo nghiên cứu của tác giả Ninh Viết Giao trong sách
Về văn hóa xứ Nghệ (tập II) thì Nghệ An còn 254 chùa 1, thống kê của Ban quản lí
di tích và danh thắng Nghệ An cho biết tỉnh có 1395 di tích danh thắng đã được
nhà nước phân cấp quản lý, trong đó có 76 chùa. Hệ thống chùa Nghệ An được
phân cấp quản lí theo hai cấp độ: cấp thành phố và tương đương (huyện, thị xã)
gồm có 8 chùa, cấp xã, phường có 68 chùa.

2.2. Chính sách và thực trạng quản lý nhà nước đối với di sản đền
chùa ở Nghệ An
2.2.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước và tình hình công tác tín
ngưỡng, tôn giáo ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế
giới và mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được
hiểu là tôn giáo. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng
mang tính dân tộc, dân gian nhiều hơn tôn giáo, tín ngưỡng không có tổ chức chặt
chẽ như tôn giáo. Tín ngưỡng không có hệ thống giáo lý mà chỉ có các truyền

thuyết, huyền thoại, thần tích truyền miệng. Tín ngưỡng không có một hệ thống
điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng rời rạc, lẻ tẻ. Tín
ngưỡng nếu phát triển đến một mức nào đó có thể thành tôn giáo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời từ rất sớm trong lịch sử nhân loại và
tồn tại phổ biến trong cộng đồng. Nó bao gồm ý thức tôn giáo và các hoạt động
mang tính chất nghi thức tín ngưỡng. Nó là một hệ thống có tổ chức chặt chẽ, có
giáo điều, quy ước cụ thể, có cơ sở thờ tự, tổ chức sinh hoạt tôn giáo, cùng sự quản
lý của các chức sắc, thể hiện bản sắc riêng của tôn giáo mình.
Tín ngưỡng, tôn giáo tồn tại lâu đời trong lịch sử người Việt, đã trở thành
niềm tin, phong tục, tình cảm của nhân dân qua biết bao thế hệ. Tín ngưỡng của
người Việt được lưu truyền bao đời nay thể hiện đậm nét ở phong tục thờ cúng tổ
1 Ninh Viết Giao, Về văn hóa xứ Nghệ, sđd, tr.143-152.


4

tiên, thờ thành hoàng làng, thờ thần thổ địa, thờ Mẫu…Ngoài tín ngưỡng dân gian,
Việt Nam còn có một số tôn giáo lớn như: đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành,
đạo Hồi, đạo Cao Ðài và đạo Hòa Hảo...Trong đó, Phật giáo được du nhập vào Việt
Nam từ thế kỷ thứ 2, đến đời Lý (thế kỷ XI) Phật giáo ở vào giai đoạn cực thịnh và
được coi là hệ tư tưởng chính thống. Phật giáo được truyền bá rộng rãi trong nhân
dân và có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội, để lại nhiều dấu ấn trong lĩnh vực
văn hóa, kiến trúc. Đến cuối thế kỷ XIV, Phật giáo phần nào bị lu mờ nhưng những
tư tưởng của đạo Phật vẫn còn ảnh hưởng lâu dài trong đời sống xã hội Việt Nam.
Hiện nay, số người theo đạo Phật chính thức và số người chịu ảnh hưởng của đạo
Phật chiếm khoảng trên 70% số dân cả nước.
Với chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo,
ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946) và
trong suốt quá trình phát triển của cách mạng nước ta từ đó đến nay, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

nhân dân.
Ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã ra Nghị quyết số 25/NQ-TW về công tác tôn giáo. Nghị quyết tiếp tục
khẳng định tính đúng đắn của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
về tôn giáo, đã cụ thể hóa một bước quan trọng trong chỉ đạo thực tiễn đối với công
tác tôn giáo của Đảng, đặt ra những nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện chính sách
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng và hợp pháp của
công dân, làm cho tín đồ, chức sắc, các tôn giáo tin tưởng vào chính sách tôn giáo
của Đảng, yên tâm sống đạo, giữ đạo hài hòa trong lòng dân tộc, ngày một gắn bó
mật thiết hơn với chế độ, phấn khởi cùng toàn dân thi đua xây dựng xã hội mới. Đó
cũng chính là cơ sở xã hội quan trọng góp phần đấu tranh có hiệu quả đối với âm
mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá ta, đồng thời xác định rõ
nội dung, trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị đối với công tác tôn giáo và
những nhiệm vụ cụ thể của công tác tôn giáo.
Để cụ thể hóa và đưa Nghị quyết về công tác tôn giáo của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX vào cuộc sống, tháng 11/2004 Ủy ban Thường vụ Quốc
hội khóa XI đã thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là văn bản có tính


5

chất pháp lý cao nhất từ trước đến nay về tín ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ ban hành
Nghị định số 22/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo và gần đây đã ban hành Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày
08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP của Chính phủ; các văn bản quy phạm pháp
luật đó đã cụ thể hóa chính sách tôn giáo của Đảng, xác định rõ quyền và nghĩa vụ
của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước
trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động tôn
giáo, tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo

do các tôn giáo tự giải quyết theo Hiến chương, Điều lệ của các tôn giáo đã được
Nhà nước công nhận.
Hiện nay, Bộ Nội vụ đang soạn thảo dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Như
vậy hệ thống văn bản pháp luật về công tác tôn giáo đã dần được hoàn thiện, làm
cơ sở pháp lý cho các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo. Thể hiện chủ trương, đường
lối đúng đắn, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với tín ngưỡng, tôn giáo.
- Tình hình công tác tín ngưỡng, tôn giáo ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
Nghệ An là tỉnh đa tín ngưỡng, tôn giáo. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện có 2
tôn giáo hợp pháp: Công giáo và Phật giáo, ngoài ra có một số tín đồ các tôn giáo
khác như đạo Tin lành và các hoạt động tín ngưỡng thể hiện đậm nét ở các lễ hội,
các ngày lễ tết.
Hầu hết các tôn giáo có mặt tại Nghệ An đều mang dấu ấn văn hoá địa
phương. Tính dung hợp đan xen, hoà đồng của tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu quả xã
hội nhất định, làm cho địa phương về cơ bản không có xung đột về đức tin, đồng
bào theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau gắn bó đoàn kết trong một cộng đồng
chung.
Công tác tôn giáo là nhiệm vụ quan trọng, vừa quan tâm tới nhu cầu tín
ngưỡng của quần chúng, định hướng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo một cách lành
mạnh, vừa kịp thời đấu tranh chống kẻ địch lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong những năm qua, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Ban
Tôn giáo - Sở Nội vụ, và các ban, ngành, đoàn thể liên quan luôn tạo điều kiện tốt
nhất cho quần chúng nhân dân, tín đồ thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo


6

của mình. Sự quan tâm thể hiện từ việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và tăng
cường công tác chỉ đạo, quản lý, đặc biệt là một hệ thống các chủ trương, chính
sách về tôn giáo như Quyết định số 91/2007/ QĐ-UBND ngày 3/8/2007 của
UBND tỉnh Nghệ An về việc ban hành quy chế phối hợp thực hiện công tác quản lý

nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh; chỉ đạo của UBND tỉnh tại công
văn số 126/UBND-NC ngày 3/9/2013 của UBND tỉnh Nghệ An về việc tiếp nhận,
hướng dẫn, giải quyết các thủ tục hành chính có liên quan đến tôn giáo nhằm phục
vụ tốt hơn các tổ chức, chức sắc, tín đồ các tôn giáo.
Lãnh đạo tỉnh cũng tăng cường chỉ đạo UBND các huyện, thành, thị củng cố
tổ chức, cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cấp huyện, cấp xã và
quan tâm tạo điều kiện cho các cơ quan đơn vị, cán bộ làm công tác QLNN về tôn
giáo. Thể hiện ở Quyết định số 84/2012/QĐ-UBND ngày 03/12/2012 của UBND
tỉnh Nghệ An về việc hỗ trợ đặc thù cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý
nhà nước về tôn giáo tại Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ và công chức chuyên trách công
tác tại các Phòng Nội vụ huyện, thành, thị và hỗ trợ kinh phí cho các Đoàn công
tác, Tổ công tác giải quyết các vụ việc tôn giáo phức tạp trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Thường xuyên kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo như tổ chức các lớp tập huấn nghiệp
vụ công tác tôn giáo cho các đối tượng là đảng viên, cốt cán vùng giáo; Tăng, ni,
tín đồ Phật giáo; cán bộ làm công tác tôn giáo cấp huyện, cấp xã của 21 huyện,
thành phố thị xã trên địa bàn tỉnh. Các huyện, thành, thị đều tổ chức tọa đàm, gặp
mặt chức sắc, thăm hỏi, chúc mừng, động viên hầu hết các cơ sở tôn giáo, chức
sắc, chức việc, đảng viên cốt cán có đạo. Thực hiện sâu rộng công tác tuyên truyền,
phổ biến chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo đến với quần chúng nhân dân.
Với những chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước và của lãnh đạo tỉnh
nhà, tình hình công tác tôn giáo, tín ngưỡng ở Nghệ An đã đạt được những hiệu
quả xã hội nhất định.
- Chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử - văn
hoá của hệ thống đền, chùa.


7


Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo một cách lành mạnh. Vì vậy mà kèm theo đó là
những chính sách để bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống đền chùa. Vừa tạo cơ
sở thiết chế văn hóa cho quần chúng nhân dân thực hành tín ngưỡng, tôn giáo, vừa
giữ gìn, bảo lưu văn hóa truyền thống, hướng con người tới giá trị chân, thiện, mỹ.
Đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa dân tộc, Người cho rằng di sản văn hóa dân tộc là vốn quý,
là bệ đỡ cho nền văn hóa một đất nước. Ngày 23 tháng 11 năm 1945, Người đã ký
Sắc lệnh số 65/SL “Ấn định nhiệm vụ của Đông Phương bác cổ Học viện” - Sắc
lệnh đầu tiên của Nhà nước ta về việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc sau khi nước
nhà mới dành được độc lập. Sắc lệnh nêu rõ: “Nghiêm cấm việc phá hủy những
đình chùa, đền miếu hoặc nơi thờ tự khác, những cung điện, thành quách cùng lăng
mộ chưa được bảo tồn…”. Kế thừa tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta sau đó
cũng ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật nhằm định hướng cho các
hoạt động bảo tồn và phát huy di sản trong đó có hệ thống đền, chùa. Có giá trị
pháp lý cao nhất là Luật Di sản Văn hóa (Luật số 28/2001/QH10, ngày 29 tháng 6
năm 2001) và Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Di sản Văn hóa (Luật số
32/2009/QH12, ngày 18 tháng 6 năm 2009), sau đó là Nghị định số 98/2010/NĐCP ngày 21/09/2010 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa; Nghị
định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 của Chính phủ về “Quy định thẩm quyền,
trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh”; Thông tư số 18/2012/TT-BVHTTDL ngày
28/12/2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch “Quy định chi tiết một số quy
định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích”; Thông tư số 17/2013/TT-BVHTTDL
ngày 30/12/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hướng dẫn xác định chi phí
lập quy hoạch, dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích .
Thông tư 09/2011/TT-BVHTTDL quy định về nội dung hồ sơ khoa học để xếp
hạng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Chỉ thị số 16/CT-BVHTTDL
ngày 03/02/2010 về việc tăng cường công tác chỉ đạo quản lý hoạt động văn hóa,
tín ngưỡng tại di tích…



8

2.2.2. Thực trạng quản lý và phát huy các giá trị lịch sử -văn hóa của hệ
thống đền chùa ở Nghệ An.
Trong những năm qua, công tác quản lý nhà nước đối với các di tích đền,
chùa đã có những bước tiến đáng kể, công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện; tổ
chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo
vệ và phát huy, tuyên truyền và phổ biến pháp luật về di tích được chú trọng; việc
tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo đội ngũ chuyên môn; huy
động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo tồn, phát huy giá trị các di tích được
quan tâm; việc thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và xử lý vi phạm về di tích được tăng cường.
Cơ cấu bộ máy quản lý di tích (trong đó có hệ thống đền, chùa) ở Nghệ An.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh có
trách nhiệm tham mưu các vấn đề liên quan đến công tác quản lý nhà nước về văn
hóa nói chung và công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di tích, đồng thời có trách
nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan chuyên môn của các huyện, thành phố, thị
xã tổ chức thực hiện công tác bảo tồn phát huy giá trị di tích trên địa bàn. Hệ thống
tổ chức bộ máy các cấp đang từng bước được hoàn thiện. Hiện nay, tổ chức bộ máy
quản lý di tích ở Nghệ An gồm:
* Cấp tỉnh:
- Phòng Quản lý di sản văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Ban quản lý Di tích - Danh thắng trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch.
* Cấp huyện: Cán bộ phụ trách Bảo tồn - Bảo tàng thuộc phòng và Trung tâm
văn hóa 21 huyện, thành phố và thị xã.
* Cấp xã: Công chức văn hóa xã phụ trách các di tích.
* Ở các di tích: Hầu hết các đền đều có ban quản lý hoặc tổ bảo vệ di tích.

Có 20/ 400 chùa có sư trụ trì. Số chùa chưa có sư trụ trì có tổ bảo vệ di tích.
- Các văn bản triển khai, chỉ đạo thực hiện các quy định của pháp luật
liên quan đến đền, chùa.
Trên cơ sở quy định của Luật Di sản văn hóa, Nghị định quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật di sản văn hóa, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của


9

Luật Di sản văn hóa, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản, quy chế chỉ đạo hoạt
động ở các di tích, trong đó có hệ thống đền, chùa như:
- Quyết định số 1017/QĐ-UBND.VX ngày 01 tháng 4 năm 2011 của UBND
tỉnh về việc phân cấp quản lý di tích danh thắng.
- Quyết định số 195/QĐ.UBND.VX ngày 24 tháng 01 năm 2011 về việc Ban
hành Quy định tiếp nhận, quản lý, sử dụng nguồn công đức ở các di tích lịch sử văn
hóa trên địa bàn Nghệ An.
- Quyết định số 27/ 2014/ QĐ-UBND ngày 03 tháng 4 năm 2014 về Quy định
quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích- danh thắng trên địa bàn tỉnh Nghệ An
- Về công tác giáo dục, tuyên truyền chính sách
Hàng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nghệ An đã tổ chức các lớp
tập huấn về quản lý nhà nước để giới thiệu về Luật Di sản văn hoá, các văn bản
quy phạm pháp luật về di sản văn hóa và giao cho Ban quản lý di tích – danh thắng
tỉnh tập huấn về nghiệp vụ bảo tồn và phát huy giá trị di tích - danh thắng cho các
cán bộ quản lý cấp huyện, xã, các cán bộ chuyên môn và những người trực tiếp làm
công tác bảo vệ di tích ở cơ sở (P.Chủ tịch Văn xã, Trưởng phòng, Giám đốc Trung
tâm VHTTDL và một số cán bộ của các ban ngành liên quan).
- Về phân cấp quản lý đền, chùa
- UBND tỉnh đã ban hành Quyết định phân cấp số 1017/QĐ-UBND.VX
ngày 01 tháng 4 năm 2011 về việc phân cấp quản lý di tích danh thắng trên địa bàn
tỉnh Nghệ An với 1395 di tích, trong đó có 448 đền, 100 chùa.

- Việc kiểm kê, phân loại, đánh giá hiện trạng, lập hồ sơ xếp hạng đền, chùa
Hiện nay, tổng số đền, chùa đã được xếp hạng trên địa bàn toàn tỉnh (tính
đến tháng 11/2015) là 137 di tích. Trong đó:
+ Xếp hạng cấp quốc gia: 59 di tích
+ Xếp hạng cấp tỉnh: 78 di tích
- Công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi đền, chùa
- Công tác lập quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi các di tích lịch sử - văn
hóa được thực hiện theo sự phân công của UBND tỉnh, do đó chủ đầu tư có thể là
do Sở VHTTDL, do UBND huyện hoặc UBND xã, có khi lại do nhà chùa.


10

- Việc lập quy hoạch các di tích có giá trị đều liên quan đến các dự án,
nhiều di tích đã được lập quy hoạch như: đền Hồng Sơn, đền Cờn, đền Hoàng
Mười, đền Cuông...
- Hiện nay Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang tham mưu cho UBND
tỉnh lập Quy hoạch bảo tồn, phát huy giá trị các di tích tiêu biểu gắn với phát triển
du lịch trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2015 – 2020 tầm nhìn 2030.
- Hàng năm Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo Ban quản lý Di tích –
Danh thắng tỉnh phối hợp với các địa phương khảo sát, rà soát thực trạng các đền,
chùa đã bị xuống cấp, hư hỏng để đưa vào kế hoạch tu bổ, tôn tạo di tích. Hoạt
động đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích được thực hiện theo 2 nguồn đầu tư: nguồn từ
chương trình chống xuống cấp thường xuyên, cấp thiết (ngân sách tỉnh) và từ
nguồn Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. Ngoài ra còn có nguồn xã hội
hóa.
- Công tác tổ chức bảo vệ các di tích đền, chùa
Đối với các di tích được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh đều thực hiện
khoanh vùng khu vực bảo vệ di tích. Đã thực hiện việc tổ chức cắm biển chỉ dẫn ở
một số di tích để thuận lợi cho du khách khi đến với di tích- danh thắng.

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: một số di tích đã có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, số còn lại các địa phương có di tích đang tiếp tục làm thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích theo sự phân cấp quản lý.
- Quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị đền,
chùa
Hàng năm, Nghệ An tổ chức hơn 20 lễ hội truyền thống gắn liền các nghi lễ
tâm linh, các hoạt động văn hoá thể thao dân gian ở các di tích đền như: Lễ hội đền
Cờn (Quỳnh Lưu), đền Quả (Đô Lương), đền Bạch mã (Thanh Chương), đền
Cuông (Diễn Châu), đền Vua Mai (Nam Đàn), đền Hoàng Mười (Hưng Nguyên),
đền Vạn (Tương Dương), đền Chín Gian (Quế Phong), đền Pu Nhạ Thầu (Kỳ Sơn),
tạo nên sự đa dạng, phong phú, có sức lôi cuốn, hấp dẫn đối với du khách trong và
ngoài tỉnh cũng như khách quốc tế.
Bên cạnh đó hầu hết các di tích chùa trên địa bàn đều tổ chức các lễ hội mang
tính chất tôn giáo như Lễ Phật đản; lễ Vu lan báo hiếu, vía Adi Đà,... và các nội


11

dung của lễ đều được tổ chức khá chu đáo và có sự chỉ đạo sát sao của các cơ quan
chức năng và các cơ quan ban ngành liên quan như Ban tôn giáo; Ban trị sự; Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Công An;
Tổ chức nhiều cuộc Hội thảo, toạ đàm khoa học liên quan đến các di tích
đền, chùa như Đền Cờn và tín ngưỡng thờ Mẫu; Phục dựng chùa Đại Huệ.
Việc chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy
được tăng cường. Hàng năm đã trang bị bình bọt phòng cháy chữa cháy cho các di
tích, văn bản đôn đốc phòng chống bão lụt kịp thời.
Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di
tích được đẩy mạnh. Phối hợp với ngành Giáo dục thực hiện phong trào “Trường
học thân thiện, học sinh tích cực”, Chỉ đạo các trường tổ chức các hoạt động ngoại
khóa như tìm hiểu, tham quan, vệ sinh môi trường tại các điểm di tích. Nhiều di

tích được các trường đăng cai chăm sóc.
Công tác thông tin tuyên truyền về giá trị các di tích trên hệ thống phát thanh
truyền hình và các phương tiện thông tin đại chúng, trang Website của Sở được
tăng cường; Phối hợp với Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh xây dựng và thực hiện
Kế hoạch tuyên truyền, giới thiệu về các di tích.Tham gia viết nhiều báo cáo khoa
học cho các báo, tạp chí và các Hội thảo trong nước, trong tỉnh và quốc tế để giới
thiệu, tuyên truyền, quảng bá về di tích của địa phương.
- Những tồn tại trong hoạt động quản lý đền, chùa:
- Công tác quản lý, bảo vệ, tổ chức các hoạt động tại đền, chùa ở một số địa
phương chưa đảm bảo đúng quy định của Luật Di sản văn hóa. Một số di tích chưa
làm tốt công tác phòng chống cháy nổ, chưa có biển dẫn tích, nội quy di tích.
- Phần lớn di tích chưa được cắm mốc và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đẫn đến tình trạng xâm hại di tích (đặc biệt là ở các vùng có mật độ dân
cư đông như thành phố Vinh).
- Các hoạt động dịch vụ, sinh hoạt văn hoá tâm linh tại một số di tích còn lộn
xộn; Việc tổ chức một số lễ hội còn mang tính hành chính hoá, tình trạng các trò
chơi có thưởng, đốt vàng mã xóc xăm, xóc quẻ…vẫn còn nhiều.


12

- Nguồn lực về tài chính đầu tư cho chương trình chống xuống cấp di tích còn
ít, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế ở địa phương, nhiều khi còn chia nhỏ, manh mún,
chắp vá, thiếu tính đồng bộ.
- Còn lúng túng trong việc xử lý để đảm bảo sự hài hòa giữa bảo tồn và phát
triển. Còn có tình trạng thương mại hóa di tích, đặt các mục tiêu, dự án phát triển
kinh tế cao hơn các mục tiêu về bảo tồn, phát huy giá trị của các di tích. Còn có tư
tưởng làm mới, làm qui mô lớn các công trình di tích.
- Việc lập dự án tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích gặp rất nhiều khó khăn, thời
gian kéo dài, một số dự án chưa đảm bảo đầy đủ thủ tục, quy trình cũng như về nội

dung.
- Việc giám sát các dự án có nơi còn lỏng lẻo, chưa có sự giám sát thực tế của
cộng đồng, chuyên gia am hiểu về nghiệp vụ bảo tồn di sản. Phần lớn các dự án
được lập, thực hiện không có mục: Tổ chức quản lý công trình khi dự án tiến hành
xong, gây khó khăn cho địa phương trong việc tiếp quản, quản lý, phát huy công
trình.
- Đối với một số di tích đền, chùa có giá trị linh thiêng ít, hoặc không thuận
lợi về vị trí địa lý thì việc xã hội hóa trong bảo vệ, trùng tu, tôn tạo di tích chưa đạt
nhiều kết quả, còn gặp khó khăn.
- Một số di tích nhân dân tự động tiến hành tu bổ, tôn tạo, phục hồi, hoặc
đưa hiện vật không phù hợp, đồ thờ cúng vào di tích.
- Một số di tích đền, chùa còn tự ý, cơi nới di tích không thông qua hướng
dẫn chỉ đạo của cơ quan chuyên môn, dẫn đến một số di tích bị biến dạng.
- Công tác tổ chức các hoạt động văn hóa, tâm linh tại nhiều di tích đền chùa
còn mang tính chất tự phát thiếu sự hướng dẫn của cơ quan chuyên môn, đặc biệt là
các chùa.
- Quản lý, sử dụng nguồn công đức tại di tích còn nhiều bấp cập, hầu hết các
di tích là cơ sở phật giáo (chùa) chưa thực hiện được theo Quyết định 195/
QĐ.UBND.VX ngày 24 tháng 01 năm 2011 của UBND tỉnh.
- Công tác quản lý hệ thống chùa mặc dù đã có Ban tôn giáo – Sở Nội vụ;
Ban Trị sự giáo hội phật giáo Nghệ An, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch song nhìn
chung chưa có sự thống nhất dẫn đền một số hoạt động trong công tác tu bổ, tôn


13

tạo, lễ nghi lễ hội còn mang tính chất tự phát, chưa có sự giám sát chặt chẽ của cơ
quan chuyên môn.
2.3. Một số giải pháp về mặt chính sách nhằm bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hoá đền chùa ở Nghệ An

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước. Muốn phát triển kinh tế xã hội, cần phải quan tâm đến xây
dựng văn hóa, trong đó đặc biệt chú trọng đến bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá
truyền thống. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9
khóa XI của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong khi đặt ra nhiệm vụ nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa đã nêu rõ định hướng: “Huy động sức mạnh
của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ
sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn
hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy
di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo
tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch”.
Hệ thống di tích- danh thắng, trong đó có đền, chùa ở Nghệ An là một di sản
văn hóa quý, nơi chứa đựng, lưu giữ những giá trị lịch sử - văn hóa qua hàng trăm
năm lao động, sản xuất và đấu tranh bảo vệ đất nước của cha ông. Trong những
năm qua, các di sản văn hóa này đã được quan tâm bảo tồn, phát huy tương đối tốt.
Tuy nhiên, do những khó khăn khách quan và chủ quan nên công tác bảo tồn, phát
huy giá trị các di sản văn hóa nói chung và hệ thống di tích đền, chùa nói riêng trên
địa bàn tỉnh chưa đạt được những kết quả như mong đợi.
Để thực sự làm tốt công tác bảo vệ các giá trị văn hoá truyền thống, phát
huy được những tiềm năng, lợi thế về di sản văn hóa vật thể của tỉnh nhà, khai thác
nó như một tài nguyên du lịch, để di sản văn hóa trở thành một nguồn lực phát triển
kinh tế xã hội, về mặt chính sách cần quan tâm, nghiên cứu và thực hiện các giải
pháp thiết thực, hiệu quả sau:


14

* Xây dựng, ban hành các chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về di
sản văn hoá:

- Xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách về di sản văn hoá:
Chính sách về di sản văn hoá là tổng thể những nguyên tắc thể hiện tư tưởng
chủ đạo của Nhà nước về đường lối, phương hướng bảo tồn và phát huy di sản văn
hoá, phù hợp với mục tiêu phát triển văn hoá chung của đất nước. Chính sách về di
sản văn hoá có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về di sản văn
hoá. Trong công cuộc bảo tồn, phát huy di sản văn hoá, Đảng và nhà nước ta đã
ban hành nhiều chính sách để phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hoá như đưa di sản văn hoá trở thành một trong những nội dung của chương
trình mục tiêu quốc gia; đầu tư bảo tồn, phát huy những di sản văn hoá tiêu biểu;
thực hiện quy hoạch bảo tồn hệ thống di sản văn hoá trên cả nước…
Các cơ chế, chính sách đối với di sản văn hoá của Đảng, Nhà nước là cơ sở,
nền tảng để chúng ta xây dựng các chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hoá trên
địa bàn tỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Cụ thể là:
- Cơ chế quản lý: Việc xây dựng cơ chế quản lý phù hợp từ cấp tỉnh đến địa
phương cũng hết sức quan trọng. Cơ chế quản lý quy định rõ được trách nhiệm,
quyền hạn của các bên liên quan trong nhiệm vụ bảo vệ, phát huy di tích, xác định
rõ đơn vị làm quản lý nhà nước, đơn vị trực tiếp tổ chức thực hiện. Theo cơ chế đó
để phát huy tốt hơn tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của các cá nhân,
tập thể liên quan vì mục tiêu chung.
- Cơ chế đầu tư tài chính: Để tạo điều kiện cho công tác bảo tồn, phát huy
giá trị di sản văn hóa nói chung, các di tích đền, chùa nói riêng, rất cần những cơ
chế, chính sách phù hợp, thiết thực. Sự thông thoáng từ các cơ chế, chính sách, đặc
biệt là cơ chế đầu tư tài chính sẽ là giải pháp hiệu quả để góp phần bảo tồn di sản.
Để làm được điều này, các cấp, các ngành cần tiếp tục có sự quan tâm, đầu
tư ngân sách cho công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di tích, danh thắng ở
Nghệ An, đặc biệt là các dự án chống xuống cấp có mục tiêu. Có chính sách phù
hợp để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội hóa, sức mạnh của cộng
đồng trong công tác bảo vệ, phát huy di sản văn hóa. Có biện pháp tích cực để



15

khuyến khích sự vào cuộc bảo vệ di sản của các cơ quan, ban ngành liên quan và
hợp tác quốc tế.
- Chính sách về nguồn nhân lực: Bên cạnh có cơ chế, chính sách đầu tư về
tài chính, việc bảo tồn, phát huy di sản để đạt được hiệu quả cần quan tâm đến
chính sách phát triển nguồn nhân lực. Đó là việc tăng cường năng lực cho đội ngũ
công chức, viên chức thực hiện công tác bảo tồn, phát huy di sản thông qua việc
đánh giá, lựa chọn những người có trình độ chuyên môn, được đào tạo cơ bản, đáp
ứng yêu cầu của vị trí công việc. Hàng năm tổ chức các lớp tập huấn, bối dưỡng
kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ này.
Đồng thời, có chính sách khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, thu hút
nguồn nhân lực từ cộng đồng, sự vào cuộc của các tổ chức, cá nhân như doanh
nghiệp, các tổ chức hội, tình nguyện viên… trong công cuộc bảo tồn, phát huy di
tích. Đặc biệt là có chính sách phù hợp trong việc huy động, thành lập các Tổ bảo
vệ, Ban quản lý di tích và có cơ chế đãi ngộ thoả đáng cho những người trực tiếp
trông coi, bảo vệ di tích, tạo điều kiện cho các tăng, ni, phật tử sinh hoạt tôn giáo
tại chùa, nhân dân sinh hoạt tín ngưỡng tại đền.
Trong những năm qua, UBND tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách
nhằm tạo điều kiện cho công tác bảo tồn, phát huy di sản, trong đó có hệ thống di
tích đền, chùa như: hàng năm hỗ trợ ngân sách để thực hiện tu bổ, tôn tạo cho các
di tích xuống cấp trên địa bàn tỉnh; hỗ trợ kinh phí để các di tích đã xếp hạng chi
trả phụ cấp cho đội ngũ làm công tác bảo vệ di tích;…
Để tiếp tục bảo vệ, phát huy hệ thống di tích- danh thắng nói riêng và di sản
văn hoá nói chung, ngoài các chủ trương, chính sách của Trung ương đã và đang
được triển khai, UBND tỉnh cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành thêm các cơ chế
chính sách mới, phù hợp hơn với tình hình thực tiễn của tỉnh và đặc điểm của hệ
thống di tích- danh thắng địa phương, tạo điều kiện tối đa cho việc bảo tồn, phát
huy di sản văn hoá như: chính sách ưu tiên đầu tư cho công tác bảo tồn, phát huy
các di tích trọng điểm trên địa bàn tỉnh; chính sách điều chỉnh phân cấp quản lý hệ

thống di tích trên địa bàn toàn tỉnh, gắn trách nhiệm của từng địa phương trong bảo
vệ di sản; chính sách huy động nguồn lực của toàn xã hội, sức mạnh của cộng đồng
trong bảo vệ, phát huy di sản...


16

- Xây dựng, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản chỉ
đạo, điều hành về di sản văn hoá:
Để cụ thể hoá hệ thống chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về di sản
văn hoá, cần có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản chỉ đạo, điều
hành làm hành lang pháp lý.
Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hoá thì Luật Di
sản văn hoá số 28/2001/QH10 ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Di sản văn hoá số 32/2009/QH12 ngày 18 tháng 06 năm
2009 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là căn cứ đầu tiên và
quan trọng nhất.
Trên cơ sở Pháp lệnh về bảo vệ, phát huy di sản, Luật di sản văn hoá 2001
đã được ban hành, được sửa đổi bổ sung năm 2009 cho phù hợp hơn với lý luận và
điều kiện thực tiễn. Các văn bản hướng dẫn thi hành luật như Nghị định
92/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Di sản văn hoá và Nghị định 98/2010/NĐ-CP ngày
21 tháng 09 năm 2010 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn
hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa; Thông tư Nghị
định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 của Chính phủ về “Quy định thẩm quyền,
trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh”; Thông tư số 18/2012/TT-BVHTTDL ngày
28/12/2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch “Quy định chi tiết một số quy
định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích”; Thông tư số 17/2013/TT-BVHTTDL
ngày 30/12/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hướng dẫn xác định chi phí

lập quy hoạch, dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích.
Thông tư 09/2011/TT-BVHTTDL quy định về nội dung hồ sơ khoa học để xếp
hạng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Chỉ thị số 16/CT-BVHTTDL
ngày 03/02/2010 về việc tăng cường công tác chỉ đạo quản lý hoạt động văn hóa,
tín ngưỡng tại di tích… cũng đã cụ thể hoá các nội dung, tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác quản lý nhà nước và tổ chức hoạt động liên quan đến di sản văn hoá.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của từng địa phương mà sự áp dụng của
Luật di sản văn hoá có những thuận lợi, khó khăn riêng.


17

Để cụ thể hoá Luật Di sản văn hoá và các nghị định, thông tư hướng dẫn
vào thực tiễn hoạt động của địa phương, UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành nhiều
văn bản triển khai như Quyết định số 1017/QĐ-UBND.VX ngày 01 tháng 4 năm
2011 của UBND tỉnh về việc phân cấp quản lý di tích danh thắng, Quyết định số
195/QĐ.UBND.VX ngày 24 tháng 01 năm 2011 về việc Ban hành Quy định tiếp
nhận, quản lý, sử dụng nguồn công đức ở các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn
Nghệ An, Quyết định số 27/ 2014/ QĐ-UBND ngày 03 tháng 4 năm 2014 về Quy
định quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích - danh thắng trên địa bàn tỉnh Nghệ
An..
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động bảo tồn, phát huy di sản rất phong phú và
luôn luôn biến động, có nhiều vấn đề vượt ra ngoài những quy định của văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành. Để làm tốt hơn nữa công tác quản lý nhà nước đối
với di tích nói chung, hệ thống đền, chùa nói riêng, một nội dung giải pháp cần hết
sức quan tâm, đó là tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Thực tiễn
kết quả kiểm kê di tích- danh thắng và quá trình triển khai thực hiện phân cấp quản
lý di tích trên địa bàn tỉnh trong những năm 2011-2015 đã cho thấy một số tồn tại,
hạn chế của Quyết định 1017/QĐ-UBND.VX ngày 01 tháng 4 năm 2011. Qua quá
trình thực hiện tiếp nhận, quản lý, sử dụng nguồn công đức ở các di tích cũng cho

thấy một số điểm không phù hợp của Quyết định 195/QĐ.UBND.VX ngày 24
tháng 01 năm 2011…
Trên cơ sở Luật di sản văn hoá, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật di sản
văn hoá, để phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, cơ quan quản lý nhà
nước, trực tiếp là Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch cần tham mưu cho UBND tỉnh
tiếp tục điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện hệ thống văn bản như: quy định về bảo
tồn, phát huy giá trị các di tích danh thắng trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó cụ thể
hoá các nội dung của Luật di sản văn hoá, các nghị định, thông tư về di sản văn hoá
nhằm phù hợp hơn với thực tiễn của địa phương và công tác quản lý nhà nước về di
sản văn hoá trên địa bàn; hoàn thiện quyết định về phân cấp quản lý các di tích trên
địa bàn toàn tỉnh, trong đó phân cấp rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của từng đơn vị, địa
phương liên quan trong việc quản lý, bảo vệ, phát huy di tích; hoàn thiện quy định
về việc tiếp nhận, quản lý, sử dụng nguồn công đức ở các di tích nhằm đảm bảo


18

việc nguồn thu công đức tại các di tích, nhất là những di tích có yếu tố tâm linh
như đền, chùa được sử dụng, phát huy tối đa trong việc tổ chức các hoạt động tại di
tích, trùng tu, tôn tạo di tích; quy định về chế độ phụ cấp cho tổ quản lý di tích để
đảm bảo việc ghi nhận những đóng góp của những người trực tiếp trông coi di
tích…
Song song với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về di sản văn hoá là việc ban hành các văn bản chỉ đạo có chất lượng, kịp thời,
hiệu quả để chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương trong công tác tổ chức các hoạt
động bảo tồn, phát huy di sản văn hoá. Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch là cơ quan
quản lý nhà nước về di sản văn hoá, có trách nhiệm tham mưu cho UBND tỉnh ban
hành các văn bản quản lý, chỉ đạo các hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hoá
phù hợp với quy định của Luật di sản văn hoá và tình hình thực tiễn địa phương.
Cụ thể như văn bản chỉ đạo các địa phương làm tốt công tác phòng chống cháy nổ,

mưa bão, dảm bảo an ninh trật tự, an toàn cho di tích; văn bản hướng dẫn các địa
phương sử dụng nguồn xã hội hoá trong việc tu bổ, tôn tạo di tích…
* Tăng cường, hoàn thiện bộ máy cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá:
Ở địa phương, UBND là cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về văn hoá trong địa phương mình theo quy định của pháp luật;
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn trực tiếp tham mưu cho
UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức các hoạt động về văn
hoá, thể thao và du lịch, trong đó có quản lý hệ thống di tích đền, chùa.
Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về di sản văn hoá, cần tiếp tục
hoàn thiện cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá các
cấp. Hoạt động này bao gồm các công việc như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xây
dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch về cán bộ, hoàn thiện cơ cấu tổ
chức trong lĩnh vực di sản văn hoá… Đối tượng cần nghiên cứu để kiện toàn, hoàn
thiện là cơ cấu tổ chức của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Phòng Quản lý di sản
văn hóa, Ban Quản lý Di tích - Danh thắng thuộc Sở; các phòng và Trung tâm văn
hóa thuộc 21 huyện, thành phố và thị xã.
Đối với tỉnh Nghệ An, giải pháp cần thiết trước hết là vấn đề kiện toàn lại
đơn vị sự nghiệp trực tiếp thực hiện việc quản lý, tổ chức hoạt động về di tích,


19

danh thắng của cả tỉnh. Ban Quản lý di tích- danh thắng tỉnh đã được thành lập từ
năm 2002. Căn cứ chức năng nhiệm vụ được giao và tình hình thực tiễn hoạt động
bảo tồn, phát huy di tích- danh thắng, cần sớm nâng cấp Ban thành Trung tâm bảo
tồn, phát huy di tích- danh thắng, đưa Ban trở thành một đơn vị sự nghiệp có thu để
phát huy hết vai trò trách nhiệm của đơn vị cũng như khai thác tốt hơn các tiềm
năng, lợi thế về di tích, danh thắng của tỉnh nhà.
* Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về di sản văn
hoá:

Thanh tra, kiểm tra là một hoạt động có vai trò quan trọng của công tác quản
lý nhà nước về văn hoá. Trong xu thế phát triển kinh tế hiện nay, tốc độ hiện đại
hoá, đô thị hoá mạnh mẽ, tạo nên những thách thức về vấn đề bảo tồn và phát triển.
Theo đó, nhiều tác động tiêu cực đối với việc bảo tồn hệ thống di sản, di tích- danh
thắng nảy sinh. Vì vậy, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý cần phải được quan
tâm thực hiện một cách nghiêm túc, có kế hoạch phối hợp tổ chức hoạt động một
cách chặt chẽ với các sở, ngành khác và các địa phương. Như vậy mới có khả năng
thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ mà công tác quản lý nhà nước về văn hoá đã
đề ra.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra là việc làm cần được diễn ra thương xuyên, có
chất lượng nhằm đảm bảo việc tổ chức, hoạt động ở các cấp, từ tỉnh đến cơ sở đi
vào thực chất. Thanh tra, kiểm tra để giám sát công tác thi hành luật di sản văn hoá
và các pháp luật liên quan trong quá trình tổ chức hoạt động bảo tồn, phát huy di
sản; phát hiện kịp thời những sai sót, vướng mắc và có giải pháp tháo gỡ, đáp ứng
yêu cầu và phù hợp với tình hình thực tiễn.
Hoạt động về di sản văn hoá là một hoạt động rộng và phức tạp. Vì vậy,
công tác thanh tra, kiểm tra cần được tiến hành thường xuyên, thực chất. Công tác
thanh tra, kiểm tra về di sản văn hoá liên quan đến nhiều nội dung như: quản lý, sử
dụng nguồn công đức tại các di tích; quy trình thực hiện tu bổ, tôn tạo di tích; việc
tiếp nhận các hiện vật không phù hợp với thuần phong mỹ tục vào di tích; hiện
tượng lấn chiếm, xâm hại di tích… Trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay có 25 lễ
hội diễn ra, ngoài một số lễ hội mới, đa số các lễ hội đều gắn liên với di tích, đền,
chùa như lễ hội đền Cờn, đền Quả, đền Hoàng Mười, đền- chùa Gám… Hàng năm,


20

thanh tra, kiểm tra hoạt động lễ hội cũng là một nội dung lớn của công tác thanh
tra, kiểm tra về di sản văn hoá của tỉnh.
Để góp phần đưa hoạt động bảo tồn, phát huy di sản, cơ quan quản lý nhà

nước về văn hoá cần tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra về di tíchdanh thắng bằng việc mở rộng phạm vi nội dung thanh tra, kiểm tra; tăng số lượng,
thời gian thanh tra, kiểm tra; quan tâm hơn đến chất lượng các cuộc thanh tra, kiểm
tra và kết quả khắc phục, xử lý sau thanh tra, kiểm tra.
3. Kết luận và khuyến nghị
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, với nhiều biến cố xã hội và sự tàn phá của
thiên nhiên, Nghệ An là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh ra nhiều anh hùng
hào kiệt cũng như những bậc danh sĩ đại khoa. Vùng đất này hiện nay còn lưu giữ
một số lượng di tích khá lớn và phong phú về loại hình: Di tích lịch sử, di tích lịch
sử văn hóa, di tích lịch sử kiến trúc, nghệ thuật, di tích khảo cổ học... Trong đó có
một hệ thống đền, chùa khá phong phú. Nhiều đền, chùa hiện nay chỉ còn lại phế
tích hay đã biến mất, nhưng cũng có nhiều đền, chùa đang còn hiện hữu đóng vai
trò quan trọng trong đời sống tâm linh của cộng đồng dân cư và phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
Trên cơ sở nghiên cứu về hệ thống đền chùa trên địa bàn Nghệ An, thực trạng
quản lý đền chùa đề tài đã rút ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các
chính sách nhằm mục đích bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá của đền chùa
trên địa bàn Nghệ An.
Việc xây dựng, ban hành các chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật
về di sản văn hoá như: Xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách về di sản văn
hoá, cải cách cơ chế quản lý phù hợp từ cấp tỉnh đến địa phương quy định rõ được
trách nhiệm, quyền hạn của các bên liên quan trong nhiệm vụ bảo vệ, phát huy di
tích, xác định rõ đơn vị làm quản lý nhà nước, đơn vị trực tiếp tổ chức thực hiện...
là những biện pháp quản lý mang tính cốt lõi nhằm tạo ra khung pháp lý để vận
hành công tác bảo tồn, phát huy đền chùa. Cơ chế đầu tư tài chính, chính sách về
nguồn nhân lực, xây dựng, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn
bản chỉ đạo, điều hành về di sản văn hoá, tăng cường, hoàn thiện bộ máy cơ quan
quản lý nhà nước về văn hoá, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi


21


phạm về di sản văn hoá... là những giải pháp thực thi cần triển khai đồng bộ, sát
thực./.



×