Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

skkn sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần lịch sử phong kiến việt nam (từ thế kỉ x đến nửa đầu thế kỉ XIX) ,lớp 10, ban cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 82 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỉ XXI, do tốc độ phát triển của xã hội hết sức nhanh
chóng, với những biến đổi liên tục và khôn lường; để chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối
mặt và đứng vững trước những thách thức của đời sống, vai trò của giáo dục
ngày càng được quan tâm và đầu tư hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, từ
những nước đang phát triển đến những nước phát triển đều nhận thức được vai
trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng
một cách năng động hơn, hiệu quả hơn những nhu cầu của sự phát triển đất
nước.
Ở Việt Nam, hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI
ngày 4.11.2013 đã thông qua chủ trương “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong giáo dục, quy
trình đào tạo được xem như là một hệ thống bao gồm các yếu tố: mục tiêu,
chương trình đào tạo, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học...
Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học được coi là vấn đề then chốt của
đổi mới giáo dục.
Bộ môn Lịch sử là một trong những môn học có ưu thế trong việc giáo
dục thế hệ trẻ. Việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử là một yêu cầu cấp
thiết góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, mục tiêu môn học. Nhận thức được
tầm quan trọng đó, trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy
học theo định hướng phát triển năng lực học sinh đã và đang được nhiều giáo
viên quan tâm song còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được mục tiêu và yêu cầu
của xã hội. Nhiều giáo viên vẫn còn dạy theo lối truyền thống, sử dụng tư liệu
lịch sử chỉ mang tính minh họa, không phát huy được tính tích cực của học sinh,
do đó các em không hứng thú học tập môn Lịch sử và dẫn đến coi nhẹ bộ môn.
Để khắc phục tình trạng trên một yêu cầu đặt ra đối với mỗi giáo viên Lịch sử là
phải không ngừng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực
học sinh.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài “Sử dụng tư liệu lịch sử theo


hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam
(Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) ,lớp 10, Ban cơ bản”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích: Sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học phần Lịch sử phong
kiến Việt Nam ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) và đề xuất một số biện
pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thưc hiện mục đích trên, đề tài tập trung vào
giải quyết một số nhiệm vụ sau:
1


+ Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn việc sử dụng tư liệu lịch sử theo
hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
+ Tìm hiểu chương trình lịch sử phong kiến Việt Nam ( Từ thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XIX) từ đó xác định nội dung tư liệu lịch sử cần sử dụng và đề
xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học
sinh khi dạy học phần lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế
kỉ XIX) .
+ Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng các biện pháp từ đó rút ra kết
luận khoa học về việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học
sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản.
- Phạm vi nghiên cứu: Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng
lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa
đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản.
4. Đóng góp của đề tài.
- Khẳng định được vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo
hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông

- Phản ánh được thực trạng sử dụng tư liệu lịch sử trong trường phổ thông
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển
năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản.

2


PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan niệm
1.1.1. Quan niệm về tư liệu lịch sử
Lịch sử là những gì đã xẩy ra trong quá trình phát triển của xã hội loài
người, đồng thời nó cũng tồn tại khách quan với chúng ta. Do xẩy ra trong quá
khứ cho nên con người không thể quan sát trực tiếp các sự kiện, quá trình lịch sử
đó; do vậy việc nhận thức lịch sử phải dựa vào nhiều tư liệu lịch sử khác nhau.
Tư liệu lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt với khoa học lịch sử nói chung
cũng như việc học lịch sử nói riêng. Khoa học lich sử tồn tại được trên cơ sở các
sự kiện lịch sử, mà các sự kiện lịch sử lại là những tế bào cấu thành lịch sử mà
các tế bào đó là từ các tư liệu lịch sử. Tư liệu lịch sử tồn tại cho khoa học lịch sử
và ngược lại khoa học lịch sử không thể thiếu nó. Tư liệu lịch sử như một cầu
nối nhà nghiên cứu với quá khứ nói cách khác nó như một thứ nguyên vật liệu
để chế tạo ra sản phẩm khác.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về tư liệu lịch sử:
Theo phương diện xã hội, tư liệu lịch sử là một phương diện xã hội để bảo
tồn, lưu giữ, truyền bá. Theo phương diện triết học Lapađanhiepxki định nghĩa
tư liệu lịch sử là khái niệm phản ánh đặc tính của hiện vật có thể được thu nhận
tri thức của hiện vật khác. Nhà sử học người Nga Chi-khơ-mi-rốp cho rằng tư
liệu lịch sử là tất cả những gì còn sót lại của cuộc sống đã qua. Rê-bans cho rằng

tư liệu lich sử là tổng hợp thành quả từ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương diện xã hội.
Trong Bách khoa toàn thư tư liệu lịch sử là những gì phản ánh trực tiếp quá khứ.
Xét về mặt lý luận có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm tư liệu lịch sử.
Song ta có thể hiểu tư liệu lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như
sản phẩm của quan hệ xã hội nhất định, mang trong mình nó những dấu vết của
quan hệ ấy phản ánh trực tiếp và trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đó của
con người.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu tư liệu lịch sử là các sự kiện, tài liệu mà
mỗi giáo viên cần phải sưu tầm để tìm hiểu quá trình lịch sử đang học. Tư liệu
càng sinh đông, phong phú bao nhiêu thì sự kiện càng cụ thể, càng hay bấy
nhiêu. Trong dạy học lịch sử, điều kiện cơ bản nhất để tái tạo hình ảnh quá khứ
là tư liệu lịch sử. Nếu không có nguồn tư liệu phong phú, không cung cấp được
nguồn tư liệu cụ thể chân thực thì dù có vận dụng phương pháp giảng dạy nào đi
chăng nữa cũng không thể đạt hiệu quả mong muốn. Nói như vậy để hiểu rằng,
các nguồn tư liệu lịch sử có vai trò cực kì quan trọng, như nhà sử học Ba Lan
J.iopolski đã viết: Tư liệu luôn là tài sản quý giá nhất của nhà sử học, không có
3


nó ta không thể là nhà sử học. Và nếu xem một công trình nghiên cứu lịch sử là
một món ăn thì các nguồn tư liệu chính là những sản phẩm, những gia vị để chế
biến nên món ăn đó. Không có nguồn tư liệu lịch sử thì lịch sử không thể được
viết ra “ không có cái gì có thể thay thế tư liệu, không có chúng thì không có
lịch sử”
Khoa học lịch sử có nguồn sử liệu hết sức phong phú và đa dạng. Tùy
theo nội dung phản ánh và tính chất của sử liệu người ta thường chia tư liệu
thành nhiều nhóm khác nhau nhưng tựu chung lại có ba nhóm tư liệu lịch sử
chính: Tư liệu thành văn, tư liệu hiện vật và tư liệu trực quan. Trong mỗi nhóm
này lại bao gồm nhiều loại tư liệu mang những đặc điểm, nội dung phản ánh và

xuất xứ khác nhau. Cách phân loại này chỉ mang tính tương đối.
Nhóm tư liệu thành văn: Tư liệu thành văn hay còn gọi là tư liệu chữ viết
vì mọi nội dung lịch sử của nó đều được biểu thị bằng chữ viết. Nguồn tư liệu
này chiếm khối lượng lớn và đặc biệt quan trọng, đôi khi chiếm địa vị chủ yếu
trong các nguồn sử liệu, có thể sử dụng trong giảng dạy bất cứ bài học lịch sử
nào. Hơn nữa tư liệu thành văn có nội dung phong phú, gọn nhẹ, dễ sưu tầm và
sử dụng. Với khối lượng lớn và hết sức đa dạng như vậy nên người ta đã chia tư
liệu thành văn thành những nhóm hoặc loại khác nhau: có loại mang tính chất
văn học như sử biên niên, hồi ký..., có loại mang tính chất khế ước, chế định như
các loại văn tự, luật pháp... Song mọi sự phân loại chỉ có tính chất tương đối vì
nguồn sử liệu này được viết ra không hoàn toàn theo những khuôn khổ nhất định
cho một giai đoạn lịch sử. Dù được phân loại theo nhiều cách khác nhau, nhìn
một cách tổng thể tư liệu thành văn có ưu điểm nổi bật là phản ánh tương đối
toàn diện và chi tiết các sự kiện, nhất là về đời sống chính trị, xã hội. Cũng do
ưu điểm đó, tư liệu thành văn bao giờ cũng được sử dụng phổ biến và tập trung
hơn.
Nhóm tư liệu hiện vật: là những sản phẩm trong quá trình hoạt động thực
tiễn và hoạt động nhận thức của con người, tồn tại dưới dạng các hiện vật như
các di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ học. Tư liệu hiện vật cực kì phong phú và đa
dạng. Đây chính là những tư liệu “biết nói” có giá trị rất lớn, không chỉ đối với
các nhà nghiên cứu mà cả trong giảng dạy lịch sử, nó như một minh chứng nói
lên sự thật lịch sử mà không ai chối bỏ được.
Hiện nay chúng ta còn giữ được một số lượng di tích lịch sử khá lớn ở hầu
khắp các địa phương trong cả nước. Thông qua các di tích này chúng ta có thể
tiến hành các hoạt động ngoại khóa, tham quan trải nghiệm cho học sinh.
Bên cạnh các di tích lịch sử, tư liệu hiện vật còn bao gồm các di vật khảo
cổ học hiện đang được lưu giữ, trưng bày tại các bảo tàng lịch sử, bảo tàng dân
tộc học. Đây là những bằng chứng xác thực, trực quan sinh động rất hấp dẫn đối
với học sinh, giúp các em khắc sâu kiến thức.
4



Tư liệu trực quan: Bao gồm nhiều loại khác nhau như tranh ảnh, bản đồ,
sa bàn, mô hình, phim ảnh, băng ghi âm...Tư liệu trực quan góp phần quan trọng
tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình
trạng “ hiện đại hóa” lịch sử của học sinh.
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm, yêu cầu về năng lực và dạy học phát triển
năng lực môn Lịch sử ở trường phổ thông.
1.1.2.1. Quan niệm về năng lực và dạy học năng lực.
Theo từ điển Tiếng Việt, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó.
Chương trình giáo dục phổ thông của New Zealand đã định nghĩa năng
lực: “ Năng lực là một khả năng hành động hiệu quả hoặc là sự phản ứng thích
đáng trong các tình huống phức tạp nào đó”
Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục cũng đã cố gắng định nghĩa
khái niệm năng lực. F.E. Weinert cho rằng: “ Năng lực được thể hiện như một hệ
thống khả năng, sự thành thạo hoặc những kĩ năng thiết yếu, có thể giúp con
người đủ điều kiện vươn tới một mục đích cụ thể”; còn J. Coolahan thì viết rằng:
năng lực được xem như là “những khả năng cơ bản dựa trên cơ sở tri thức, kinh
nghiệm, các giá trị và thiên hướng của một con người được phát triển thông qua
thực hành giáo dục”...
Có thể thấy dù cách phát biểu có khác nhau, nhưng các cách hiểu trên đều
khẳng định: nói đến năng lực là phải nói đến khả năng thực hiện, là phải biết
làm chứ không chỉ biết và hiểu. Tất nhiên, hành động (làm) hay thực hiện ở đây
phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kỹ năng, chứ không phải
làm một cách máy móc, mù quáng, đúng như chương trình giáo dục phổ thông
của Indonesia đã xác định: “ Năng lực là những kiến thức, kỹ năng và các giá trị
được phản ánh trong thói quen suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân. Thói
quen tư duy và hành động kiên trì, liên tục có thể giúp một người trở nên có
năng lực, với ý nghĩa làm một việc gì đó trên cơ sở có kiến thức, kỹ năng và các

giá trị cơ bản”
Phân loại năng lực là một vấn đề rất phức tạp. Kết quả phụ thuộc vào
quan điểm và tiêu chí phân loại. Nhìn vào chương trình thiết kế theo năng lực
của các nước có thể thấy hai loại chính. Đó là năng lực chung và năng lực cụ
thể, chuyên biệt.
Năng lực chung là năng lực cơ bản thiết yếu của con người có thể sống và
làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được hình thành và phát triển
do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học.
Năng lực cụ thể, chuyên biệt là năng lực riêng được hình thành và phát
triển do một lĩnh vực hoặc môn học nào đó.
5


Tiếp thu quan niệm về năng lực của các nước phát triển, chương trình
giáo dục phổ thông tổng thể của Việt Nam ( 7/2017) đã xác định: Năng lực là
thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình
học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ
năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí... thực hiện
thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những
điều kiện cụ thể. Có hai loại năng lực lớn: Năng lực cốt lõi và năng lực đặc biệt.
- Năng lực cốt lõi: là năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kỳ ai cũng cần
phải có để sống, học tập và làm việc hiệu quả.
- Năng lực đặc biệt: là những năng khiếu về trí tuệ, văn nghệ, thể thao, kỹ
năng sống...nhờ tố chất sẵn có ở mỗi người.
Cũng theo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, năng lực cốt lõi
gồm năng lực chung và năng lực chuyên môn.
- Năng lực chung là năng lực được tất cả các môn học và hoạt động giáo
dục góp phần hình thành, phát triển như: năng lực tự chủ và tự học, năng lực
giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
- Năng lực chuyên môn là năng lực được hình thành, phát triển chủ yếu

thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định như: năng lực ngôn
ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công
nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất.
Có thể nói, dạy học theo hướng nội dung lấy khối lượng kiến thức, kĩ
năng làm mục tiêu hướng tới; do đó càng cung cấp nhiều nội dung, học sinh biết
càng nhiều càng tốt. Cách dạy học này không quan tâm nhiều đến việc vận dụng
kiến thức đã biết và hiểu vào thực hành, liên hệ và ứng dụng vào các tình huống
của đời sống. Hệ quả học sinh có thể biết rất nhiều nhưng làm thì không được
bao nhiêu; kiến thức rất uyên bác nhưng thực hành rất lúng túng, vụng về.
Dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm khắc phục những hạn chế
nêu trên của dạy học theo nội dung. Vì thế, mục tiêu cuối cùng của dạy học phát
triển năng lực không phải là hệ thống kiến thức, là khối lượng nội dung, là biết
thật nhiều mà là năng lực cần có để sống tốt hơn, làm việc hiệu quả hơn, đáp
ứng được những yêu cầu của xã hội đang thay đổi từng ngày. Như thế nội dung
kiến thức ở đây là phương diện để đạt được mục đích cuối cùng là năng lực. Tư
tưởng này chi phối cách lựa chọn nội dung dạy học và phương pháp dạy học.
Mỗi khi dạy một vấn đề, một kiến thức nào đó, người giáo viên cần phải xác
định rõ dạy cái gì, để làm gì, giúp ích gì cho người học.
Tuy nhiên, chú ý mục tiêu phát triển năng lực không có nghĩa là xem nhẹ
kiến thức. Không có kiến thức thì không thể có năng lực. Kiến thức vẫn là cốt
lõi để tạo ra năng lực. Năng lực giống như một khối bê tông trong đó tổng hợp
6


nhiều chất liệu: sắt thép, xi măng, cát, sỏi, đá, nước và các chất phụ gia khác.
Trong cái khối bê tông ấy sắt thép làm rường cột. Sắt thép chính là kiến thức.
Tóm lại, dạy học phát triển năng lực vẫn coi trọng nội dung kiến thức tuy
nhiên chỉ mình nội dung kiến thức chưa đủ; cần thay đổi cách dạy và cách học
theo hướng học sinh chủ động tham gia kiến tạo nội dung kiến thức, vận dụng tri
thức vào cuộc sống và hình thành phương pháp tự học để có thể học suốt đời.

1.1.2.2. Đặc điểm và yêu cầu dạy học phát triển năng lực môn Lịch sử
ở trường phổ thông.
Năng lực môn Lịch sử là một thành phần của năng lực tìm hiểu xã hội
trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Đối với học sinh cấp trung học
phổ thông, yêu cầu tìm hiểu về năng lực xã hội bao gồm những nội dung sau
đây:
- Một là, hiểu và vận dụng được những cách tiếp cận và phương pháp
nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội: Vận dụng được các nguyên tắc, phương
pháp, kỹ thuật cơ bản thu thập và xử lý thông tin; Biết trình bày và phân tích các
nhân vật, sự kiện, quá trình xã hội từ những góc độ, chiều cạnh khác nhau; Nắm
được cách trình bày các ý kiến, lập luận, tranh luận về các vấn đề xã hội.
- Hai là, nắm được các tri thức cơ bản về đối tượng của các khoa học xã
hội: Hiểu được một số khái niệm cơ bản liên quan đến đối tượng của khoa học
xã hội như: phân hóa xã hội, khác biệt xã hội và xung đột xã hội, chiến tranh,
cách mạng, tiến bộ xã hội...; Hiểu được những tri thức cơ bản về một số đối
tượng của khoa học xã hội như quá trình tiến hóa của lịch sử nhân loại, lịch sử
các nền văn minh, giá trị đạo đức truyền thống, bản sắc văn hóa và giao lưu văn
hóa, quá trình phát triển nhân cách, ...
- Ba là, nắm được những tri thức cơ bản về xã hội loài người, hiểu được
những quy luật chung của quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam trong mối liên hệ với khu vực và thế giới; hiểu được các xu hướng vận
động cơ bản của nhân loại trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, tư
tưởng, văn hóa, nghệ thuật, quốc phòng và an ninh...
- Bốn là, vận dụng những tri thức về xã hội và văn hóa vào cuộc sống:
Biết tự nghiên cứu về một vấn đề của xã hội; Biết tham gia tranh luận về một
hoặc một số vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội đương đại, nhất là các vấn
đề có liên quan đến thế hệ thanh niên hiện nay; Có thái độ tích cực với những
chính sách của Nhà nước và biết cách tuyên truyền, giải thích cho gia đình, bạn
bè, cộng đồng hiểu và tham gia ủng hộ; Có niềm tin vào tính đúng đắn của các
chuẩn mực đạo đức và những giá trị xã hội tốt đẹp, có trách nhiệm đối với bản

thân và xã hội.
Trên cơ sở những yêu cầu về tìm hiểu xã hội, môn Lịch sử ở trường phổ
thông giúp học sinh phát triển và hoàn thiện những năng lực chuyên môn Lịch
7


sử, bao gồm: Năng lực tìm tòi và khám phá Lịch sử; Năng lực nhận thức và tư
duy Lịch sử; Năng lực vận dụng kiến thức Lịch sử vào thực tiễn giúp học sinh
có khả năng tiếp cận và xử lý thông tin từ những nguồn khác nhau, có khả năng
xâu chuỗi các sự kiện lịch sử có liên quan, đưa ra nhận xét cá nhân về các sự
kiện lịch sử, xây dựng năng lực phản biện và sáng tạo, từ đó có khả năng vận
dụng những kinh nghiệm lịch sử vào thực tiễn, dùng tri thức lịch sử để giải thích
những vấn đề hiện tại. Trên nền tảng đó, học sinh được truyền cảm hứng để yêu
thích môn Lịch sử, có định hướng để lựa chọn nghề nghiệp, đồng thời trân trọng
truyền thống lịch sử, di sản lịch sử.
Năng lực tìm tòi khám phá lịch sử : Thể hiện qua việc nhận diện và sử
dụng tư liệu lịch sử, phân biệt được các loại hình tư liệu lịch sử ( văn bản chữ
viết, hiện vật lịch sử, tranh ảnh, biểu đồ, bản đồ...), hiểu được nội dung, khai
thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập. Tái hiện và trình
bày lịch sử như mô tả, trình bày (nói hoặc viết) diễn trình của các sự kiện, nhân
vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp, xác định được các sự kiện lịch sử
trong không gian và thời gian cụ thể.
Năng lực nhận thức và tư duy lịch sử : Thể hiện qua việc giải thích được
nguồn gốc, sự vận động của các sự kiện lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; chỉ ra
được quá trình phát triển của lịch sử theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương
đồng và khác biệt giữa các sự kiện lịch sử, lý giải được mối quan hệ nhân quả
trong tiến trình lịch sử. Đưa ra những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về
các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử trên cơ sở nhận thức và tư duy lịch sử;
hiểu được sự tiếp nối và thay đổi của lịch sử; biết suy nghĩ theo những chiều
hướng khác nhau khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm câu trả lời về một sự kiện,

nhân vật, quá trình lịch sử.
Năng lực vận dụng kiến thức lịch sử vào thực tiễn: Thể hiện qua khả năng
kết nối quá khứ với hiện tại, vận dụng kiến thức lịch sử để lý giải những vấn đề
của thực tiễn cuộc sống. Trên nền tảng đó, học sinh có khả năng tự tìm hiểu
những vấn đề lịch sử, phát triển năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lý
thông tin từ những nguồn khác nhau, có ý thức và năng lực tự học lịch sử suốt
đời.
1.1.3. Quan niệm về sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển
năng lực học sinh
Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh không có
nghĩa là để cho học sinh tự làm việc với các tư liệu lịch sử trong giờ học bộ
môn, càng không phải giáo viên đặt nhiều câu hỏi đối với các tư liệu lịch sử mà
mình đưa ra cho các em, cũng không phải càng sử dụng được nhiều tư liệu lịch
sử trong một giờ học lịch sử là đã phát huy được tính tích cực của các em. Sử
dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh nghĩa là trong các
hoạt động học tập, giáo viên luôn điều khiển, hướng dẫn các em chủ động làm
8


việc với các tư liệu lịch sử để tự mình tạo được các biểu tượng lịch sử cụ thể,
trên cơ sở đó hình thành các khái niệm và rút ra các quy luật, bài học lịch sử.
Khi sử dụng các tư liệu lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh, các em luôn tỏ ra thích thú, chú ý học tập, hăng hái tham gia phát biểu ý
kiến, ghi chép bài. Chủ động tìm thêm các tư liệu khác ngoài tư liệu mà giáo
viên cung cấp, luôn hứng thú học tập, hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà thầy
cô giao cho. Ham mê nghiên cứu và vận dụng những kiến thức đã học vào học
tập và lao động.
Khi sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh, các
em sẽ độc lập, chủ động làm việc với các tư liệu, giải quyết các vấn đề dưới sự
hướng dẫn, điều khiển của giáo viên.

1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát
triển năng lực học sinh.
Tư liệu lịch sử là phương tiện cần thiết đối với việc dạy và học lịch sử ở
trường phổ thông. Mỗi loại loại tư liệu có một vị trí cụ thể trong việc sử dụng và
có vai trò nhất định đối với hiệu quả bài học.
Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh có ý nghĩa
to lớn về mặt kiến thức, kĩ năng và thái độ.
Về mặt kiến thức: Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, tư liệu lịch
sử là nguồn cung cấp kiến thức quan trọng cho học sinh. Việc sử dụng tư liệu
lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh có ý nghĩa to lớn về mặt bồi
dưỡng kiến thức cho học sinh. Tư liệu lịch sử là một phương tiện quan trọng để
cụ thể hóa kiến thức lịch sử đang học, nhằm tạo cho học sinh có biểu tượng rõ
ràng, cụ thể, có hình ảnh, tăng thêm tính chất sinh động, gợi cảm của bài giảng
và gây hứng thú cho việc học tập của các em.
Trong dạy học lịch sử, giáo viên hướng dẫn, tổ chức các hoạt động học
tập cho học sinh thông qua hệ thống các tư liệu lịch sử khiến các em tích cực
hoạt động, phát huy trí sáng tạo, lựa chọn tốt các kiến thức từ các tư liệu lịch sử
và tạo biểu tượng lịch sử. Khi đã tạo được những biểu tượng lịch sử quá khứ
chân thực, cụ thể, giúp học sinh tránh được hiện tượng “hiện đại hóa” lịch sử.
Ví dụ, khi dạy về “Tình hình Nông nghiệp nước ta ở các thế kỷ XVIXVIII”, giáo viên sử dụng các tư liệu thành văn sau: “Nhiều người nuớc ngoài
có mặt thời đó đã rất ngợi ca sự trù phú của đất đai. Giáo sĩ Marini trong tập ký
sự về Đường ngoài đã để hẳn một chương để mô tả "sự màu mỡ của Vương
quốc" này ("Vương quốc xứ Đàng ngoài"). Marini viết: "Đất đai màu mỡ và
không lúc nào nghỉ sản xuất. Nhân dân rất hiểu giá trị của ruộng đất nên không
bỏ hoang và những người nội trợ giỏi, sau khi thu hoạch mùa màng xong, lập
tức lại cày bừa ngay và gieo hạt. Và như vậy mỗi năm họ thường thu được 2, 3
vụ. Ở những nơi nào không trồng lúa được thì họ trồng cây ăn quả và thu hoạch
9



lớn. Cây cối tươi tốt đến nỗi lúc nào cũng chỉ thấy một màu xanh tựa như một
khu rừng với một mùa xuân vĩnh viễn".
Về giống lúa, theo ghi chép của Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII: Vùng châu thổ
sông Hồng có 8 giống lúa chiêm, 27 giống lúa mùa, 29 giống lúa nếp. Nông
nghiệp Đàng Trong có 26 giống lúa nếp, 23 giống lúa tẻ. "Tháng tư hàng năm
lúa chín đầy đồng, gặt hái không kịp, mỗi mẫu thu hoạch từ 90 đến 120 gánh
lúa." Theo giáo sĩ Bo-ri: "Đất đai màu mỡ và sinh lợi....đến nỗi hàng năm họ gặt
lúa 3 lần, thu hoạch được một lượng thóc phong phú đến mức không ai cần lao
động thêm để kiếm sống....quanh năm họ có nhiều hoa quả, những thứ lạ như
dưa bở, dưa chuột, dưa hấu, mít, sầu riêng, dừa, trầu cau, bắp cải, thuốc lá,
mía....đồng ruộng của họ đầy những gà vịt nhà và gà rừng."
Trên cơ sở những tư liệu trên giúp học sinh hiểu được sự phát triển trù
phú của Nông nghiệp với nhiều loại giống cây trồng phong phú.
Việc sử dụng tư liệu lịch sử sẽ giúp học sinh ít tốn công sức mà thu nhận
có hiệu quả kiến thức lịch sử; những đoạn trích ngắn gọn, súc tích giúp học sinh
xích lại gần hơn với hiện thực quá khứ.
Bên cạnh đó việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực
học sinh góp phần nâng cao trình độ nhận thức của học sinh. Lịch sử phản ánh
những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ, khi học sinh được dựng lại
bức tranh trong quá khứ cũng là lúc các em tự trau dồi cho mình những kiến
thức của nhân loại. Ví dụ, khi học về “Những thành tựu văn hóa nước ta thời
phong kiến”, giáo viên hướng dẫn học sinh sưu tầm và viết báo cáo về sự hiểu
biết các công trình kiến trúc thời đó. Thông qua đó, giáo viên hướng dẫn học
sinh nhận xét về nghệ thuật kiến trúc nước ta thời phong kiến. Khi các em tự sưu
tầm và tìm hiểu về các công trình nghệ thuật kiến trúc dưới sự định hướng của
giáo viên thì sự hiểu biết về văn hóa của các em được nâng lên đáng kể.
Về thái độ: Việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực
học sinh không chỉ giúp học sinh có biểu tượng chính xác, sinh động về sự kiện,
hiện tượng lịch sử mà còn khơi dậy cho các em những cảm xúc lịch sử, là cơ sở
để giáo dục đạo đức cho học sinh. Ví dụ khi dạy về “Các cuộc kháng chiến

chống Mông – Nguyên thời Trần ở thế kỉ XIII” giáo viên trích dẫn lời “Hịch
tướng sỹ” của Trần Hưng Đạo và những câu trả lời của Trần Hưng Đạo đối với
vua Trần trong kế sách đánh giặc. Từ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra
được nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên và
giải thích vì sao nhân dân lại đoàn kết với triều đình để chống giặc. Qua đó khơi
dậy lòng yêu nước, khâm phục và biết ơn đối với các anh hùng dân tộc từ đó các
em có ý thức bảo vệ nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc.
Sử dụng tư liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh đòi hỏi học sinh
phải tự làm việc nhiều với các nguồn tư liệu, điều này góp phần rèn luyện cho
10


các em tinh thần chuyên cần, hăng say và sáng tạo trong lao động và học tập,
chủ động trong công việc.
Về phát triển: Sử dụng tư liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh có
tác dụng to lớn trong việc phát triển toàn diện học sinh đặc biệt là tư duy. Để
hiểu các sự kiện hiện tượng lịch sử một cách cụ thể, sinh động, học sinh phải
chủ động quan sát, tri giác, phát huy trí tưởng tượng, phán đoán, so sánh, đối
chiếu những sự kiện, hiện tượng lịch sử nhằm hiểu bản chất của vấn đề. Khi học
sinh tích cực độc lập hoạt động tư duy nhận thức, làm việc với các tư liệu lịch sử
sẽ giúp các em phát triển ngôn ngữ, trí nhớ và tư duy của mình. Ví dụ, khi dạy
chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX” giáo viên hướng
dẫn học sinh tìm các tư liệu lịch sử nói tình hình tôn giáo nước ta giai đoạn này
hoặc giáo viên cung cấp cho các em tư liệu lịch sử về tôn giáo nước ta từ thế kỉ
X đến nửa đầu thế kỉ XIX rồi hướng dẫn học sinh tự làm việc với các tư liệu
thông qua các câu hỏi gợi mở của giáo viên.
- Vì sao Phật giáo trở thành “Quốc giáo” thời Lí, Trần?
- Nho giáo du nhập vào nước ta khi nào, vị trí của nó qua các thời kì ? Vì
sao từ thời Lê sơ Nho giáo giữ vị trí độc tôn và Phật giáo bị hạn chế?
- Nhà Nguyễn có chính sách gì trước sự du nhập Thiên chúa giáo ? Vì

sao?
Để trả lời các câu hỏi trên, học sinh phải đọc các tư liệu mà giáo viên
cung cấp, phải nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và đánh giá, rút ra kết luận.
Thông qua việc hoàn thành nhiệm vụ học tập đó sẽ giúp cho học sinh phát triển
được khả năng tri giác.
Mặt khác việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học
sinh góp phần phát triển các thành phần nhân cách của các em. Khi sử dụng tư
liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sẽ tạo ra trong các em những cảm
xúc lịch sử như sự yêu ghét, khâm phục hay căm thù, kích thích các hứng thú
học tập, ý chí vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ. Bằng sự tích cực tư duy, chủ
động hoạt động học tập, sáng tạo qua sử dụng tư liệu lịch sử và kiến thức trong
sách giáo khoa, các em sẽ trở nên năng động hơn, tự tin, linh hoạt trước tập thể
và ngày càng làm chủ được kiến thức của mình. Chẳng hạn khi dạy về “Sự
thành lập và chính sách của nhà Mạc” giáo viên nêu rõ những ý kiến đánh giá
khác nhau về Mạc Đăng Dung. Có ý kiến cho rằng: “Mạc Đăng Dung là kẻ “
nghịch thần”, cướp ngôi nhà Lê, đáng bị lên án. Tuy nhiên lại có nhận định cho
rằng sự xuất hiện của Mạc Đăng Dung trên chính trường là một tất yếu, đáp ứng
yêu cầu, đòi hỏi của xã hội lúc bấy giờ. Ông là một danh nhân, có công lao lớn
đối với lịch sử dân tộc”. Quan điểm của em trước những ý kiến trên.
Để trả lời được câu hỏi trên đòi hỏi học sinh phải căn cứ vào hoàn cảnh
thành lập, chính sách của nhà Mạc kết hợp với tư liệu lịch sử để phân tích, rút ra
11


nhận xét. Với các hoạt động như vậy sẽ giúp học sinh phát triển tư duy phản
biện, khả năng diễn giải, lập luận từ đó có thái độ nhận thức đúng đắn về nhà
Mạc nói chung và Mạc Đăng Dung nói riêng đối với lịch sử dân tộc.
Như vậy, việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học
sinh có tác dụng thiết thực trong việc bồi dưỡng nhận thức, giáo dục tư tưởng,
tình cảm, đạo đức đúng đắn và phát triển toàn diện học sinh.

2. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay, các trường trung học phổ thông đang thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh. Nhiều phương pháp
dạy học tích cực đã được giáo viên áp dụng vào dạy học, đặc biệt trong môn lịch
sử. Tuy nhiên, tình trạng sử dụng tư liệu lịch sử vào dạy học bộ môn vẫn chưa
phổ biến.
Trong quá trình dạy học ở trường THPT, tôi đã tiến hành điều tra thực
trạng của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh
trong dạy học bộ môn tại các trường THPT trên địa bàn.
2.1. Về phía giáo viên
Thông qua phiếu điều tra, chúng tôi đã điều tra 6 giáo viên môn lịch sử và
thu được kết quả như sau:
Tiêu chí
Mức độ
%
Rất thích
10
Thích
30
Đánh giá về hứng thú học
tập của học sinh hiện nay
Bình thường
50
Không quan tâm
10
Là nguồn kiến thức, giúp cụ thể hóa
70
những kiến thức có trong sách giáo khoa
Có tính chất minh họa cho nội dung sự
10

Vai trò của tư liệu tham
kiện có trong sách giáo khoa
khảo trong dạy học lịch sử Sử dụng cũng được, không sử dụng cũng
10
được
Chỉ gây hứng thú nhất thời cho học sinh
10
Tác dụng của việc sử dụng
Nắm vững kiến thức
10
tư liệu lịch sử trong dạy
Giáo dục tư tưởng tình cảm
10
học
Phát triển khả năng phân tích, đánh giá
10
Tất cả các ý trên
70
Phương pháp sử dụng tư
liệu
Sử dụng tư liệu cho những
hoạt động

Gợi mở để học sinh tự tìm hiểu
Tự nêu nội dung các tài liệu lịch sử
Sử dụng có tính chất minh họa, hình thức
Nghiên cứu kiến thức mới
Củng cố, ôn tập, kiểm tra kiến thức cho

50

30
20
65
8
12


học sinh
Tự học ở nhà của học sinh
Tổ chức ngoại khóa

7
20

2.1.1. Nhận thức của giáo viên về việc sử dụng tư liệu lịch sử trong
dạy học bộ môn.
Có 70% giáo viên đều nhận thức được tầm quan trọng của tư liệu lịch sử
đối với hoạt động học của học sinh. Họ hiểu rằng, tư liệu lịch sử thực sự là một
nguồn cung cấp kiến thức và khai thác các nguồn tư liệu lịch sử là một yêu cầu
không thể thiếu được đối với mỗi bài giảng nhằm đạt mục tiêu về kiến thức, kĩ
năng, thái độ.
Tuy nhiên vẫn còn 30% giáo viên cho rằng, sử dụng tư liệu lịch sử trong
bài học lịch sử chỉ có tính chất nhắc lại nội dung sự kiện hoặc chỉ gây hứng thú
nhất thời cho học sinh do đó ít quan tâm đến việc sưu tầm, tìm kiếm tư liệu phục
vụ cho bài giảng mà nặng về cung cấp kiến thức sách giáo khoa khiến cho giờ
học nặng nề, hiệu quả bài học không cao.
2.1.2. Phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử của giáo viên trong dạy
học bộ môn.
Để gây hứng thú học tập lịch sử cho học sinh cần sử dụng kết hợp đa
dạng, phong phú các phương pháp dạy học trong đó sử dụng các tư liệu lịch sử

có tác dụng lớn để gây hứng thú học tập cho học sinh. Hơn nữa tư liệu là một
nguồn tri thức lịch sử làm phong phú thêm kiến thức cho học sinh, tăng cường
khả năng làm việc của các em. Trong dạy học lịch sử nếu chỉ dựa trên những
kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa thì bài giảng nhiều khi trở nên nhàm chán,
vì có những kiến thức học sinh đã nắm được thông qua các lớp dưới hay một số
kênh thông tin khác. Cho nên giáo viên cần sử dụng có hệ thống nguồn tư liệu
được chọn lọc và phù hợp, đảm bảo tính khoa học và vừa sức, không khiên
cưỡng. Hiệu quả của việc sử dụng tư liệu tăng lên gấp bội nếu giáo viên biết dựa
vào tư liệu lịch sử để nêu ra các tình huống có vấn đề bằng cách xây dựng một
hệ thống câu hỏi có tính chất gợi mở và gợi ý cho học sinh trả lời. Tuy nhiên
những câu hỏi của giáo viên đưa ra phải phù hợp với trình độ và phát huy được
trí lực của học sinh, tránh lan man, xa trọng tâm bài giảng. Sử dụng tư liệu lịch
sử thuần phục trong mỗi bài học thông qua cách nêu câu hỏi có tính chất hướng
dẫn hoạt động nhận thức của học sinh và gợi ý, khích lệ học sinh chủ động trả
lời, giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản và lôgic của bài học một cách chắc
chắn. Đúng như Brune đã khẳng định: “Hứng thú chỉ có thể có được từ tài liệu
học tập bằng cách hình thành việc học tập như một hành vi khám phá. Kiến
thức thu nhận bằng con đường tự khám phá là kiến thức vững chắc nhất, đáng
tin cậy nhất”.
Do có những nhận thức không đồng nhất về vai trò, ý nghĩa của tư liệu
lịch sử đối với việc học tập của học sinh nên phương pháp sử dụng tư liệu lịch
13


sử của giáo viên trong các giờ học cũng khác nhau. Có 50% giáo viên sử dụng
tư liệu gợi mở để học sinh tự tìm hiểu, 20% giáo viên sử dụng tư liệu có tính
chất minh họa. Về phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử, có 65% giáo viên sử
dụng tư liệu để nghiên cứu kiến thức mới và 35% giáo viên sử dụng tư liệu cho
các hoạt động khác.
Như vậy, qua phiếu điều tra cho thấy giáo viên chưa tận dụng dụng hết vai

trò của tư liệu lịch sử khi giảng dạy và việc sử dụng các loại tư liệu như tư liệu
thành văn, tư liệu hiện vật, tư liệu phim, tranh ảnh, bản đồ nhằm tăng tính trực
quan cho bài dạy hay các hoạt động nhóm, dự án học tập nhằm tăng tính tích
cực, chủ động của học sinh lại chưa được giáo viên lựa chọn triển khai thường
xuyên và hiệu quả. Hơn nữa về mức độ giáo viên hỗ trợ, hướng dẫn học sinh
trong quá trình học tập, hầu hết giáo viên đều quan tâm đến việc kiểm tra kiến
thức, kĩ năng nền của học sinh khi bắt đầu môn học. Về vấn đề tìm hiểu mức độ
hứng thú của học sinh đối với môn học Lịch sử, tìm hiểu những nội dung trong
môn học mà học sinh quan tâm, xác định phong cách học và hướng dẫn học sinh
phương pháp học phù hợp, tìm hiểu thuận lợi, khó khăn của học sinh trong học
tập chưa được giáo viên quan tâm nhiều vì vậy việc sưu tầm và khai thác tư liệu
lịch sử phục vụ cho dạy học chỉ diễn ra ở một bộ phận giáo viên còn đa số giáo
viên dạy chay. Điều này dẫn đến việc học sinh chưa biết cách học lịch sử, phần
lớn học sinh chỉ học thuộc những gì giáo viên cho ghi chép trên lớp, hoặc học
trong sách giáo khoa mà không được tiếp cận với các tư liệu khác nên mức độ
hứng thú học tập đối với môn lịch sử chưa cao.
2.2. Về phía học sinh
Thông qua phiếu điều tra, chúng tôi đã điều tra 90 học sinh và thu được
kết quả như sau:
Tiêu chí
Mức độ
%
Rất yêu thích
30
Môn học lịch sử ở trường phổ thông đối
với em như thế nào?

Bình thường

50


Không quan tâm

20

Rất hấp dẫn và dễ hiểu

85

Trong giờ học lịch sử, nếu thầy (cô) giáo
sử dụng tư liệu lịch sử em sẽ cảm thấy
thế nào?

Bình thường

10

Không quan tâm

5

Thầy (cô) giáo có thường xuyên hướng

Thường xuyên

60

14



dẫn các em tìm hiểu nội dung tư liệu lịch
sử trong và ngoài sách giáo khoa để tìm
hiểu kiến thức hay không?

Thi thoảng

40

Không

0

Nghiên cứu kiến thức mới
Củng cố, ôn tập, kiểm tra,
Thầy (cô) giáo thường sử dụng tư liệu
đánh giá
lịch sử cho những hoạt động học tập nào?
Hoạt động ngoại khóa
Tự học ở nhà

65
10
15
10

2.2.1. Mức độ yêu thích môn lịch sử của học sinh
Hình thức tổ chức dạy học trong môn Lịch sử đã chú trọng đến việc đa
dạng hóa, trong đó ngoài giờ học trên lớp là chính, các trường còn tổ chức các
hoạt động ngoại khóa về Lịch sử địa phương, về các di tích lịch sử, về các nhân
vật, sự kiện lịch sử tiêu biểu... tại bảo tàng, di tích lịch sử. Các cuộc thi tìm hiểu

về lịch sử Việt Nam do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam tổ chức đã góp phần nâng cao nhận thức và bồi dưỡng tình cảm của
học sinh với lịch sử dân tộc. Mặt khác, một số giáo viên có phương pháp giảng
dạy tốt, bài giảng có thêm nhiều tư liệu, kênh hình sinh động tạo sự hứng thú
học tập cho học sinh. Vì vậy đa số học sinh hiện nay ngày càng yêu thích môn
Lịch sử hơn điều này được thể hiện rõ trong kết quả kì thi THPT Quốc gia. Nếu
như kì thi THPT Quốc gia năm 2018 có tới 83,24% thí sinh có điểm dưới trung
bình môn Lịch sử và 11 thí sinh đạt điểm 10 môn Lịch sử thì kì thi THPT Quốc
gia năm 2019 có 70% thí sinh có điểm dưới trung bình và số bài thi đạt điểm 10
là 87 bài, phổ điểm thi từ 8 trở lên cao gấp 3 lần năm 2018. Qua phiếu điều tra
khảo sát tại các trường THPT trên địa bàn cho thấy có 30% học sinh rất thích
học lịch sử, 50% học sinh mức độ yêu thích bình thường. Điều này chứng tỏ
chất lượng môn Sử ngày càng cải thiện hơn đồng nghĩa học sinh ngày càng yêu
thích môn Lịch sử hơn.
Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận học sinh( 20%) chưa nhận thức đúng tầm
quan trọng của môn Lịch sử, coi môn Sử là môn phụ, coi đó là môn học của các
sự kiện, của năm tháng và của trí nhớ, khô khan, nhàm chán nên có thái độ bàng
quan khi học lịch sử.
2.2.2. Sự hứng thú và nhận thức của học sinh đối với tư liệu lịch sử
Theo từ điển Tiếng Việt: “hứng thú là sự thích thú, ham mê”, hứng thú
làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nẩy sinh khát vọng hành động và
hành động sáng tạo, làm tăng sức làm việc. Hứng thú có nhiều loại gồm hứng
thú nghệ thuật, hứng thú thể thao, hứng thú nhận thức.., trong đó hứng thú nhận
thức có vị trí quan trọng nhất.
Hứng thú nhận thức tạo ra động cơ quan trọng nhất của học tập, là cơ sở
thái độ của học sinh đối với học tập, là nguồn gốc thúc đẩy học sinh học tập một
15


cách say mê. Hứng thú nhận thức không chỉ là sự kích thích bên ngoài mà còn là

sự kích thích bên trong của bản thân học sinh, chính kích thích bên trong mới
duy trì lâu dài được hứng thú và hứng thú được một cách bền vững mới có thể
trở thành động cơ hoạt động học tập của học sinh. Hứng thú học tập lịch sử là
thái độ say mê, tự giác tích cực đặc biệt của cá nhân đối với nội dung lịch sử cụ
thể. Muốn hình thành được hứng thú học tập ở học sinh, trước hết cần thu hút
học sinh vào bài học.
Thực tế không phải học sinh nào cũng thờ ơ với môn Lịch sử. Thông qua
kết quả phiếu điều tra thực tiễn ở trường phổ thông cho thấy: Khi được hỏi,
trong các giờ học lịch sử nếu thầy( cô) sử dụng tư liệu lịch sử các em cảm thấy
thế nào? Có tới 85% học sinh trả lời hấp dẫn và dễ hiểu, chỉ có 10% cho là bình
thường đối với các tư liệu lịch . Như vậy, sử dụng tư liệu lịch sử trong giờ học
và sử dụng phương pháp đúng sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, tạo
niềm đam mê yêu thích môn học. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng nhận
thức được điều đó, hầu hết giáo viên chỉ sử dụng các tư liệu lịch sử để nghiên
cứu kiến thức mới ( 65%) và ít khi sử dụng tư liệu lịch sử vào các khâu học tập
khác.
Như vậy qua tìm hiểu thực tế ở một số trường phổ thông, tôi có thể rút ra
kết luận sau:
Học sinh ngày cảng yêu thích môn lịch sử hơn trước và mong muốn có
những giờ học lịch sử sinh động, được làm việc với nhiều tư liệu lịch sử khác
nhau dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có nhiều giáo viên hiểu được tâm lý của
học sinh, nhận thức đúng về tầm quan trọng của tư liệu lịch sử. Tuy nhiên vẫn
còn một bộ phận giáo viên chưa hiểu hết tầm quan trọng của tư liệu lịch sử trong
giảng dạy vì vậy những giờ dạy của họ thường nhàm chán và khô khan. Ngược
lại một số giáo viên lại quá lạm dụng tư liệu lịch sử làm cho bài học trở nên
nặng nề, dàn trải kiến thức, biến giờ học lịch sử thành giờ kể chuyện lịch sử.
Nhiều giáo viên sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng gợi mở cho học sinh
tự tìm hiểu. Đây là một phương pháp hay để phát triển năng lực học sinh song
bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận giáo viên không chú ý đến việc sử dụng các tư
liệu lịch sử trong giờ học. Phần lớn giáo viên chỉ sử dụng tư liệu lịch sử trong

khâu nghiên cứu kiến thức mới còn các khâu khác thường ít hoặc không sử
dụng.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng giáo viên không sử dụng hoặc sử dụng tư
liệu lịch sử chưa hợp lý là do một bộ phận giáo viên chưa tâm huyết với nghề,
họ lên lớp cho xong nhiệm vụ hoặc họ ngại sưu tầm tìm hiểu những tư liệu hoặc
giáo viên chuẩn bị rất tốt nhưng học sinh thiếu sự hợp tác với thầy cô nên giáo
viên sử dụng tư liệu lịch sử một cách qua loa, mang tính hình thức. Cũng có
nhiều giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của tư liệu lịch sử nên sử
dụng tư liệu chủ yếu mang tính minh họa chứ chưa phải là nguồn khai thác kiến
16


thức làm cho giờ học trở nên dàn trải, không cô đọng kiến thức, không phát huy
được tính tích cực của học sinh.
Tóm lại tư liệu lịch sử là một phương tiện quan trọng để cụ thể hóa kiến
thức lịch sử đang học, nhằm tạo cho học sinh có biểu tượng rõ ràng, cụ thể, tăng
thêm tính sinh động, gợi cảm của bài giảng và gây hứng thú cho việc học tập của
các em. Tư liệu lịch sử là nguồn cung cấp kiến thức quý báu, cho nên đòi hỏi
mỗi giáo viên khi giảng dạy phải biết khai thác và sử dụng nó một cách hợp lý.
Cùng với việc đổi mới phương pháp, đổi mới chương trình và sách giáo khoa thì
việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh là một trong
những biện pháp ưu việt góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục. Thực tiễn dạy
học lịch sử ở trường phổ thông đã có những chuyển biến tích cực về vấn đề sử
dụng tư liệu lịch sử song việc sử dụng chủ yếu mang tính hình thức. Vì vậy cần
phải tìm ra các biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực
học sinh nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
II. Một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển
năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X
đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”
1. Vị trí, mục đích, nội dung cơ bản của phần Lịch sử phong kiến Việt

Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”
1. 1. Vị trí
Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp
10, ban cơ bản có một vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc;
là cầu nối giữa kiến thức lịch sử dân tộc các giai đoạn trước với giai đoạn sau,
tạo thành một hệ thống kiến thức hoàn chỉnh giúp học sinh có những tri thức cơ
bản, sâu rộng về lịch sử dân tộc. Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XIX) là thời kì đất nước độc lập, tự chủ sau hơn một ngàn năm
Bắc thuộc. Mặc dù giành lại được nền độc lập, tự chủ nhưng bọn phong kiến
phương Bắc vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm chiếm nước ta. Vì vậy từ thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XIX, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua một quá trình lao động,
chiến đấu hi sinh gian khổ song cũng rất anh dũng, kiên cường. Thông qua bài
học về thời kì này góp phần giáo dục các em niềm tự hào dân tộc, ý thức giữ gìn,
phát huy truyền thống đấu tranh, lòng biết ơn sâu sắc với những người có công
với nước và có thái độ tích cực học tập, lao động để noi gương các thế hệ cha
anh đi trước.
Tóm lại ngiên cứu lịch sử phong kiến Việt Nam( Từ thế kỉ X đến nửa đầu
thế kỉ XIX) có vị trí rất quan trọng giúp học sinh có được những tri thức về lịch
sử dân tộc, rèn luyện cho các em năng lực, phẩm chất cá nhân, góp phần bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức yêu nước, niềm tự hào dân tộc, có ý thức xây dựng và
bảo vệ quê hương, đất nước.
1.2. Mục đích
17


Học xong Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ
XIX), học sinh cần đạt được:
Về kiến thức:
Giúp học sinh hiểu rõ tình hình đất nước ta sau hơn một ngàn năm Bắc
thuộc trải qua những thăng trầm lịch sử. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là thời kì

buổi đầu của đất nước độc lập, tự chủ. Đây là thời kì hình thành, củng cố, phát
triển và hoàn chỉnh của nhà nước phong kiến dân tộc. Từ thế kỉ XVI đến thế kỷ
XVIII là thời kì chia cắt cát cứ, bước đầu khủng hoảng của chế độ phong kiến
Việt Nam. Đến nửa đầu thế kỉ XIX dưới vương triều nhà Nguyễn nền quân chủ
chuyên chế trung ương tập quyền và nền thống nhất đất nước được củng cố. Từ
thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX là thời kì đất nước độc lập, tự chủ đồng thời
cũng là thời kì dân tộc ta thường xuyên phải cầm vũ khí đứng lên đấu tranh
chống quân xâm lược bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Biết và hiểu được trải qua các thế kỷ độc lập, mặc dù đôi lúc còn có nhiều
biến động khó khăn, nhân dân ta vẫn xây dựng cho mình nền kinh tế đa dạng, tự
chủ và hoàn chỉnh. Nền kinh tế Việt Nam thời phong kiến chủ yếu là nông
nghiệp, tuy có nhiều mâu thuẫn trong vấn đề ruộng đất, nhưng những yếu tố cần
thiết phát triển nông nghiệp vẫn được phát triển như: Thuỷ lợi, mở rộng ruộng
đất, tăng các loại cây trồng phục vụ đời sống ngày càng cao. Thủ công nghiệp
ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú chất lượng được nâng cao không chỉ
phục vụ trong nước mà còn góp phần trao đổi với nước ngoài. Thương nghiệp
phát triển. Trong hoàn cảnh của chế độ phong kiến, ruộng đất ngày càng tập
trung vào tay giai cấp địa chủ và làm cho xã hội ngày càng phân hóa sâu sắc.
Trình bày được những thành tựu điển hình của văn hóa Việt Nam thời
phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX). Phân tích được nét chính của
bản sắc văn hóa Việt Nam, giải thích được sự giao thoa giữa văn hóa Việt Nam
với các nền văn hóa khác.
Về kỹ năng:
Học phần lịch sử Việt Nam thời phong kiến( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế
kỉ XIX) rèn luyện cho học sinh các năng lực như năng lực tri giác, tưởng tượng;
năng lực khai thác và xử lý tư liệu lịch sử, năng lực tư duy lịch sử, xâu chuỗi các
sự kiện, phân tích, so sánh và đánh giá lịch sử, liên hệ thực tế.
Về thái độ:
Bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam và
lòng biết ơn sâu sắc với những người có công với nước. Bồi dưỡng cho học sinh

ý thức xây dựng và bảo vệ đất nước thống nhất. Giáo dục cho học sinh lòng yêu
nước đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn đất nước, biết trân trọng và có ý
thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, biết kết hợp văn
hóa truyền thống với hiện đại. Từ đó có trách nhiệm đối với quê hương đất
18


nước, xác định động cơ học tập vì lý tưởng cao đẹp, phục vụ lợi ích của Tổ
quốc. Đồng thời bồi dưỡng cho các em niềm say mê học tập và cống hiến cho
đất nước.
1.3. Nội dung cơ bản của phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế
kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”.
Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX, lịch sử phong kiến Việt Nam mặc dù
trải qua những bước thăng trầm lịch sử song đạt được nhiều thành tựu to lớn trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa.
Về chính trị: Với chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã mở
ra thời kì độc lập tự chủ lâu dài cho dân tộc. Song sau hơn 1000 năm Bắc thuộc
nhiều yêu cầu lịch sử được đặt ra mà trước mắt là phải giữ vững an ninh và
thống nhất đất nước; đánh lại các cuộc xâm lược của nước ngoài, bảo vệ nền độc
lập tự chủ của Tổ quốc. Để đáp ứng yêu cầu đó, năm 939 Ngô Quyền xưng
vương thành lập chính quyền mới, đóng đô ở Đông Anh – Hà Nội. Việc làm trên
của Ngô Quyền đã khẳng định chủ quyền độc lập, tự chủ của một nhà nước thực
sự, lâu dài và vững chắc. Ở thế kỉ X trải qua các triều đại Ngô – Đinh -Tiền Lê
nhà nước độc lập tự chủ theo thiết chế quân chủ chuyên chế đã được xây dựng.
Tuy còn sơ khai song đã là nhà nước độc lập tự chủ của dân tộc ta. Từ thế kỉ XI
đến thế kỉ XV, trải qua các triều đại Lí -Trần -Hồ - Lê sơ, nền độc lập ngày càng
được củng cố, nhà nước quân chủ ngày càng được phát triển, hoàn thiện và tổ
chức chặt chẽ. Đến đầu thế kỷ XVI, nhà nước phong kiến lâm vào khủng hoảng
sâu sắc: Vua ăn chơi sa đọa, quan lại hoành hành ức hiếp nhân dân làm cho đời
sống nhân dân khổ cực , mâu thuẫn xã hội gay gắt và nông dân nổi dậy đấu tranh

ở nhiều nơi. Lợi dụng tình hình, các tập đoàn phong kiến hợp quân đánh nhau
tranh chấp địa vị, quyền lực. Từ đó gây nên tình trạng chia cắt, cát cứ trong các
thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, đó là thời kỳ Nam - Bắc triều và thời kỳ Trịnh Nguyễn dẫn đến đất nước bị chia cắt lâu dài thành Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Đến đầu thế kỉ XIX, sau khi đánh bại các vương triều Tây Sơn, làm chủ cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài, nhà Nguyễn khôi phục và tăng cường quyền lực của nhà
nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đồng thời củng cố nền thống
nhất đất nước.
Tuy là thời kì đất nước độc lập, tự chủ song nước ta luôn phải cầm vũ khí
chống lại các thế lực ngoại xâm như hai lần kháng chiến chống Tống ( thời Tiền
Lê, thời Lý), ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên (thời Trần), kháng chiến
chống Minh ( thời Hồ), kháng chiến chống Xiêm và chống Thanh (vương triều
Tây Sơn). Trải qua các cuộc đấu tranh, lòng yêu nước được phát triển và tôi
luyện trở thành truyền thống yêu nước. Những cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm thắng lợi không chỉ làm tăng thêm niềm tự hào dân tộc với hàng loạt chiến
công oanh liệt như Bạch Đằng, Chi Lăng – Xương Giang, Rạch Ngầm – Xoài
Mút, Ngọc Hồi – Đống Đa... mà còn khắc sâu thêm tình yêu Tổ quốc trong lòng
người dân Việt Nam.
19


Về kinh tế: Đây là thời kì xây dựng một nền kinh tế toàn diện và tự chủ
với đặc điểm lớn là sự phối hợp đều đặn giữa nhân dân với nhà nước. Các triều
đại phong kiến có nhiều biện pháp nhằm phát triển kinh tế như làm lễ cày tịch
điền (thời Tiền Lê, Lý), ban hành chính sách quân điền (thời Lê sơ, thời
Nguyễn), quan tâm đến công tác thủy lợi (thời Lý, Trần, Lê sơ, Nguyễn...). Nền
kinh tế Việt Nam thời phong kiến chủ yếu là nông nghiệp; thủ công nghiệp ngày
càng phát triển, đa dạng, phong phú chất lượng sản phẩm được nâng cao không
chỉ phục vụ trong nước mà còn góp phần trao đổi với nước ngoài. Thương
nghiệp phát triển và mở rộng, không những buôn bán với các nước châu Á mà
còn mở rộng buôn bán với cả các nước phương Tây. Thuyền buôn nước ngoài

đến nước ta ngày một nhiều. Tuy nhiên đến giữa thế kỉ XVIII do chế độ thuế
khóa phức tạp, quan lại khám xét phiền phức nên hoạt động buôn bán với bên
ngoài suy yếu dần đặc biệt dưới thời Nguyễn, nhà nước giữ độc quyền ngoại
thương và hạn chế buôn bán với các nước phương Tây. Chính sách “trọng nông,
ức thương” của nhà Nguyễn khiến nền kinh tế phát triển què quặt, công thương
nghiệp không được tạo điều kiện để giải thoát khỏi sự bế tắc của nông nghiệp,
chưa mở đường cho quan hệ sản xuất mới nảy sinh; chính sách “bế quan tỏa
cảng” đã hạn chế quan hệ buôn bán với nước ngoài đặc biệt hạn chế buôn bán
với các nước tư bản phương Tây, không tạo điều kiện cho sự giao lưu và mở
rộng sản xuất, khiến cho Việt Nam bị tách biệt với các nước. Kết quả là công
thương nghiệp đình đốn, hàng hóa khan hiếm, đời sống nhân dân bị bần cùng,
tiềm lực đất nước ngày càng suy giảm.
Về văn hóa: Việt Nam là đất nước có bề dày lịch sử, nhiều thành tựu văn
hóa của đất nước trở thành di sản văn hóa vật thể hay phi vật thể của nhân loại,
với những danh nhân văn hóa thế giới như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Nền tảng
cho các thành tựu văn hóa nổi bật đó chính là giai đoạn lịch sử dân tộc từ thế kỉ
X đến thế kỉ XIX. Đây là thời kì giao thoa giữa văn hóa Việt Nam với các nền
văn hóa khác. Mặc dù có sự du nhập của các nền văn hóa khác nhau nhưng nhân
dân ta đã biết tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo, tạo nên một nền văn hóa vừa
phong phú đa dạng vừa mang đậm tính dân tộc.
1.4. Nội dung tư liệu lịch sử cần sử dụng khi dạy phần Lịch sử phong
kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”
Khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế
kỉ XIX), giáo viên có thể sử dụng rất nhiều loại tư liệu khác nhau để làm rõ cho
các nội dung cơ bản cụ thể trong sách giáo khoa. Tôi có thể thống kê một số tư
liệu lịch sử điển hình để phục vụ cho dạy học nội dung lịch sử tương ứng.
Phục vụ dạy học nội
Chủ đề
Tư liệu lịch sử
dung lịch sử

Nhà nước phong
- Ngô Quyền xưng vương, xây Buổi đầu xây dựng nhà
kiến Việt Nam từ dựng nhà nước mới ( Tư liệu nước độc lập ở thế kỉ X
thế kỉ X đến nửa
lịch sử 10
20


- Chiếu dời đô của Lý Công
Uẩn ( Bản dịch của Viện khoa Phát triển và hoàn chỉnh
học Xã hội Việt Nam, in trong
nhà nước phong kiến ở
Đại Việt sử kí toàn thư, NXB thế kỉ XI đến thế kỉ XV
Khoa học Xã hội, hà Nội, 1993)
- Đóng góp của vương triều
Mạc (Nguyễn Doãn Tuân,
Nguyễn Tuyết Anh (2015), Thời kì đất nước bị chia
đầu thế kỉ XIX
Những đóng góp của vương cắt (thế kỉ XVI – XVIII)
triều Mạc với kinh thành Thăng
Long, Báo nhân dân)
- Gia Long xây dựng kinh đô và
đặt quốc hiệu mới (Nguyễn Văn
Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ
Ánh, Trần Thái Hà, Trịnh Đình
XIX
Tùng (2006), Tư liệu lịch sử 10,
NXB Giáo dục)
- Men gốm thời Lý - Trần
(Nguyễn Văn Ánh, Trần Thái Hà, Kinh tế Việt Nam từ thế

kỉ X đến thế kỉ XV
Trịnh Đình Tùng (2006), Tư liệu
lịch sử 10, NXB Giáo dục)
- Phố Hiến – Thương cảng lớn
Kinh tế Việt Nam từ
nhất của Đàng Ngoài (Nguyễn Kinh tế Việt Nam ở các
thế kỉ X đến nửa
Văn Ánh, Trần Thái Hà, Trịnh
thế kỉ XVI đến thế kỉ
đầu thế kỉ XIX
XVIII
Đình Tùng (2006), Tư liệu lịch
sử 10, NXB Giáo dục)
Tranh đấu vật ( Tranh Đông Hồ)
Kinh tế Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XIX
- Nhận định của Chủ Tịch Hồ
Chí Minh ( Hồ Chí Minh, toàn Các cuộc đấu tranh chống
tập, tập 6, NXB Chính trị Quốc
ngoại xâm
gia, 2002, tr171)
Các cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm từ
thế kỉ X đến nửa
đầu thế kỉ XIX

Văn hóa Việt Nam
từ thế kỉ X đến nửa

- Kế sách giữ nước của Trần

Quốc Tuấn ( Sách Ngữ văn 10,
Các cuộc kháng chiến
tập 2, NXB Giáo dục, 2006,tr
chống Mông - Nguyên
42)
- Tư liệu bia Vĩnh Lăng (Lam
Khởi nghĩa Lam Sơn
Kinh – Thanh Hóa
- vua Quang Trung đánh tan
Kháng chiến chống Thanh
quân xâm lược Thanh
- Lý Thái Tổ lên ngôi chưa
Tư tưởng, tôn giáo
được hai năm...mà đã dựng 8
21


đầu thế kỉ XIX

chùa ở phủ Thiên Đức.
- Sự du nhập của Nho giáo vào
Việt Nam
-Tư liệu về Văn Miếu – Quốc
Tử Giám, văn bia Tiến sỹ
- Tư liệu về câu nói của Thân
Nhân Trung
- Giáo dục thời vua Gia Long
- Khái quát văn học Việt Nam
từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX –
Văn học lớp 10

- Hịch tướng sỹ
- Chùa Một Cột
- Tượng Phật bà Quan Âm
- Súng thần cơ

Giáo dục

Văn học
Nghệ thuật
Khoa học kĩ thuật

2. Những yêu cầu khi lựa chọn các biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử
theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến
Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”
2.1. Sử dụng tư liệu phải đáp ứng được mục tiêu dạy học
Mục tiêu bài học lịch sử chính là cái đích khi tiến hành dạy học mà thầy
và trò phải đạt. Tư liệu lịch sử là phương tiện hữu hiệu giúp giáo viên thực hiện
được những mục tiêu dạy học cụ thể đã đề ra đối với bài học lịch sử. Do vậy sử
dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh phải đáp ứng được
mục tiêu dạy học bộ môn. Giáo viên cần xác định biện pháp sử dụng tư liệu lịch
sử dù đa dạng, phong phú đến đâu cũng đều phải nhằm đạt mục tiêu bài học,
môn học.
Để đáp ứng được mục tiêu dạy học bộ môn, giáo viên cần xác định mục
đích khi sử dụng hệ thống tư liệu lịch sử, xem xét các biện pháp sử dụng tư liệu
lịch sử đó có ý nghĩa như thế nào đối với học sinh về mặt kiến thức, thái độ, kĩ
năng để sử dụng có hiệu quả.
2.2. Sử dụng tư lịch sử phải làm nổi bật nội dung cơ bản của bài học.
Nội dung cơ bản là những kiến thức cần thiết cho việc hiểu biết của học
sinh về lịch sử. Đó là những sự kiện cơ bản, niên đại, khái niệm lịch sử, phương
pháp học tập và vận dụng những kiến thức học tập vào thực tiễn. Tư liệu lịch sử

hiện nay cũng được coi là một nguồn kiến thức. Với số lượng, chủng loại phong
phú, tư liệu lịch sử cùng các kênh chữ, kênh hình trong sách giáo khoa, chuyển
tải kiến thức cơ bản tới học sinh. Khi giáo viên khai thác, sử dụng các nguồn tư
liệu lịch sử đều phải nhằm mục đích góp phần làm nổi bật nội dung cơ bản của
bài học.
22


Các biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử hợp lý sẽ giúp học sinh hiểu sâu sắc
nội dung của các bài học. Nếu sử dụng tư liệu lịch sử không hợp lý sẽ làm nặng
hoặc gây sốc cho học sinh bằng những tình tiết lịch sử không cần thiết hoặc biến
giờ học lịch sử thành giờ nghiên cứu tư liệu thì sẽ không tạo sự hứng thú học tập
cho học sinh.
2.3. Sử dụng tư lịch sử phải góp phần phát triển các phẩm chất nhận
thức của học sinh
Xuất phát từ đặc trưng của các tri thức lịch sử là mang tính quá khứ, chỉ
xẩy ra một lần duy nhất và không lặp lại cho nên trong dạy học bộ môn, giáo
viên sử dụng các loại tư liệu lịch sử để giúp các em dựng lại một cách chân thực
nhất bức tranh quá khứ. Song khi sử dụng các tư liệu lịch sử phải theo hướng
phát triển năng lực học sinh, để qua đó hình thành, phát triển ở các em phẩm
chất tự giác, tích cực, độc lập...Khi nghiên cứu các tư liệu lịch sử nếu giáo viên
dẫn dắt hợp lý, để học sinh tri giác, suy nghĩ độc lập, tự rút ra kết luận, đánh giá,
học sinh sẽ hứng thú học tập. Quá trình chủ động lĩnh hội kiến thức như vậy góp
phần phát triển các thao tác tư duy tích cực ở học sinh, cũng như kĩ năng tập
dượt nghiên cứu khoa học và thực hành bộ môn.
2.4. Sử dụng tư lịch sử phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh
Đối tượng và mục tiêu của hoạt động sư phạm là học sinh và quá trình
lĩnh hội tri thức của họ. Mọi sự đổi mới về các mặt nội dung, phương pháp đều
nhằm đạt mục đích cuối cùng là nâng cao tổ chức hoạt động nhận thức của học
sinh để nâng cao hiệu quả giờ học. Song xét cho cùng mọi cố gắng của giáo viên

sẽ trở thành vô ích nếu ta yêu cầu quá cao đối với học sinh.
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, tính vừa sức được thể hiện ở
việc lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học và cách tổ chức quá trình nhận
thức của học sinh. Tính vừa sức trong sử dụng tư liệu lịch sử được thể hiện như
sau:
- Khối lượng tư liệu lịch sử phải vừa đủ, tức là giáo viên phải căn cứ vào
mục tiêu cấp học, từng lớp, để xác định nội dung cơ bản phù hợp với từng đối
tượng học sinh, tránh sự quá tải đối với học sinh.
- Khi đưa tư lệu lịch sử, tránh đưa những tư liệu bằng tiếng nước ngoài,
những tư liệu khó hiểu phải mất nhiều thời gian để giải thích và làm cho việc
lĩnh hội tri thức của học sinh gặp nhiều khó khăn.
- Trình bày nội dung tư liệu lịch sử ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu.
Đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh là yêu cầu quan trọng để nâng cao
hiệu quả bài học, giúp học sinh hứng thú học tập và đạt kết quả cao. Trong thời
đại bùng nổ thông tin hiện nay, tư liệu lịch sử sẽ có rất nhiều nguồn khác nhau
đề cập đến. Song giáo viên cần căn cứ vào học sinh mà khai thác nội dung và đề
cập đến các phương pháp, biện pháp sử dụng các tư liệu lịch sử phù hợp với thời
23


gian và khả năng nhận thức của các em, tránh tình trạng nhồi nhét quá nhiều vấn
đề không cần thiết.
Như vậy, để giờ học đạt hiệu quả, giáo viên phải đảm bảo sử dụng tư liệu
lịch sử vừa sức với học sinh, từ đó đưa ra các biện pháp khai thác tư liệu lịch sử
phù hợp.
2.5. Sử dụng tư lịch sử phải kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp
dạy học khác
Trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, không có phương
pháp nào là vạn năng. Bởi vậy, khi dạy học phải kết hợp nhuần nhuyễn các
phương pháp dạy học. Tư liệu lịch sử là một nguồn kiến thức bên cạnh nguồn

kiến thức trong sách giáo khoa. Khai thác tư liệu lịch sử cũng chỉ là một biện
pháp trong quá trình dạy học của giáo viên, do đó cần kết hợp nhuần nhuyễn
việc sử dụng tư liệu lịch sử với các phương pháp dạy học khác.
Khi khai thác các tư liệu lịch sử, giáo viên cần phải kết hợp nhuần nhuyễn
với lời nói sinh động của giáo viên và học sinh, các đồ dùng trực quan, trao đổi
thảo luận...Giáo viên hướng dẫn học sinh tri giác, tìm hiểu, nghiên cứu và trả lời
các câu hỏi gợi mở qua đó tư liệu lịch sử phát huy được tối đa tác dụng của mình
trong kiến thức, kĩ năng và thái độ.
3. Một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển
năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X
đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”
3.1. Sử dụng tư liệu lịch sử để xây dựng bài tập nhận thức theo định
hướng phát triển năng lực học sinh
Bài tập nhận thức còn được gọi là bài tập nêu vấn đề, bài tập tư duy, bài
tập lôgic. Theo N.G Đairi, tuy khác nhau nhưng các thuật ngữ này thông thường
đều chỉ một hiện tượng sư phạm đồng nhất. Đối với loại bài tập này, “nhấn
mạnh đến điều chủ yếu tức là việc học sinh chế biến các loại tài liệu cảm thụ
một cách tự lập loogic và tự lập chuyển từ nhận thức cảm tính sang nhận thức
lôgic trong quá trình giải quyết vấn đề”
Bài tập nhận thức – bài tập nêu vấn đề thường được diễn đạt dưới dạng
câu hỏi hoặc có ý kiến khác nhau mà giáo viên đưa ra cho học sinh đánh giá,
nhưng không phải bất cứ câu hỏi nào cũng chứa bài tập nhận thức.
Bài tập nhận thức có thể là câu hỏi khi trả lời không chỉ đòi hỏi tái hiện,
nhớ lại kiến thức một cách đơn thuần, mà nhằm hình thành kiến thức với chất
lượng mới bằng các thao tác tư duy phức tạp thì trở thành bài tập nhận thức. Để
trả lời các câu hỏi này, học sinh không thể chỉ sử dụng nguyên xi các kiến thức,
kĩ năng sẵn có mà phải xử lý khéo léo và huy động nhiều bước trung gian trong
trí tuệ của mình. Muốn hoàn thành tốt các bài tập nhận thức cần phải tìm tòi,
sáng tạo tích cực và đầy hưng phấn.
24



Như vậy bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử là loại bài tập mà học
sinh độc lập giải quyết, giúp các em có hiểu biết mới về lịch sử xã hội bằng
những phương thức đã biết hoặc tạo ra những phương thức mới mà trước đó học
sinh chưa biết. Chức năng quan trọng của bài tập nhận thức là rèn luyện năng
lực tích cực, độc lập suy nghĩ khi giải quyết vấn đề nhằm phát triển tư duy cho
học sinh trong quá trình học tập. Bài tập nhận thức có khả năng nâng cao trình
độ tư duy, phát triển khả năng lập luận, lý giải cho học sinh. Do đó, không chỉ
giúp học sinh khôi phục hình ảnh quá khứ mà còn đi sâu vào nhận thức bản chất
của sự kiện lịch sử. Bài tập nhận thức có nội dung khó hơn, sâu hơn câu hỏi và
các loại bài tập khác, đòi hỏi thời gian, công sức, trình độ của học sinh nhiều
hơn và tác dụng kết quả đem lại cũng cao hơn.
Việc xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử phải
nhằm vào các mục đích tăng cường các hoạt động nhận thức tích cực, độc lập,
thông minh, sáng tạo của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức, giúp học sinh
nắm vững, hiểu sâu sắc đầy đủ hơn hệ thống kiến thức cơ bản của môn học chứ
không phải chỉ để ghi nhớ,học thuộc, rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy
lôgic trong học tập lịch sử; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm đạo đức nói chung,
tinh thần chuyên cần trong học tập, lao động.
Để đạt mục đích trên, khi xây dựng bài tập và sử dụng bài tập nhận thức
phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, bài học phải tập trung vào nội dung cơ bản của bài, của chương
hay của chủ đề, là những điều mới học sinh chưa biết, cần phải giải quyết trong
giờ học đó hay trong quá trình học tập, đòi hỏi học sinh phải tích cực, độc lập
làm việc. Bài tập thể hiện nội dung cơ bản của bài học nghĩa là xây dựng bài tập
phải bám sát và bộc lộ các điểm mấu chốt, các vấn đề quan trọng, thiết thực do
chương trình, sách giáo khoa và thực tế cuộc sống đặt ra qua các bài cụ thể. Hay
nói khác đi đó là các vấn đề trọng tâm của mục, của bài được quy định trong
chương trình, là vấn đề cốt lõi để tạo lập hệ thống tri thức.

Thứ hai, bài tập đưa ra phải thể hiện sự khó vừa đủ và tính vừa sức đối
với từng học sinh. Xây dựng bài tập trong dạy học là một nghệ thuật. Nếu bài
tập dễ quá sẽ làm cho học sinh thỏa mãn đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của
mình và không kích thích được tính tích cực, độc lập nhận thức của học sinh,
nhưng nếu bài tập khó quá, mang tính chất đánh đố sẽ làm cho việc lĩnh hội kiến
thức mới của học sinh kém hiệu quả. Chỉ có những bài tập khó vừa sức với học
sinh mới đòi hỏi sự cố gắng phát triển tư duy của học sinh.
Thứ ba, bài tập đưa ra phải chứa đựng tình huống có vấn đề, yêu cầu học
sinh phải độc lập suy nghĩ, tìm ra bản chất của sự vật hiện tượng. Nội dung bài
tập phải tập trung vào những vấn đề mới, phải đặt ra được những khó khăn và
trở ngại cho việc nhận thức nhưng phải vừa sức học sinh. Nội dung phải do tư
liệu, chương trình học tập quy định, nằm trong khả năng giải quyết của học sinh.
25


×