Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.21 KB, 26 trang )

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
===============

TIỂU LUẬN MÔN
PHÁP LUẬT KINH TẾ THƯƠNG MẠI VÀ
THỰC TIỄ ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
ĐỀ BÀI SỐ 2
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Họ và tên: Thạch Thị Liên
Ngày sinh: 29/6/1991
Số CMT: 012840332
Khoa: Luật kinh tế
Niên khóa: 2017-2019

Hà Nội, 12/2018

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Cuối thế kỷ XX chúng ta chứng kiến sự thành công của mô hình kinh tế thị
trường ở nhiều nước từ Tây Âu đến Bắc Mỹ và cả Châu Á. Để có được thành
công đó không thể không nhắc đến vai trò quản lý của Nhà nước. Nhà nước
không thể thay thế cho thị trường nhưng nó có thể tác động một cách có hiệu quả
đến mọi hoạt động của nền kinh tế thị trường và Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Với khuôn khổ bài viết dưới đây, tôi xin trình bày một cách tổng quát về chủ đề:
“Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
B. NỘI DUNG CHÍNH.


I. Khái quát về nền kinh tế thị trường.
1. Khái niệm và đặc điểm.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là một
hình thức tổ chức sản xuất xã hội hiệu quả nhất phù hợp với trình độ phát triển
của xã hội hiện nay. Các đặc điểm chính của kinh tế thị trường:
Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao. Mỗi chủ thể kinh tế là một thành
phần của nền kinh tế có quan hệ độc lập với nhau, mỗi chủ thể tự quyết định lấy
hoạt động của mình.
Tính phong phú của hàng hóa. Do các chủ thể kinh tế đều tự quyết định lấy
hoạt động của mình nên bất cứ hàng hoá nào có nhu cầu thì sẽ có người sản xuất.
Mà nhu cầu của con người thì vô cùng phong phú, điều này tạo nên sự phong
phú của hàng hoá trong nền kinh tế thị trường .
Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, trong đó có sự giao lưu rộng
rãi không chỉ trong thị trường một nước màgiữa các thị trường với nhau.
Giá cả hình thành ngay trên thị trường. Không một chủ thể kinh tế nào
quyết định được giá cả. Giá của một mặt hàng được quyết định bởi cung và cầu
của thị trường

2


Nền kinh tế thị trường có thể tự hoạt động được là nhờ vào sự điều tiết của
cơ chế thị trường. Đó là các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy
luật cung cầu, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh…tác động, phối hợp hoạt động của
toàn bộ thị trường thành một hệ thống thống nhất
2. Ưu và nhược điểm của nền kinh tế thị trường.
2.1 Ưu điểm
Kinh tế thị trường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển tạo ra sự cạnh
tranh gắt gao giữa các nhà sản xuất. Người tiêu dùng được thoả mãn nhu cầu
cũng như đáp ứng được đầy đủ mọi chủng loại hàng hoá và dịch vụ.

Phân công lao động ngày càng xã hội hoá cao. Mở rộng quan hệ nhiều loại
thị trường từ thị trường địa phương, thị trường dân tộc và khu vực, thi trường
quốc tế.
Tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang
phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công
nghệ quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển
kinh tế ở nước mình.
Kinh tế thị trường góp phần thúc đẩy giao lưu giữa các nước dưới sự thể
hiện qua cac sản phẩm dịch vụ mang bản sắc riêng của từng dân tộc, từng địa
phương, từng quốc gia.
2.2 Nhược điểm
Kinh tế thị trường phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh
tế phát triển, lúc đó vai trò của kinh tế nhà nước bị giảm sút và chịu sức ép mạnh
mẽ tư các thành phần kinh tế khác.
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh trạnh gắt gao giữa các nhà sản xuất,
các nhà phân phối dẫn đến thất nghiệp tăng cao hoạt động phúc lợi xã hội bị
giảm sút.

3


Nền kinh tế thị trường do các nhà sản xuất hàng hoá dịch vụ chạy theo lợi
nhuận gây ra hậu quả về môi trường sinh thái làm giảm tốc độ tăng trưởng bền
vững của quốc gia.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường đem lại là các tệ nạn xã hội mới nảy sinh
cang ngày càng gia tăng.
Nền kinh tế thị trường với bản chất của nó là lợi nhận tối đa thì việc cần
định hướng cho các thành phần kinh tế là rất quan trọng, nếu không sẽ có nguy
cơ đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa đối lập với bản chất của nhà nước ta.
II. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của

Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.Vai trò của Nhà nước trong quốc phòng và trong việc sản xuất, tiêu
dùng các hàng hoá công cộng.
Quốc phòng là một ví dụ chứng tỏ vai trò tối quan trọng của Nhà nước.
Điều đó được quyết định bởi quốc phòng là một kiểu hàng hoá hoàn toàn khác
hẳn với các loại hàng hoá vật thể khác ở chỗ, người ta không trả tiền cho mỗi
đơn vị sử dụng mà mua nó như một tổng thể nhằm mục đích bảo vệ an ninh của
cả một quốc gia. Ở đây, bảo vệ cho một cá nhân không có nghĩa là giảm bảo vệ
cho người khác, bởi tất cả mọi người tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng một cách
đồng thời.
Các loại hàng hoá kiểu như vậy được gọi là hàng hoá công cộng, bởi không
một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán quốc phòng của toàn dân cho các công
dân riêng lẻ và coi đó là nghề kinh doanh thu lãi. Đơn giản là không thể có
chuyện dịch vụ quốc phòng lại được đem rao bán cho những người cần hoặc
không thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, cho những người từ chối chi trả kinh
phí cho quốc phòng. Hơn nữa, hàng hoá công cộng là thứ hàng hoá không thể
định giá chính xác được, cho nên tư nhân không thể cung cấp. Đấy là nguyên
nhân chính giải thích vì sao quốc phòng phải do Nhà nước điều hành và chi phí
cho quốc phòng phải được lấy từ nguồn tài chính công, từ ngân sách Nhà nước
có được thông qua thuế.
4


Hàng hoá công cộng có ba đặc tính: tính không kình địch trong tiêu dùng,
tính không loại trừ (nonexcluđability) và tính không thể không tiêu dùng mà tựu
trung lại, tất cả mọi người đều có nghĩa vụ và quyền lợi tiêu dùng hàng hoá công
cộng như nhau. Có nhiều ví dụ về hàng hoá công cộng, từ các biện pháp chống
lũ lụt cho đến việc phòng chống vũ khí nguyên tử, nhưng hai ví dụ có thể thấy rõ
vai trò của Nhà nước một cách trực tiếp và thường xuyên nhất, đó là xây dựng cơ
sở hạ tầng và ổn định kinh tế vĩ mô.

Thật vậy, một nền kinh tế không thể "cất cánh" được trừ phi nó có được một
cơ sở hạ tầng vững chắc. Nhưng cũng do tính không thể phân chia của hàng hoá
công cộng mà các tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây không có lợi. Vì thế, ở hầu
hết các nước, Nhà nước bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô
cũng có thể xem như là hàng hoá công cộng. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường
là sự bất ổn định do các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế rõ ràng là
điều mà mọi Nhà nước đều mong muốn và nó có lợi cho tất cả mọi người. Do
vậy, chính Nhà nước phải chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định đó trên tầm vĩ mô.
2. Vai trò của Nhà nước đối với các yếu tố ngoại vi.
Yếu tố ngoại vi là các ảnh hưởng tốt hay không tốt do các yếu tố bên ngoài
gây nên cho hoạt động của công ty hay cho xã hội nói chung. Yếu tố ngoại vi
xảy ra khi có sự khác biệt về phí tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Tuy
nhiên, các chi phí hoặc lợi ích này (chi phí ngoại vi hoặc lợi ích ngoại vi) lại
không được tính đến trong hệ thống giá cả và thị trường. Những chi phí ngoại vi
cho sản xuất bao gồm: sự tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường mà nhà
máy hoặc xí nghiệp sản xuất tạo ra... Những yếu tố này gây nên sự giảm sút về
phúc lợi của những người dân sống xung quanh hoặc có thể buộc những nhà máy
khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch nước sông đã bị ô nhiễm mà
mình phải sử dụng trong sản xuất. Vì phía thứ ba không được đền bù cho những
khoản chi phí ngoại vi, nên các phí tổn sản xuất không được tính đến trong hệ
thống giá. Trong nền kinh tế thị trường tự do, người ta chỉ mưu toan sử dụng tối
đa những phương tiện hay lợi nhuận riêng của mình, và nhưng chi phí hay lợi ích
ngoại vi sẽ không được phản ánh trong giá cả của các đồ vật. Ví dụ, trường hợp
5


một nhà máy có thể làm ra một loại sản phẩm rất rẻ nhưng lại làm ô nhiễm môi
trường, gây ra sự giảm sút về phúc lợi cho nhưng người khác. Và do vậy, vai trò
kinh tế của Nhà nước là điều chỉnh lại sự bất hợp lý này. Bằng sự can thiệp, Nhà
nước buộc tất cả những ai hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đều phải

trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ấy.
Tuy nhiên, Nhà nước không dễ dàng quyết định chính xác chi phí ấy là bao
nhiêu, vì không thể định lượng một cách chính xác tác hại mà sự ô nhiễm ấy có
thể gây ra cho xã hội. Vì những khó khăn này, Nhà nước cần phải đảm bảo chi
phí giảm ô nhiễm không được cao hơn so với chi phí mà ô nhiễm gây ra cho xã
hội. Nếu không các nguồn lực sẽ không được phân bố hiệu qua.
Nhà nước có thể sử đụng một hệ thống thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình
phạt, thậm chí cả mức truy tố để nhằm giảm ô nhiễm. Ngoài ra, Nhà nước còn sử
dụng cả chính sách quyền sở hữu công khai nguồn tài nguyên, người sử dụng
nguồn tài nguyên này nếu gây ô nhiễm sẽ phải chịu chi phí theo giá thị trường.
Các khoản thuế hay biện pháp trợ cấp tối ưu đều được coi là phương thức để Nhà
nước xứ lý những yếu tố ngoại vi. Do chỗ toàn bộ chi phí xã hội là cái quan
trọng quyết định sự phân bố tài nguyên một cách có hiệu quả, còn những chi phí
tư nhân quyết định giá hàng, cho nên vai trò của Nhà nước là tạo ra sự thăng
bằng giữa cá nhân và xã hội thông qua việc điều chỉnh sản xuất thừa hoặc tiêu
dùng thừa vào chi phí ngoại vi.
Trong các lợi ích ngoại vi, cần chú ý tới giáo dục bởi đây là lĩnh vực cần
phải có sự quan tâm và hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra, trong chừng mực một sán
phẩm nào đó có thể tạo ra được lợi ích ngoại vi, Nhà nước cần xem xét vấn đề
trợ cấp tối ưu để khuyến khích sản xuất, tiêu dùng loại sản phẩm này sao cho giá
trị đích thực các lợi ích ngoại vi được tính đến trong hệ thống giá thị trường. Ở
đây, sự can thiệp cửa Nhà nước là cần thiết, vì trong khi chi phí ngoại vi có thể
dẫn đến sản xuất thừa thì ngược lại, lợi ích ngoại vi lại có thể dẫn đến sản xuất
thiếu.

6


3. Vai trò của Nhà nước trong việc tạo dựng bộ khung xã hội và luật
pháp.

Để thực hiện đúng đắn chức năng phân phối của mình, nền kinh tế thị
trường đòi hỏi một loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống pháp lý để
chống lại bạo lực và gian lận bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở
hữu, những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với
ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp
tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt…
Thật vậy, trong các nền kinh tế thị trường không có gì bảo đảm để không
diễn ra bạo lực và gian lận. Đó là lý do tại sao Nhà nước cần phải có lưu trữ văn
bản, hồ sơ, chứng từ về đất đai, nhà ở, đảm bảo các hợp đồng mua bán tất cả các
loại sản phẩm. Cả người mua lẫn người bán đều muốn là khi cả hai phía đã đồng
ý trao đổi thì sự thoả thuận nhất định phải được thực hiện. Tình hình đó cũng
giống như đối với quan hệ giữa người chủ và người làm công. Người lao động đã
với tư cách cá nhân hay tập thể trong các tổ chức hiệp hội cũng đều có sự thoả
thuận nhất định về điều kiện làm việc, tiền lương với chủ sử dụng lao động. Nếu
như không có sự đảm bảo cho các thoả thuận ấy, nghĩa là không có sự thực thi
của luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó mà có thể thực hiện.
Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường cần phải thiết lập và bảo vệ
quyền sở hữu tư nhân, cung như quyền được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát
từ việc sử dụng quyền sở hữu đó. Nếu không có sự đảm bảo ấy, một số người sẽ
gặp phải những rủi ro nếu đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực
kinh doanh mà rốt cuộc, tiền lãi thu về lại có thể rơi vào Nhà nước hoặc các tập
đoàn khác.
Sự bảo hộ của Nhà nước đối với sở hữu tư nhân thể hiện một cách rõ ràng
đối với đất đai, nhà máy, công xưởng, kho chứa và các sản phẩm hữu hình khác.
Thế nhưng, sự bảo hộ đó còn được áp dụng cho cả các sở hữu liên quan tới trí
tuệ, chẳng hạn như sách, bài viết, phim ảnh, hội họa, phát minh, sáng chế, thiết
kế, bào chế thuốc hay chương trình phần mềm... Đây là một sự can thiệp rất quan

7



trọng của Nhà nước trong việc bảo vệ bản quyền tác giả và qua đó, khuyến khích
những hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, các nghệ sĩ, khuyến khích việc
phát huy khả năng trí tuệ của họ.
4. Vai trò của Nhà nước trong chính sách cạnh tranh.
Vai trò này thể hiện ở tập hợp những biện pháp của Nhà nước nhằm cổ vũ
cạnh tranh giữa các nhà cung ứng với nhau, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng
chống lại tình trạng độc quyền. Phạm vi của một chính sách như vậy bao gồm:
kiểm soát bằng các biện pháp điều tiết đối với những hãng có khả năng chi phối,
kiểm soát các vụ việc sát nhập công ty nhằm ngăn ngừa khả năng độc quyền hoá
các ngành công nghiệp, kiểm soát các hành vi chống cạnh tranh.
Nói tới độc quyền là nói tới thị trường chỉ có một người cung cấp. Thông
thường, trong các nền kinh tế thị trường, tình hình sẽ trở nên nan giải khi một
ngành công nghiệp bị chi phối bởi một số rất ít các Công ty lớn. Các công ty này
có thể cấu kết với nhau thành một tập đoàn hùng mạnh, áp đảo thị trường với
mức giá cao, nhằm thu nhiều lợi nhuận, đồng thời khống chế việc thâm nhập vào
thị trường của các Công ty nhỏ hơn đang cạnh tranh với họ. Để ngăn chặn tình
trạng cấu kết, độc quyền và để duy trì cạnh tranh lành mạnh một cách có hiệu
quả, hầu hết các nền kinh tế thị trường, kể cả Mỹ, đều thông qua đạo luật chống
độc quyền.
Song, thật đáng tiếc, nhiều khi sự kiểm soát của chính phủ và chính sách
chống độc quyền trên thực tế lại dẫn đến giảm cạnh tranh chứ không phải là
khuyến khích cạnh tranh. Các chính sách này bao gồm: giấy phép độc quyền sản
xuất một loại hàng hoá và dịch vụ nào đó, thuế, côta... Tất cả những cái đó đã
hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá và địch vụ từ nước ngoài. Do vậy, chính sách
của Nhà nước về vấn đề cạnh tranh không phải không có điều bất cập. Tuy
nhiên, các nhà kinh tế đều thừa nhận rằng, cái giá tiềm tàng cho phép các Công
ty lớn (hoặc một nhóm các Công ty cấu kết với nhau) giành được vị trí độc
quyền trong các ngành công nghiệp chủ chốt là rất cao. Giá đó đủ lớn đề thừa


8


nhận vai trò nhất định của Nhà nước trong việc điều tiết để duy trì cạnh tranh
thông qua một hệ thống đạo luật không ngừng được củng cố.
5. Vai trò của Nhà nước đối với vấn đề thu nhập và phúc lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng kiếm sống ở một số người là rất hạn
chế, trong khi đó, số khác lại có nguồn thu nhập rất lớn. Nguồn thu nhập đó có
thể do thừa hưởng gia tài, có thể do tài năng hoặc sự thành đạt trong kinh doanh
hay trong các quan hệ chính trị, xã hội... Do vậy, vai trò của Nhà nước là không
thể thiếu được trong việc phân phối lại thu nhập để trong chừng mực cho phép,
có thể thu hẹp lại khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Trên thực tế, các chính
phủ đều luôn thực hiện điều đó thông qua chính sách thuế, đặc biệt là thuế thu
nhập nhằm tạo ra sự công bằng hơn trong phân phối.
Ở đây có hai ý kiến trái ngược. Một là, ý kiến ủng hộ vai trò của Nhà nước
trong việc hạn chế sự tập trung tài sản và duy trì sự lan toả các năng lực kinh tế
giữa cá chủ sở hữu. Hai là, ý kiến ngược lại cho rằng, chương trình phân phối lại
của Nhà nước thông qua thuế thu nhập sẽ làm cho người lao động giảm động cơ
làm việc để tăng thu nhập, giảm tiết kiệm, giảm đầu tư và do đó sẽ gây nên tổn
hại lớn tới cả một nền kinh tế.
Tuy nhiên, ý kiến đầu tiên đã giành được nhiều sự ủng hộ hơn của xã hội.
Trong hầu hết các nền kinh tế thị trường, Nhà nước có vai trò rất quan trọng
trong việc nâng cao phúc lợi công cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như
việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… luôn là những
vấn đề rất cần đến sự quan tâm của Nhà nước. Rõ ràng, điều bàn cãi không còn
là ở chỗ Nhà nước có nên tạo ra quỹ phúc lợi hay không, có nên thực hiện phân
phối lại thông qua thuế thu nhập hay không... mà là mức độ thực hiện ra sao để
vẫn có thể khích lệ được mọi thành phần lao động trong việc tạo ra của cải và tiết
kiệm trong việc chi dùng những của cải ấy.
6. Vai trò của Nhà nước trong các chính sách tài chính và tiền tệ.


9


Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường đóng một vai trò rất lớn trong
việc tạo ra các điều kiện kinh tế để thị trường tư nhân có thể phát huy hết hiệu
quả hoạt động của mình.
Một trong các vai trò đó là tạo ra một thị trường tiền tệ ổn định, được chấp
nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống giao dịch cồng kềnh, kém hiệu quả
và đồng thời có khả năng duy trì giá trị tiền tệ thông qua các chính sách hạn chế
lạm phát.
Trong lịch sử, các nền kinh tế thị trường luôn rơi vào tình trạng bị đe doạ
bởi khi thì đồng tiền tăng giá đột ngột, khi thì nạn thất nghiệp tăng cao, khi thì
vừa có tình trạng thất nghiệp, vừa có tình trạng lạm phát. Mặc dù các giai đoạn
đó thường diễn ra nhẹ nhàng, kéo dài không lâu khoảng một năm hoặc ngắn hơn.
Tuy nhiên, lịch sử vẫn chưa quên thời kỳ trầm trọng của siêu lạm phát ở Đức
những năm 20, đặc biệt cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới những năm 30 của thế
kỷ XX, khi cả thế giới lâm vào tình trạng thất nghiệp.
Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách của
Nhà nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá
cả và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Trong những thời kỳ kinh tế suy giảm,
chính sách tài chính có tác dụng kích cầu và sản xuất bằng cách Chính phủ tăng
mua, giảm thuế, do đó tạo ra được một thu nhập quốc dân khả dụng lớn hơn để
đưa vào luồng tiêu đùng. Còn trong những thời kỳ kinh tế "quá nóng", chính phủ
làm ngược lại. Để cân bằng lại những biện pháp tài chính cố ý này, Nhà nước tạo
ra nhưng cái gọi là cơ chế ổn định, như thuế thu nhập luỹ tiến và phụ cấp thất
nghiệp. Chính sách tài chính được điều hành một cách độc lập với chính sách
tiền tệ là chính sách nhằm điều tiết hoạt động kinh tế bằng cách kiểm soát việc
cung ứng tiền.
Khi tăng chi tiêu vào thời điểm thất nghiệp cao và lạm phát thấp, Nhà nước

đã tăng cung ứng tiền, dẫn tới giảm lãi suất (tức giám giá đồng tiền), nhờ đó
ngân hàng mới có nhiều điều kiện cho vay và chi tiêu cho tiêu dùng được tăng
lên. Điều đó có nghĩa là kích cầu vì tiêu dùng là bộ phận cấu thành lớn nhất và

10


ổn định nhất của tổng cầu. Lãi suất thấp, đồng thời khuyến khích đầu tư, các chủ
doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, thuê thêm công nhân. Trong thời kỳ lạm
phát cao và thất nghiệp thấp thì ngược lại, Nhà nước “làm nguội" nền kinh tế
bằng cách tăng lãi suất, giảm cung ứng tiền. Cùng với việc giảm tiền và tăng lãi
suất, cả chỉ tiêu lẫn giá cả đều có xu hướng giảm hoặc ít nhất, nếu có tăng thì
cũng rất chậm, và kết quả là thu hẹp lại sản lượng và việc làm.
III. Khái quát vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.Bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không
phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là
sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong
thời đại ngày nay. Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật
phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế
thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
và Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu
tưng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một
kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử của kinh tế thị trường.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải
là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế

bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chư hoàn toàn là kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói,Việt Nam đang ở trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự
tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực
của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy sức sản xuất, xã hội hoá lao động, cải
tiến kĩ thuật – công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải,
11


góp phần làm giàu cho chủ nghĩa xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng
thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh
tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và
phân hoá giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội.
Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt
: Sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói các khác, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. phat triển lực lượng sản xuất hiện
đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
nhà nước cung với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, pháp luật, và băng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế
nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản suất, giải phóng
sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối theo
kết quả lao đông và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã
hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay

12


trong từng bước phát triển. Tăng trương kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và
giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bả sắc dân tộc, nâng
cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực của đất nước.
Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu
tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế
còn ở trình độ thấp sang nề kinh tế ở trình độ cao hơn hương tới chế độ xã hội
mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, được
định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuết tật của tính tự phát thị
trường, nhăm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền
vững của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niêm của Đảng cộng sản Việt Nam về sự phù
hợp giã quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong
thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không
phải đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang
nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải
chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều
kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau , cho phép các nước
này giảm thiểu những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ
nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những
khuyết điểm của hai cơ chế: Kế hoạch và thị trường .Nói cách khác, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt ,vừa tuân
theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa đảm bảo
tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất đặc trưng cơ bản này chi phối
và quyết định phương tiện , công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt
tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều

13


tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và phát triển rút ngắn trong khoảng thời gian không dài có thể khắc
phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Trước năm 1960, chính sách tài chính và tiền tệ không được áp dụng rộng
rãi để ổn định các chu kỳ kinh doanh. Ngày nay, trừ các trường hợp liên quan tới
thiên tai và thảm hoạ chiến tranh, các chính sách này đã trở thành giải pháp hữu
hiệu để khắc phục lạm phát và giải quyết việc làm. Những tác động của nó chưa
ro ràng khi cả lạm phát và thất nghiệp xảy ra đồng thời. Có một vài nguyên nhân
cho sự hạn chế này. Đó là khó xác định chính xác thời điểm của vấn đề cần giải
quyết để từ đó, đưa ra các biện pháp, chính sách hỗn hợp cho phù hợp. Ngoài ra,

thời gian chờ đợi các chính sách phát huy tác dụng không phải là ngày một ngày
hai. Điều thật tai hại là có khi đến lúc chính sách Nhà nước phát huy tác đụng thì
khó khăn ban đầu đã tự giải quyết xong và đang chuyển sang một hướng hoàn
toàn khác hẳn. Trong những trường hợp như thế, các chính sách ổn định kinh tế
vĩ mô tỏ ra không cần thiết và thậm chí có khi còn phản tác dụng
Khi cả thất nghiệp và lạm phát xảy ra đồng thời, chính phủ có thể rơi vào
tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Bởi vì, các chính sách tài chính và tiền tệ đều
điều chỉnh lại mức chi tiêu của cả một nền kinh tế quốc dân, nhưng lại không thể
đối phó với sự giảm đột ngột về cung - một nhân tố có thể đẩy nhanh cả lạm phát
lẫn thất nghiệp. Tình trạng này đã xảy ra vào những năm 70 của thế kỷ XX, khi
có lệnh đình chỉ xuất khẩu đầu của các nước sản xuất dầu, dẫn tới giá cả tăng
nhanh trong nền kinh tế các nước công nghiệp hoá. Như vậy, sự giảm cung sẽ
dẫn đến tình trạng giá cả tăng nhanh trong khi đó thì sản xuất và việc làm lại
giảm. Để đối phó với cú sốc cung này đối với nền kinh tế quốc dân, Nhà nước có
thể tăng cường các biện pháp khuyến khích sản xuất, tiết kiệm và đầu tư, tăng
hiệu quả cạnh tranh băng cách giảm sự độc quyền, khắc phục sự trì trệ và kìm
hãm của các nguồn lực quan trọng.

14


Như vậy, có thể nói, dẫu Nhà nước không thể cung cấp phương thuốc bách
bệnh trong cuộc đấu tranh muôn thuở với lạm phát và thất nghiệp trong các nền
kinh tế thị trường thì nó vẫn được coi là nhân tố tích cực trong việc điều hoà các
ảnh hưởng của chúng. Hầu hết các nhà kinh tế hiện nay đều thừa nhận tầm quan
trọng của Nhà nước trong cuộc đấu tranh chống lạm phát và thất nghiệp thông
qua các chính sách ồn định dài hạn.
Trong xã hội hiện đại, sự điều hành của Nhà nước đối với quá trình phát
triển kinh tế, khắc phục các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và mở rộng nền
dân chủ cũng chính là nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội. Đặc biệt

Nhà nước trong một nền dân chủ là công cụ có thể làm dịu đi phần lớn những tác
động tiêu cực của hệ thống thị trường, trong khi vẫn duy trì được quyền sở hữu
và quyền tự do. Nói cách khác, chính hệ thống chính trị dân chủ có thể đóng góp
hiệu quả nhất vào hoạt động của nền kinh tế thị trường. Và, cho dù Nhà nước là
tác nhân quan trọng, không thể thiếu được trong một nền kinh tế, song điều đó
không có nghĩa là Nhà nước có thể bao biện, làm thay cho tất cả các hoạt động
thị trường. Nhà nước chỉ nên chú trọng tới những lĩnh vực mà thị trường không
thể làm được, hoặc mức độ làm được không thể hoàn hảo bằng sự can thiệp của
Nhà nước. Những vấn đề được phân tích ở trên chính là những lĩnh vực mà Nhà
nước có thể phát huy đầy đủ nhất vai trò điều tiết của mình.
2. Sự cần thiết chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Do nhận thức còn đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, nên chúng ta đã thiết lập thể chế kinh tế kế hoạch và cơ chế vận
hành nền kinh tế là cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp. Mô hình kinh tế
và cơ chế đó có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế mệnh lệnh hành chính là chủ yếu
với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Do đó hoạt động của
các doanh nghiệp chủ yếu phải dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là quyết định của
cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, từ phương hướng sản, nguồn vật tư, địa chỉ
tiêu thụ sản phẩm, đến việc định giá, sắp xếp bộ máy.

15


Thứ hai, các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động
sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại do các
quyết định không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Hậu quả
do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng

quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói
buộc, vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì không bị rằng buộc
trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, trong cơ chế cũ quan hệ hàng hoá – tiền tệ bị coi thường, nhà nước
quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm,
quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hoạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh qua nhiều trung gian và kém năng động,
từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém nhưng phong cách thì cửa quyền quan liêu.
Mô hình kinh tế chỉ huy, mà điển hình là nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao
cấp…Với những đặc trưng nêu trên có những ưu đặc điểm là tập trung được
nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu, nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên kìm
hãm sự phát triển của khoa học – kĩ thuật. Mô hình kinh tế đó không có tiêu chẩn
khách quan đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế, bởi lẽ giá cả gần như không có
quan hệ gì với giá trị hàng hoá, cũng như là tương quan cung cầu, nên mọi sự
tính toán đều sai lệch, làm mất đi động lực của sự phát triển kinh tế, làm triệt tiêu
tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế, hình thành cơ chế kìm hãm sự
phát triển kinh tế – xã hội. Khi đó chủ yếu phát triển kinh tế theo bề rộng chứ
không phải chiều sâu.
Vì vậy, đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới
kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã
hội chủ nghĩa.
3. Tính tất yếu khách quan về vai trò kinh tế của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường.

16


Kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội không chỉ là một trong những đại
vấn đề, là điểm then chốt trong lí luận về chủ nghĩa xã hội mà còn có ý nghĩa

thực tiễn rất quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.Đại
hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định chủ trương phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là mô hình
kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Quan
đIểm này là kết qủa của một quá trình đổi mới tư duy, vận dụng lý luận, tổng kết
thực tiễn; là qúa trình tìm tòi, thử nghiểm trăn trở, đầu tranh tư tưởng – lý luận
trong đảng và ngoài xã hội. Thực tiển đã khẳng định và chứng minh đây là một
bước đột phá có tính sáng tạo và cách mạng trong tư duy lý luận của Đảng cộng
sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta biết, tư duy lý luận trước đây coi sản xuất hàng hoá và kinh tế thị
trường là đối lập tuyệt đối với chủ nghĩa xã hội như “nước đối với lửa”, chúng
không thể dung hợp. Theo tư duy đó, kinh tế thị trường đồng nhất với chủ nghĩa
tư bản ; còn kinh tế kế hoạch hoá tập trung được đồng nhất với chủ nghĩa xã hội
và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội cũng được coi là bắt nguồn từ đó .
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có hai đặc điểm
cơ bản :
Một là, đây là nền kinh tế thị trường mới bức đầu hình thành, còn sơ khai,
còn ở trình độ thấp, các loại thị trường chưa hình thành đầy đủ dồng bộ
Hai là, kinh tế thị trường mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa, nó khác
với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh đạo và nhà nước
xã hội chủ nghĩa quản lý.
4. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Vai trò quản lý của nhà nước có những bước chuyển biến lớn trong điều
kiện kinh tế thị trường, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị
trường.

17



Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách một nhiệm vụ
chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế
độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để xây
dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì công cụ, phương tiện
cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau khi nước ta trở thành
thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta tiếp tục
đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà
nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm
vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội
nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Hai là, các nguồn lực do Nhà nước quản lý được phân bổ theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phù hợp cơ chế thị trường.
Chính phủ có thể thông qua hệ thống luật pháp và thông qua sự lựa chọn
của mình để tác động đến sản xuất. Đồng thời, thông qua thuế và các khoản
chuyển nhượng để tác động đến khâu phân phối, từ đó tác động đến việc phân bổ
các nguồn lực của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Việt Nam trong những năm qua
cho thấy để phân bổ nguồn vốn hiệu quả thì khâu đột phá là giải quyết mối quan
hệ Nhà nước và thị trường. Cho dù sự phân bổ các nguồn lực thuộc về Nhà nước
thì cũng phải tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
Với chủ trương phát triển đồng bộ và vững chắc thị trường tài chính, Nhà
nước đã sử dụng nhiều biện pháp tăng cường quản lý thị trường vốn, đảm bảo thị
trường này vận hành thống suốt, công khai và hiệu quả; nâng cao tính thanh
khoản và tạo được những thay đổi căn bản về thể chế, cấu trúc thị trường để tạo
dựng nền tảng tài chính vững mạnh, đảm đương được vai trò phân bổ nguồn lực

xã hội hiệu quả, đồng thời đảm bảo ổn định tài chính để phát triển bền vững.

18


Ba là, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
Vai trò kinh tế của nhà nước là hướng tới mục tiêu chung, làm cho dân giàu,
nước mạnh, tăng trưởng ổn định và công bằng xã hội. Sự định hướng nền kinh
tế của nhà nước được thực hiện thông qua việc nhà nước xây dựng quy hoạch,
chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn. Mặt khác, nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi như: hệ thống luật
pháp đồng bộ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; hệ thống các văn bản
hướng dẫn, các định chế, các chính sách phát triển kinh tế …để các chủ thể kinh
tế giảm thiểu rủi ro, tranh chấp. Nhà nước đã xây dựng hệ thống pháp lý để
chống lại gian lận bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu,
những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân
hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt
được thực hiện một cách nghiêm ngặt.
Đồng thời, Nhà nước sử dụng công cụ chiến lược, kế hoạch, luật pháp và
chính sách làm căn cứ cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát, đánh giá đối với nền
kinh tế để điều tiết các hành vi ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, Nhà nước sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, cơ chế,
chính sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bên
cạnh sự phát triển tất yếu của xã hội xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo ngày càng
tăng. Do vậy, nhà nước cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội
nhằm hạn chế sự phân hoá này, làm lành mạnh xã hội. Nhà nước thực hiện phân

phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn
với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể
hiện rõ rệt nhất tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Về vấn đề thu nhập, Nhà nước sử dụng hai biện pháp là: Điều tiết tăng thu
nhập được thực hiện thông qua trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách

19


mạng; chính sách đối với người già, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người tàn
tật; điều tiết giảm thu nhập được thực hiện thông qua công cụ thuế: như thuế thu
nhập cá nhân; thuế thu nhập doanh nghiệp; mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng
thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập trong xã hội.
Về vấn đề an sinh xã hội, Nhà nước có vai trò quyết định trong việc nâng
cao phúc lợi công cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc làm, sức
khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… luôn là những vấn đề rất cần
đến sự quan tâm của Nhà nước.
5. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ
khai.
Cơ sở vật chất – kĩ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một
số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều
ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Lao động thủ công vẫn chiếm
tỷ trọng cao trong tổng số lao động xã hội. Do đó năng xuất, chất lượng, hiệu quả
sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới.
Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông
tin liên lạc … còn lạc hậu, kém phát. Hệ thống giao thông kém phát triển làm
cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm cho nhiều
tiềm năng của các địa phương không thể khai thác, các địa phương không thể
chyên môn hoá sản xuất để phát huy thế mạnh.

Do cơ sở vật chất kỹ thuật – còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao
động kém phát triển, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta
chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, cũng
như thị trường nước ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất – kĩ thật và công nghệ
lạc hậu, nên năng xuất lao động thấp, do đó khôi lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng
loại hàng hoá nghèo nàn, chất lượng hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế khả năng
cạnh tranh còn yếu.

20


Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng
chưa đồng bộ.
Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng
trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất.
Thị trường hàng hoá – dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn
nhiều hiện tượng tiêu cực
Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới
thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện
tượng khủng hoảng.
Thị trường tiền tệ thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều
trắc trở. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có nhiều “ hàng hoá”
để mua – bán và mới có rất it các doanh nghiệp đủ điều kiện tham ra thị trường
này.
Do vậy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn
tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến.
Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội
nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh
tế – kĩ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác. Toàn cầu hoá và

khu vực hóa về kinh tế dang đặt ra chung cho các nước cũng như ở nước ta nói
riêng những thách thức rất gay gắt.
6. Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế để tạo ra khuôn khổ
pháp lý thống nhất và đồng bộ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phát
huy cao nhất mặt tích cực và hạn chế tối đa những khuyết tật của kinh tế thị
trường. Hệ thống pháp luật này là công cụ chủ yếu để nhà nước quản lý nền kinh
tế .
Trong thời gian qua, nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều bộ luật, luật,
pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế.Tuy nhiên đến nay hệ thống pháp

21


luật kinh tế của Việt Nam còn thiếu và chưa đồng bộ, thường phải sửa đổi, bổ
sung và đIều chỉnh. Vì vậy, trước mắt phải tiếp tục khẩn trương hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh tế theo cương lĩnh, đường lối, chủ trương của đảng. Đồng
thời sửa đỏi, bổ sung các luật , pháp lệnh hiện hành và ban hành các luật mới phù
hợp với thực tiễn vận động nhanh chóng của nền kinh tế quốc dân (như luật cạnh
tranh , luật chống độc quyền, luật chứng khon và thị trường chứng khoán , luật
bảo hộ quyền sở hữu tự nhiên…). Cần cải tiến công tác làm luật, tăng cường vai
trò của Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu quốc hội chuyên trách
trong tiến trình xây dựng, đưa ra và phê chuẩn các dự án luật.
Hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố cấu thành thị trường chung bao gồm thị
trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường khoa học và công
nghệ , thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, thi trường bất

động sản.v.v…
Nhà nước tạo môi trường quản lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp
cạnh tranh và hợp tác để phát triển. Thông qua chiến lược, quy hoạch,kế hoạch,
chính sách phù hợp nhằm sử dụng hiệu quả lực lượng vật chất của nhà nước để
định hương phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo chủ động cân đối vĩ mô nền kinh
tế, đIều tiết phân phối và thu nhập.
Tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước theo qui định của pháp luật,
kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương
mại, tham nhũng…; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch,
hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Phân định rõ chức năng quản lý
hành chính nhà nước với chức năng quản lý sản suất, kinh doanh; từ đó, thực
hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng sở hữu tài sản
công của nhà nước.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với kinh tế
Đổi mới các công tác kế hoạch hoá theo hướng xuất phát và gắn chặt với thị
trường. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế

22


hoạch phát triển kinh tế – xã hội: Tăng cường công tác thông tin kinh tế, công tác
kế toán, thống kê .
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa thu và chi ngân sách. Bảo đảm tính minh
bạch, công bằng trong chi ngân sách nhà nước . Tiếp tục cải tạo hệ thống thuế
phù hợp với tình hình đất nước và cam kết quốc tế. Nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn và đầu tư vốn , chống lãng phí, thất thoát vốn. Gắn cải cách ngân hàng với
cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách hành chính: Trong những năm qua, Việt Nam đã tiến
hành một bước cải cách nền hành chính , nhưng phải thừa nhận rằng, “ cải cách
hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà

nước cồng kềnh, trùng lặp chức năng với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ
tục hành chính phiền hà , không ít trường hợp trên và dưới , trung ương và địa
phương hành động không thống nhất, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế –
xã hội và làm giảm động lực phát triển”.
Cải cách tổ chức bộ máy các cấp từ trung ương đến địa phương theo hướng
tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm.
Cải cách công cụ và chế độ công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ , công
chức trong sạch, tinh nhuệ.
Cải cách thủ tục hành chính theo hướng thống nhất, công khai, minh bạch,
đơn giản, kiên quyết xoá bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, sách nhiễu cho
nhân dân và các doanh nghiệp.
Tất cả nỗ lực đó nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước trong sạch,
vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả theo hướng xây dựng một nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam .
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
một công việc mới mẻ, đầy khó khăn, phức tạp, vì chưa có tiền lệ trong lịch sử.
Vì vậy trong quá trình này, Đảng cộng sản Việt Nam vừa làm vừa học, vừa tổng
kết thực tiễn vừa tham khảo kinh nghiệm của các đồng chí Trung Quốc, không

23


ngừng đổi mới tư duy, nâng cao trình độ tổ chức thực tiễn, kiên quyết đưa sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đi đến thành công.
C. KẾT LUẬN.
Nhà nước có vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và
tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa
người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát

triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và
năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm
nhiệm là điều kiện tiên quyết để hình thành sự đồng thuận đó. Việc tăng cường
quản lý vĩ mô sẽ nâng cao hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế

24


MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ…………………………………………………………2
B. NỘI DUNG CHÍNH……………………………………………………2
I. Khái quát về nền kinh tế thị trường……………..………………………2
1. Khái niệm và đặc điểm………………………………………………….2
2. Ưu và nhược điểm của nền kinh tế thị trường…………………………..3
II. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước định hướng xã hội chủ nghĩa………………………………………………4
1.Vai trò của Nhà nước trong quốc phòng và trong việc sản xuất, tiêu dùng
các hàng hoá công cộng…………………………………………………………4
2. Vai trò của Nhà nước đối với các yếu tố ngoại vi………………………5
3. Vai trò của Nhà nước trong việc tạo dựng bộ khung xã hội và luật pháp..7
4. Vai trò của Nhà nước trong chính sách cạnh tranh………………………8
5. Vai trò của Nhà nước đối với vấn đề thu nhập và phúc lợi………………9
6. Vai trò của Nhà nước trong các chính sách tài chính và tiền tệ………….9
III. Khái quát vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam…………………….11
1.Bản chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam……………………………………………………………….11
2. Sự cần thiết chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã

hội chủ nghĩa Việt Nam………………………………………………………..15
3. Tính tất yếu khách quan về vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường……………………………………………………………………….16
4. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam……………………………………………………………….17
5. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta……………………………20

25


×