Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Kháng nghị giám đốc thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.27 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG QUANG TOÀN

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG QUANG TOÀN

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS ĐẶNG QUANG PHƯƠNG

Hà Nội, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Đặng Quang Phương.
Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đều đảm bảo độ tin cậy, trung thực và
chính xác. Các kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Với lời cam đoan này, tôi kính mong Giám đốc Học viện Khoa học
xã hội và Hội đồng chấm luận văn cho phép tôi bảo vệ luận văn.
Trân trọng cám ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lương Quang Toàn


MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

MỞ ĐẦU...........................................................................................

1

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự
về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm...................................

7

1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm...................................................................................................


7

1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.......................................................

18

Chương 2: Thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.....................................

37

2.1. Tổng quan thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng..........................................

37

2.2. Những vi phạm, sai lầm trong kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và nguyên nhân

49

Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm........................................

59

3.1. Các yêu cầu cần nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm...................................................................................


59

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm...................................................................................

65

KẾT LUẬN......................................................................................

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật Hình sự.

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự.

BLDS:

Bộ luật Dân sự.

BLTTDS:


Bộ luật Tố tụng dân sự.

ĐCS:

Đảng Cộng sản.

HLPL:

Hiệu lực pháp luật.

TCTAND:

Tổ chức Tòa án nhân dân.

TAND:

Tòa án nhân dân.

TANDCC:

Tòa án nhân dân cấp cao.

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao.

TAQS:

Tòa án quân sự.


TNHS:

Trách nhiệm hình sự.

TTHS:

Tố tụng hình sự.

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân.

VKSNDCC: Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
VKSQS:

Viện kiểm sát quân sự.

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa.


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG

Trang

Bảng 2.1: Bảng kết quả xử lý đơn đề nghị, văn bản đề nghị giám
đốc thẩm đối với các vụ án hình sự tại TANDCC tại Đà Nẵng........


38

Bảng 2.2: Kết quả giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm tại
TANDCC tại Đà Nẵng......................................................................

39

Bảng 2.3. Bảng số liệu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
TANDCC tại Đà Nẵng phải giải quyết từ 2016-2019......................

40

Bảng 2.4. Tỷ lệ quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
của Chánh án Tòa án các cấp và Viện trưởng VKS được UBTP
TANDCC tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm từ 2016 - 2019........

47

Bảng 2.5: Kết quả giải quyết, xét xử các vụ án hình sự của các
Tòa án thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ của TANDCC tại Đà
Nẵng...................................................................................................

50


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tính chất: “Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp

luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” [46, Đ370], cho thấy kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là một hoạt động để kiểm tra lại tính hợp
pháp, tính đúng đắn của bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL, để
từ đó Tòa án cấp trên kịp thời sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng
pháp luật của Tòa án cấp dưới, hướng dẫn Tòa án cấp dưới khắc phục những
sai lầm, thiếu sót, đồng thời thống nhất việc áp dụng pháp luật. Do vậy có thể
nói kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS có vai trò, ý nghĩa hết
sức quan trọng nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định
của pháp luật, đảm bảo pháp chế XHCN. Cũng thông qua quá trình hoạt động
thực tiễn trong thời gian qua đã cho thấy công tác kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể, song vẫn còn
nhiều hạn chế như: chất lượng kháng nghị chưa cao, điều này thể hiện ở một
số bản kháng nghị không nêu được căn cứ kháng nghị, dẫn đến phải rút kháng
nghị hoặc bị Hội đồng giám đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị; nhiều
trường hợp phát hiện căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chưa kịp
thời nên bị quá thời hạn kháng nghị hoặc khi quyết định kháng nghị thì người
bị kết án đã chấp hành xong bản án, quyết định; việc kiểm tra bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, cũng như việc giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị
giám đốc thẩm chưa triệt để nên số lượng vụ án có quyết định kháng nghị
giám đốc thẩm còn có phần hạn chế,... Một trong những nguyên nhân của tình
trạng trên là do còn có những quy định của BLTTHS liên quan đến kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chưa thật sự phù hợp, chưa cụ thể và rõ ràng,
như các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm; đối tượng kháng nghị;

1


thời hạn kháng nghị; bổ sung kháng nghị, rút kháng nghị; hệ quả của kháng
nghị nhưng lại chưa có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền, nên trong
quá trình áp dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là sau khi

BLTTHS năm 2015 được ban hành. Bên cạnh đó còn phải kể đến một số
nguyên nhân như: trình độ, năng lực của một số cán bộ làm công tác giám
đốc thẩm có phần hạn chế; chế độ đãi ngộ, trang thiết bị, cơ sở vật chất đối
với họ còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cũng làm ảnh hưởng đến
chất lượng của hoạt động kháng nghị nói trên.
Kể từ ngày được thành lập cho đến nay, TANDCC tại Đà Nẵng đã làm
tốt chức năng, nhiệm vụ của mình được quy định tại Điều 29 Luật TCTAND,
trong đó có công tác giám đốc thẩm các loại vụ án, đặc biệt là các vụ án hình
sự. Thông qua hoạt động giám đốc thẩm đối với các vụ án hình sự do các
TAND thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm,
đã có hiệu lực pháp luật, cho thấy các hoạt động TTHS được tiến hành ngày
một minh bạch hơn, khách quan hơn, quyền và lợi ích chính đáng của những
người tham gia tố tụng được đảm bảo hơn, xu thế mở rộng và đề cao tranh tụng
tiếp tục được khẳng định. Tuy vậy, qua thực tiễn hoạt động TTHS cho thấy vẫn
còn một số bản án, quyết định của Tòa án sau khi có hiệu lực pháp luật mới
phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, vi phạm
nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc kết luận của bản án, quyết định không
phù hợp với những tình tiết khách qua của vụ án, đã làm thay đổi cơ bản nội
dung bản án, quyết định đó, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng, nên phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài: “Kháng nghị giám đốc
thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng” làm luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS về
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã được sự quan tâm của nhiều nhà

nghiên cứu dưới các góc độ là các đề tài nghiên cứu cấp bộ, luận án, luận
văn, bình luận khoa học, sách chuyên khảo… Trong phạm vi khả năng của
mình, học viên đã nghiên cứu và tìm hiểu một số công trình nghiên cứu trong
quá trình thực hiện đề tài luận văn như sau:
- Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục giám đốc thẩm cần
phải kể đến như: Đề tài khoa học cấp Bộ của TANDTC: “Nâng cao hiệu quả
công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự”, do ThS. Đinh Văn Quế chủ
biên, năm 2005 [35]; Luận văn Thạc sĩ: “Nguyên tắc giám đốc việc xét xử
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Dương Thị Ánh, năm 2015
[2]; Luận văn Thạc sĩ: “Giám đốc thẩm: một số vấn đề lý luận và thực tiễn ”,
của tác giả Quản Thị Ngọc Thảo, năm 2007 [64]; sách chuyên khảo: “Giám
đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, của tác
giả Đinh Văn Quế, năm 1997 [32].
- Các công trình chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp, liên quan một phần đến
quy định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã được công bố trên các
tạp chí chuyên ngành như: Bài viết:“Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu
hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án
các cấp” của tác giả Nguyễn Văn Hiện, Tạp chí TAND, số 3 năm 1997 [19];
bài viết: “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm” của tác giả Nguyễn Quang
Hiền, Tạp chí TAND, số 7 năm 2009 [17]; bài viết: “Thực trạng thi hành quy
định của BLTTHS về phạm vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn
thiện” của tác giả Nguyễn Văn Trượng, Tạp chí TAND, số 7 năm 2011 [69].
- Các công trình có phạm vi nghiên cứu liên quan đến đề tài như: Luận
văn Thạc sĩ: “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

3


từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng”, của tác giả Nguyễn
Thành An, Học viện khoa học xã hội, năm 2018 [1]; Luận văn Thạc sĩ:

“Kháng nghị giám đốc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, của tác giả Trần Minh Tú, Học viện khoa học xã hội,
năm 2018 [71]; Luận văn Thạc sĩ: “Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Như Thắng, Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014 [65]; Bài viết: “Căn cứ để kháng nghị
giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, của tác giả Nguyễn
Trung Kiên, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 07 năm 2019 [26], ...
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá đối với thực
tiễn công tác giám đốc thẩm nói chung và công tác kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm nói riêng tại TANDCC tại Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam, nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thực tiễn thi hành tại TANDCC
tại Đà Nẵng. Từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, luận văn sẽ tập trung giải
quyết các nhiệm vụ:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
vụ án hình sự về khái niệm, ý nghĩa, căn cứ, thời hạn, trình tự, thủ tục,...; phân
tích, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm.

4


Hai là, đánh giá toàn diện thực trạng kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm vụ án hình sự của TANDCC tại Đà Nẵng trong thời gian từ tháng năm
2016 đến năm 2019, từ đó rút ra những kết quả đạt được, những vi phạm, sai
lầm trong việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự cũng như
việc áp dụng quy định này trên thực tế tại TANDCC tại Đà Nẵng hiện nay.
Ba là, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm vụ án hình sự đối với TANDCC tại Đà Nẵng trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận, các quy định về kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
và thực tiễn thi hành tại TANDCC tại Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề về lý luận và hoạt động áp dụng
pháp luật quy định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự
tại TANDCC tại Đà Nẵng đối với các TAND thuộc phạm vi thẩm quyền theo
lãnh thổ trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của
Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân và các quan điểm chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn có sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, điều tra
xã hội học... Ngoài ra, học viên còn tham khảo ý kiến chuyên gia, cán bộ trực

5


tiếp làm công tác giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng và nghiên cứu

tiểu hồ sơ, hồ sơ vụ án được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn
thiện lý luận khoa học về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hình sự
trong khoa học luật TTHS Việt Nam như: làm rõ khái niệm kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm; làm sáng tỏ các quy định của BLTTHS về căn cứ
kháng nghị, thời hạn, trình tự... của kháng nghị theo thủ giám đốc thẩm, có so
sánh với kháng nghị theo thủ tục tái thẩm; phân tích thực tiễn công tác kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để đánh giá. Qua đó chỉ ra những bất cập
trong các quy định của pháp luật hiện hành; những hạn chế, vướng mắc trong
quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như chỉ ra nguyên nhân của những vi
phạm, sai lầm và hạn chế để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, phục vụ
hoạt động nghiên cứu và học tập. Kết quả của đề tài có thể được vận dụng
trong thực tiễn công tác giám đốc thẩm các vụ án hình sự tại TANDCC tại Đà
Nẵng nói riêng và trong hệ thống TAND nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục cùng Danh mục tài liệu tham
khảo thì nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Chương 2. Thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
Chương 3. Các yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng kháng
nghị giám theo thủ tục đốc thẩm.

6



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VỀ KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm
1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm
1.1.1.1. Khái niệm kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 27 BLTTHS năm 2015 đều
quy định: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo”. Đó là nguyên
tắc “hai cấp xét xử” trong xét xử các loại vụ án nói chung và xét xử án hình
sự nói riêng. Quy định này mang tính ưu việt của chính sách pháp luật hình sự
của nước ta và là một bảo đảm pháp lý rất cần thiết trong công tác xét xử của
các Tòa án, để việc xét xử của hệ thống Tòa án được chính xác và đúng đắn
hơn. Thông qua hai cấp xét xử, những nội dung trong vụ án sẽ thêm một lần
nữa được đưa ra xem xét, phân tích, đánh giá kỹ càng và đầy đủ hơn, từ đó
các phán quyết của Tòa án đảm bảo tính công minh, đúng pháp luật. Tuy
nhiên, trong thực tế không phải mọi phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp
luật đều đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng đắn với quy định của pháp
luật. Vì vậy, BLTTHS có những quy định về xét lại bản án và quyết định đã
có hiệu lực pháp luật, trong đó có thủ tục giám đốc thẩm.
Giám đốc thẩm là một thủ tục tố tụng đặc biệt, “là xét lại bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có
vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” [46, Đ370].
Theo đó, để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm thì trước hết phải có
kháng nghị của người có thẩm quyền, được ban hành theo trình tự, thủ tục
nhất định và có nội dung theo quy định của BLTTHS. Đây là một văn bản tố

7



tụng mang tính chất pháp lý, là cơ sở để xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc
thẩm.
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Nhà xuất bản Thanh Niên xuất bản năm
2005 do Nguyễn Văn Xô làm chủ biên thì: “Kháng nghị là bày tỏ ý kiến để
phản đối một việc gì” [74, tr345]. Trong liệt kê của tác giả có ví dụ “Bản
kháng nghị”. Như vậy, kháng nghị ở đây được hiểu là ý kiến phản đối một
việc gì đó nhưng được thể hiện bằng văn bản.
Cũng đề cập đến khái niệm kháng nghị, nhưng tác giả Nguyễn Duy
Lãm đã đưa ra khái niệm kháng nghị trong “Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông
dụng”, do Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 1996 như sau: “Kháng nghị
là việc người có thẩm quyền bằng văn bản của mình gửi đến Tòa án cấp có thẩm
quyền làm ngừng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án hoặc quyết định
để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ
án được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật” [27, tr.192]. Tuy

nhiên, theo chúng tôi thì khái niệm này chưa hoàn toàn chính xác, bởi theo
quy định của pháp luật về TTHS thì kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
không mặc nhiên làm ngừng hiệu lực pháp luật của bản án hoặc quyết định,
trừ khi người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ra quyết định tạm
đình chỉ thi hành đối với bản án, quyết định bị kháng nghị.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Như Thắng cũng đã đưa ra
khái niệm về kháng nghị như sau: “Kháng nghị trong TTHS là hoạt động tố
tụng của người có thẩm quyền, thể hiện bằng văn bản bày tỏ sự phản đối, bản
án, quyết định của Tòa án và đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản
án, quyết định đó, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định
của pháp luật” [65, tr.12]. Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với khái niệm về
kháng nghị này, vì tác giả đã gắn kháng nghị với hoạt động tố tụng, thể hiện

8



đầy đủ nội hàm của khái niệm và đúng với thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm
và cả tái thẩm.
Đối với khái niệm về giám đốc thẩm, vẫn còn có nhiều quan điểm khác
nhau trong các nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn áp dụng
pháp luật. Có quan điểm cho rằng: “Giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt
để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị
người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong
việc xử lý vụ án” [65, Tr10]; có quan điểm lại cho rằng: “Giám đốc thẩm là
hình thức đặc thù để kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của các quyết định,
bản án của Tòa án” [72]; hoặc có quan điểm cho rằng: “Giám đốc thẩm là
một giai đoạn TTHS, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản
án đã có HLPL về vụ án đó bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
trong việc xử lý vụ án, nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo
đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật..”. [68]; hay: “Giám đốc thẩm là
một thủ tục đặc biệt được áp dụng để phát hiện và khắc phục bản án, quyết
định giải quyết vụ án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm
nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết” [71, tr.6].
Nhìn chung, các quan điểm này đều cho rằng giám đốc thẩm là việc xét lại
bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng có quan điểm thì cho rằng
giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, quan điểm khác thì cho rằng đó là một
thủ tục tố tụng.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật về tố tụng hình sự trong BLTTHS, học viên cho rằng “Giám đốc
thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”.
Trong khi đó, theo khoản 2 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 và khoản 2


9


Điều 21 Luật TCTAND năm 2014 thì giám đốc việc xét xử của các Tòa án
khác là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của TANDTC. BLTTHS năm
2015 đã bỏ quy định “Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp
dưới” [46, Đ21] mà BLTTHS năm 2003 đã quy định. Như vậy có nghĩa rằng
hoạt động giám đốc việc xét xử chỉ do TANDTC thực hiện, nhằm kiểm tra
tính đúng đắn về hoạt động xét xử của các Tòa án. Thông qua hoạt động giám
đốc việc xét xử, TANDTC có thể phát hiện những vi phạm, sai lầm trong hoạt
động xét xử để kịp thời nhắc nhở, rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục;
tổng kết kinh nghiệm xét xử để hướng dẫn áp dụng pháp luật một cách thống
nhất và phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại
theo thủ tục giám đốc thẩm để thông báo cho người có thẩm quyền kháng
nghị. Theo nghĩa này, hoạt động giám đốc việc xét xử là hoạt động mang tính
hành chính hơn là hoạt động tố tụng cụ thể; còn giám đốc thẩm là một hoạt
động tố tụng có tính chất “thủ tục tố tụng đặc biệt”. Khác với BLTTHS 2003,
giám đốc việc xét xử được quy định là một nguyên tắc cơ bản thì BLTTHS
2015 lại không quy định nguyên tắc này.
Thực tiễn thi hành BLTTHS, để giám đốc thẩm một vụ án hình sự thì
cần có nhiều hoạt động tố tụng như: phát hiện bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị; xét xử
giám đốc thẩm,… Trong các hoạt động này thì hoạt động kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm là quan trọng nhất, vì không có hoạt động này thì thủ tục
giám đốc thẩm không diễn ra.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Trần Minh Tú đã đưa ra khái niệm
về kháng nghị giám đốc thẩm: “Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình
sự là việc người có thẩm quyền ban hành một văn bản tố tụng can thiệp trực
tiếp vào một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực


10


pháp luật do có sai lầm nghiêm trọng trong quá trình xử lý vụ án. Kháng nghị
giám đốc thẩm làm phát sinh việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm có thể
dẫn đến sự thay đổi hoặc chấm dứt hiệu lực pháp luật của một phần hay toàn
bộ bản án, quyết định bị kháng nghị” [71, tr.9]. Còn tác giả Đinh Văn Quế
cho rằng: “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quyết định của người có
thẩm quyền đối với một phần hoặc toàn bộ bản án hay quyết định đã có HLPL
để Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm” [37].

Như vậy, các quan điểm đều cho rằng kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền được quy định trong
BLTTHS để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật khi có căn cứ cho rằng bản án, quyết định có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Người có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được pháp luật tố tụng giới hạn
là những chủ thể nhất định. Bên cạnh đó, BLTTHS cũng quy định các dấu
hiệu đặc trưng của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như căn cứ, thời
hạn, trình tự…
Từ các luận điểm trên, học viên cho rằng: Kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm trong tố tụng hình sự là hoạt động của người có thẩm quyền được
quy định trong BLTTHS, bằng một văn bản tố tụng nêu rõ lý do và mục đích,
đề nghị Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong một số trường hợp
sẽ làm phát sinh việc tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định và việc xét lại
theo thủ tục giám đốc thẩm, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy
định của pháp luật.

1.1.1.2. Ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

11


Trong hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm thể hiện tính ưu việt của chính sách pháp luật hình sự Việt
Nam. Đây được coi là một “công cụ” hữu hiệu nhằm khắc phục, sửa chữa
những sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để
đảm bảo tính đúng đắn, hợp pháp của các bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng, đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động tố tụng hình sự, làm cho công tác áp dụng pháp luật nói chung và áp
dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án hình sự nói riêng
ngày càng thống nhất.
Thông qua công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, các nguyên
tắc cơ bản của BLTTHS được bảo đảm thực hiện, góp phần bảo đảm công
bằng xã hội, là một kênh thông tin quan trọng để nhân dân giám sát hoạt động
xét xử của Tòa án. Thông qua đó, các nguyên nhân dẫn đến vi phạm trong bản
án, quyết định như quy định của pháp luật còn chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc còn
có bất cập, khó khăn khi áp dụng trong thực tiễn dẫn đến nhận thức khác nhau
của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng,... được tập hợp
để từ đó có những đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, hoàn thiện
hoặc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
1.1.2. Trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Trình tự là sự sắp xếp theo thứ tự trước, sau, hay là thứ tự diễn ra từ
đầu đến cuối. Trong một hoạt động nhất định thì trình tự là các bước tiến hành
những công việc theo thứ tự trước, sau để đạt được một mục tiêu cụ thể. Để
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với một vụ án hình sự cụ thể cũng
cần phải theo một trình tự nhất định, theo quy định của BLTTHS. Cụ thể:

Một là: Phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Theo đó, người bị

12


kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật
trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo
cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Bên cạnh
đó, đối với Tòa án, VKS, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình, khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định đã có
HLPL thì thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị biết để xem xét,
quyết định có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay không.
Hai là: Thông báo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi
phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Việc thông báo được thực
hiện sau khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm
nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Khi đó, người bị kết án, cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thể lựa chọn hình thức thông báo hoặc là bằng văn bản hoặc
là trình bày trực tiếp; và có thể thông báo với người có thẩm quyền kháng
nghị hoặc với Tòa án, VKS nơi gần nhất. Quá trình thông báo, người thông
báo có thể cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) để chứng minh nội
dung thông báo của mình. Nếu việc thông báo bằng văn bản thì cần nêu đầy
đủ nội dung: ngày, tháng năm thông báo; tên, địa chỉ cơ quan, tổ chức, cá
nhân thông báo; bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi
phạm pháp luật cần được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; nội dung của
vi phạm pháp luật được phát hiện và kiến nghị đối với người có thẩm quyền
xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Văn bản thông báo của cá
nhân thì phải được ký tên hoặc điểm chỉ; văn bản của cơ quan, tổ chức thì
người đại diện theo pháp luật phải ký tên và đóng dấu. Đối với việc thông báo
bằng trình bày trực tiếp thì Tòa án, Viện kiểm sát phải lập biên bản.

Ba là: Tiếp nhận thông báo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Việc này được thực
hiện bởi Tòa án, Viện kiểm sát. Theo đó, khi nhận được thông báo, kể cả

13


bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp, thì Tòa án, Viện kiểm sát phải vào sổ
nhận thông báo; sau đó gửi ngay thông báo (văn bản hoặc biên bản nếu trình
bày trực tiếp) cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, đồng thời thông báo bằng văn bản cho người phát hiện bản án, quyết
định có vi phạm được biết.
Bốn là: Chuyển hồ sơ vụ án có bản án, quyết định được thông báo có
vi phạm. Sau khi tiếp nhận thông báo bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật có vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án, Viện kiểm
sát có thẩm quyền nếu xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để giải
quyết theo thủ tục giám đốc thẩm thì yêu cầu Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ
án chuyển hồ sơ để nghiên cứu. Việc yêu cầu này được thể hiện bằng văn bản
và trong thực tiễn thường là quyết định rút hồ sơ vụ án. Trong thời hạn 07
ngày, Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án phải chuyển hồ sơ cho cơ quan có yêu
cầu. Trường hợp cả Tòa án và VKS cùng yêu cầu thì Tòa án quản lý hồ sơ
chuyển cho cơ quan có yêu cầu trước và thông báo cho cơ quan yêu cầu sau.
Năm là: Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau khi xem xét, nếu
xét thấy có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, người có thẩm
quyền kháng nghị ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm và trong
trường hợp cần thiết thì ban hành quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án,
quyết định bị kháng nghị; đồng thời gửi các quyết định đến cá nhân, cơ quan,
tổ chức có liên quan ngay sau khi được ban hành.
1.1.3. Phân biệt kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm

Trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam, cùng tính chất là thủ tục xét
lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, ngoài thủ tục giám
đốc thẩm còn có thủ tục tái thẩm. Khác với xét lại bản án, quyết định Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp

14


luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án là thủ tục giám đốc thẩm, thì
việc xét lại bản án, quyết định Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng
nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung
của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định
đó chính là thủ tục tái thẩm. Do đó, kháng nghị theo hai thủ tục này cũng có
những điểm khác nhau về căn cứ để kháng nghị, về chủ thể kháng nghị, về
trình tự kháng nghị.
1.1.3.1. Về căn cứ để kháng nghị
Các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm đều được quy định trong BLTTHS năm 2015. Khi có
một trong những căn cứ được liệt kê thì người có thẩm quyền kháng nghị có
quyền ban hành quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc quyết
định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Trong đó:
- Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có 03 căn cứ. Theo
đó tại Điều 371 BLTTHS năm 2015 quy định gồm: “Kết luận trong bản án,
quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ
án; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử
dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; Có sai lầm nghiêm
trọng trong việc áp dụng pháp luật”. [46, Đ371].
- Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có 04 căn cứ. Theo đó tại
Điều 371 BLTTHS năm 2015 quy định gồm: “Có căn cứ chứng minh lời khai
của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch

của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng
sự thật; Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do
không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án; Vật
chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố

15


tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo
hoặc không đúng sự thật; Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ
án” [46, Đ398].
1.1.3.2. Về chủ thể kháng nghị
Chủ thể kháng nghị là người có thẩm quyền kháng nghị. Đây là những
chủ thể nhất định được quy định bởi pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định
của BLTTHS năm 2015, những người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm bao gồm: Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC,
Chánh án TAQS trung ương, Viện trưởng VKSQS trung ương, Chánh án
TANDCC, Viện trưởng VKSNDCC; còn người có thẩm quyền kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm chỉ bao gồm: Viện trưởng VKSNDTC, Viện trưởng
VKSQS Trung ương và Viện trưởng VKSNDCC. Như vậy, giới hạn chủ thể
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hẹp hơn chủ thể kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm.
Cụ thể theo Điều 373 BLTTHS năm 2015, chủ thể kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm: Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của TANDCC hoặc bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC; Chánh án TAQS trung ương, Viện trưởng VKSQS trung ương có

quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của TAQS cấp quân khu, TAQS khu vực; Chánh án TANDCC,
Viện trưởng VKSNDCC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện
trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Theo Điều 400 BLTTHS năm 2015
thì chủ thể kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: Viện trưởng VKSNDTC có

16


quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC; Viện trưởng VKSQS trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp
quân khu, khu vực; Viện trưởng VKSND có quyền kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh,
cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ [46].
1.1.3.3. Về trình tự kháng nghị
Trình tự kháng nghị theo thủ tục tái thẩm về cơ bản cũng bao gồm các
bước như trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã đề cập cụ thể ở
tiểu mục 1.1.2 nêu trên. Tuy nhiên, do quy định giới hạn chủ thể có quyền
quyết định kháng nghị tái thẩm nên trình tự cũng có sự khác biệt nhất định.
Bên cạnh đó là việc quy định bổ sung trong trình tự kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm là thủ tục xác minh tình tiết mới. Theo đó, trình tự kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm bao gồm: (1) Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực có tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án,
quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó. Chủ thể
phát hiện là người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân, hay nói cách
khác là mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền phát hiện tình tiết mới để đề nghị
xem xét lại vụ án theo thủ tục tái thẩm. (2) Người phát hiện bản án, quyết

định có tình tiết mới thông báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Trong trường
hợp Tòa án nhận được thông báo hoặc tự mình phát hiện ra tình tiết mới của
vụ án thì phải thông báo bằng văn bản cho Viện trưởng VKS có thẩm quyền
kháng nghị. (3) Tiếp nhận thông báo việc phát hiện bản án, quyết định có tình
tiết mới. Thủ tục này không được quy định chi tiết trong BLTTHS năm 2015
nên được thực hiện như đối với trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm theo quy định theo Điều 403 BLTTHS năm 2015. (4) Sau khi tiếp nhận

17


thông báo việc phát hiện bản án, quyết định có tình tiết mới, Viện trưởng
VKS có thẩm quyền quyết định kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh
các tình tiết mới đã được thông báo. Ở thủ tục này, VKS có thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm nếu xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ
vụ án để giải quyết thì yêu cầu Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án chuyển hồ sơ
để nghiên cứu, việc chuyển hồ sơ vụ án cũng được thực hiện tương tự như
trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong quá trình VKS xác
minh những tình tiết mới của vụ án, nếu xét thấy cần thiết có quyền yêu cầu
Cơ quan điều tra có thẩm quyền xác minh và chuyển kết quả xác minh cho
mình. (5) Khi có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, Viện trưởng
VKS có thẩm quyền ban hành quyết định kháng nghị tái thẩm. Quyết định
này phải được gửi đến cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan ngay sau khi
được ban hành.
1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm
1.2.1. Quy định về căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm
Căn cứ này được quy định cụ thể tại Điều 371 BLTTHS năm 2015.
Theo đó, các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án có thể bị kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ sau:
“1. Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp
với những tình tiết khách quan của vụ án;
2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố,
xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;
3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật”. [46].
So với BLTTHS năm 2003, quy định của BLTTHS năm 2015 đã được
bỏ bớt một căn cứ, đó là: “Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc

18


không đầy đủ” [45, Đ273]. Chúng tôi cho rằng việc bỏ căn cứ này là hợp lý,
bởi nếu việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ thì sẽ
dẫn đến kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án.
Để làm rõ hơn về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các căn cứ
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, chúng tôi xin được đánh giá, phân
tích như sau:
Thứ nhất: Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp
với những tình tiết khách quan của vụ án.
Tình tiết khách quan của vụ án là những tình tiết có thật xảy ra trong vụ
án, được những người tiến hành tố tụng thu thập, chứng minh trong quá trình
giải quyết vụ án, có trong hồ sơ vụ án, được Tòa án thẩm tra công khai tại
phiên tòa. Các tình tiết này trong thực tiễn được diễn giải ở phần nội dung
trong bản án. Còn kết luận trong bản án, quyết định là những quan điểm, nhận
định, đánh giá của Tòa án về nội dung vụ án, các tình tiết liên quan, các
chứng cứ, tài liệu để chứng minh tội phạm và quyết định về tội danh, hình
phạt, án phí, bồi thường thiệt hại,… Các kết luận thể hiện sự hiểu biết, ý chí,
nhận thức chủ quan của Hội đồng xét xử khi xem xét, đánh giá trong quá trình

giải quyết vụ án và trong bản án, quyết định là phần nhận định và quyết định
của Tòa án. Như vậy, để kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án được
phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án thì Tòa án phải xem xét
thận trọng, đánh giá toàn diện các mặt, các mối quan hệ của mỗi tình tiết
trong vụ án và phải đặt các tình tiết trong vụ án trong mối quan hệ biện
chứng; phải lấy sự thật làm căn cứ để kết luận, đánh giá về vụ án, không được
suy diễn hoặc có kết luận mang tính chủ quan, áp đặt về vụ án khi chưa xem
xét, đánh giá toàn bộ các tình tiết của vụ án. Điều này cũng có nghĩa rằng,
trong phần nhận định, trong phần quyết định của bản án, quyết định phải có

19


×