Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.58 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

-----/-----

---/---

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐẶNG TẤN PHONG

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công

BÌNH PHƢỚC, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

-----/-----

---/---

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


ĐẶNG TẤN PHONG

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
MÃ SỐ: 08 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ HƢỜNG
BÌNH PHƢỚC, NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn thạc sỹ “quản lý nhà nước đối với lễ hội truyền
thống trên địa bàn tỉnh Bình Phước” là do tôi viết và chưa được công bố. Các
số liệu sử dụng trong luận văn đều dựa trên cơ sở sưu tầm chọn lọc và các tài
liệu tham khảo đã được công bố.
Bình Phước, tháng 5 năm 2019
Tác giả

Đặng Tấn Phong


MỤC LỤC
Nội dung

Trang


MỞ ĐẦU

1

Chương 1:

7

Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống

7

1.1.

Một số khái niệm cơ bản về lễ hội truyền thống

7

1.2.

Quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống

18

1.3.

Kinh nghiệm quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống

30


Tiểu kết chương 1

37

Chương 2

39

Thực trạng lễ hội và quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên
địa bàn tỉnh Bình Phước

39

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến lễ hội
truyền thống trên địa bàn tỉnh Bình Phước

39

2.2. Thực trạng lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Bình Phước

43

2.3. Thực trạng quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên
địa bàn tỉnh Bình Phước

49

2.4. Đánh giá kết quả quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên
địa bàn tỉnh


65

2.4.1. Những kết quả đạt được

66

2.4.2. Những hạn chế

68

2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế

70

Tiểu kết chương 2

72

Chương 3

74

Định hướng và giải pháp quản lý lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh
Bình Phước

74

3.1. Định hướng quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh 74



3.2. Giải pháp quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh

82

3.3. Khuyến nghị

98

Tiểu kết chương 3

100

KẾT LUẬN

102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

105


DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BVHTTDL

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

BNV

Bộ nội vụ


BTNMT

Bộ tài nguyên và Môi trường

CA

Công an

CP

Chính phủ

CT

Chỉ thị

CV

Công văn

CTr

Chương trình

HĐND

Hội đồng Nhân dân

KH


Kế hoạch



Quyết định

QH

Quốc hội

QLNN

Quản lý nhà nước

NQ

Nghị quyết

TU

Tỉnh ủy

TTg

Thủ tướng Chính phủ

TW

Trung ương


UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa của liên hợp quốc

UBND

Ủy ban Nhân dân

SVHTTDL

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Nói đến các hình thức sinh hoạt cộng đồng trước hết người ta phải nói
đến lễ hội truyền thống. Lễ hội truyền thống là một trong những thành tố quan
trọng nhất của văn hóa dân gian. Vì thế lễ hội truyền thống được giới văn hóa
từ trước tới nay tập trung vào nghiên cứu; rất nhiều vấn đề đã từng bước được
sáng tỏ và đã đi đến thống nhất cao chẳng hạn về thời điểm tổ chức lễ hội,
nhân vật được phụng thờ, các trò diễn, ý nghĩa của lễ hội truyền thống.
Lễ hội truyền thống là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần biểu
hiện những giá trị tiêu biểu của một cộng đồng, một dân tộc. Lễ hội truyền
thống mang tính tập thể, có giá trị lớn mang ý nghĩa cố kết cộng đồng dân tộc,
giáo dục tình cảm đạo đức con người hướng về cội nguồn. Đồng thời lễ hội có
giá trị văn hóa tâm linh, cân bằng đời sống tinh thần con người, hướng về cái
cao cả thiêng liêng cao đẹp. Lễ hội truyền thống là nét đẹp văn hóa lâu đời
của dân tộc ta với mục đích thể hiện lòng tri ân và ghi nhận công đức của các
bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước, bảo vệ nền độc lập dân tộc

qua các thời kỳ lịch sử.
Lễ hội truyền thống mang đặc trưng riêng, phản ánh những nét đẹp văn
hóa truyền thống của mỗi dân tộc, vùng miền lễ hội truyền thống còn mang
tính giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống giáo dục lòng yêu nước, yêu quê
hương tự hào dân tộc, xây dựng tinh thần đoàn kết trong cộng đồng. Vì vậy,
lễ hội truyền thống có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giáo dục chính trị
tư tưởng, đạo đức lối sống của các tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng, dưới
tác động nhiều chiều của sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, hoạt động lễ
hội có nhiều vấn đề bất cập, bức xúc đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý
nhà nước.
1


Bình Phước là một địa phương có khá nhiều lễ hội phong phú về loại
hình, đa dạng về hình thức và nội dung. Bên cạnh những mặt tích cực là đáp
ứng một phần nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người dân và góp phần gìn
giữ phát huy bản sắc dân tộc, việc tổ chức các lễ hội tại tỉnh Bình Phước cũng
nằm trong tình trạng chung của cả nước, nhất là tình trạng duy trì đan xen
những yếu tố lạc hậu và du nhập những yếu tố mới thiếu tính hợp lý trong
hình thức tổ chức và nội dung các lễ hội, tình trạng thương mại hóa lễ hội, có
biểu hiện mê tín dị đoan, đồng bóng, bói toán, xin quẻ, thời gian kéo dài việc
quản lý điều hành chính quyền địa phương thiếu chặt chẽ, công tác quản lý
nhà nước đối với các lễ hội chưa được quan tâm đúng mức, chưa tập trung
tuyên truyền nâng cao nhận thức và hướng dân cụ thể để người dân nâng cao
ý thức thực hiện nếp sống văn minh khi tham gia lễ hội, việc chỉ đạo của
chính quyền về Lễ hội ở một số nơi chưa chặc chẽ về kế hoạch, nội dung,
thời gian, những vấn đề về an ninh trật tự an toàn trong lễ hội, đặt biệt là vai
trò quản lý điều hành của ban chỉ đạo lễ hội còn hạn chế nên nhiều việc đặt ra
trong lễ hội còn bị buôn lỏng quản lý, thiếu kiểm tra, kiểm soát…đặt ra cho

các cấp, ngành hữu quan ở Bình Phước yêu cầu cần phải có những giải pháp
mới, hợp lý và quyết liệt hơn để quản lý một cách hiệu quả các lễ hội trên địa
bàn nhằm bảo tồn phát huy những giá trị tích cực của lễ hội. Trên tinh thần đó
tôi chọn đề tài luận văn “Quản lý nhà nƣớc về lễ hội truyền thống trên địa
bàn tỉnh Bình Phƣớc” với mong muốn đề ra một số giải pháp góp phần giải
quyết vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn.
Cho đến thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu và quản lý
văn hóa, nhiều công trình nghiên cứu giá trị văn hóa, nghệ thuật của lễ hội
được công bố và phát hành. Trên nhiều trang báo đã nêu nhiều bất cập trong
quản lý hoạt động trong lễ hội truyền thống, các ấn bản, báo cáo, bài viết đã
2


đề cập đến một số giải pháp liên quan đến mọi mặt trong quản lý lễ hội truyền
thống như việc ban hành và thực thi các văn bản pháp luật về quản lý văn hóa,
công tác nghiên cứu, hoạt động tổ chức lễ hội, công tác an ninh, vệ sinh môi
trường, vấn đề bảo tồn và trùng tu tôn tạo di tích. Nhiều công trình nghiên cứu
đã đóng góp quan trọng trong việc phản ánh và giữ gìn về mặt ý nghĩa lịch sử,
văn hóa của các lễ hội truyền thống như: Lê Trung Dũng – Lê Hồng Lý với lễ
hội Việt Nam, cuốn sách với hơn 3.000 lễ hội các tác giả đã đưa ra nội dung
đầy đủ về lễ hội về đề tài lịch sử. Đó là lễ hội tưởng niệm các anh hùng có
công chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập cho dân tộc cho Tổ quốc.
Ngoài ra, cuốn sách văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm của Trần
Quốc Vượng dày gần 1.000 trang bao gồm các công trình đã công bố do tạp
chí văn hóa nghệ thuật lựa chọn đưa vào tủ sách văn học đây là một trong
những công trình nghiên cứu lễ hội tiêu biểu. Nhiều công trình nghiên cứu sâu
sắc về lễ hội dân gian được công bố như Hội lễ dân gian truyền thống trong
thời hiện đại của giáo sư, Đinh Gia Khánh, phát thảo lịch sử lễ hội của người
việt ở bắc bộ của Giáo sư. Tiến sỹ Nguyễn Xuân Kính.

Cùng với đó, một công trình nghiên cứu khác về lễ hội truyền thống có
giá trị văn hóa cao đó là công trình nghiên cứu “600 lễ hội truyền thống Việt
Nam” của Thạch Phương – Lê trung Vũ. Có thể nói lễ hội truyền thống chính
là dịp để con người giao lưu, cộng cảm và trao truyền những đạo lý, tình cảm,
mỹ tục và khát vọng cao đẹp và là cây cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, củng
cố tinh thần đoàn kết cộng đồng, tình yêu quê hương đất nước và lòng tự hào
về gốc gác của mình. Chính vì vậy mà lễ hội truyền thống bao giờ cũng có
sức hút mời gọi kỳ lạ đối với nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau, trên tinh
thần hướng về cội nguồn phát huy truyền thống cao đẹp và đạo lý của dân tộc
công trình nghiên cứu này đã được các tác giả nghiên cứu một cách sâu sắc,
đầy đủ, rõ nét những lễ hội tiêu biểu trong toàn bộ hệ thống lễ hội của đại gia
3


đình dân tộc Việt Nam, ở cả ba miền Bắc- Trung – Nam. Công trình này cũng
như cuốn từ điển cho những nhà nghiên cứu và những người đi du lịch khám
phá những vùng đất, phong tục tập quán phong phú đa dạng của dân tộc Việt
Nam. Cùng với PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương, PGS. Lê Trung Vũ công bố
cuốn lịch lễ hội với 387 lễ hội. các lễ hội đều có những thông tin: địa điểm lễ
hội, nhân vật phụng thờ, trò diễn của lễ hội…có thể nói , đây là một tập tư
liệu, có hệ thống về các lễ hội ở Việt Nam, nhìn ở những nét cơ bản nhất.
Trong cuốn sách Văn hoá dân gian Việt Nam của Giáo sư. Đinh Gia Khánh
đã dành một chương để đề cập đến những giá trị của lễ hội cổ truyền trong đời
sống xã hội hiện nay, có thể nói ông đã trình bày khá đầy đủ quan niệm của
ông về lễ hội cổ truyền từ hội làng và các tôn giáo ngoại lai, hội làng và tín
ngưỡng bản địa đến ý nghĩa xã hội và văn hóa của hội làng.
Hay như công trình “ Lễ hội - một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa
cộng đồng” của tác giả Hồ Hoàng Hoa đã đề cập đến tính mỹ học dân tộc
trong lễ hội Việt Nam. Đây là kết quả của một tiến trình nghiên cứu lâu dài
kết hợp với những chuyến đi thực địa quan sát tại chỗ nhiều lễ hội Việt Nam

cũng như nhật bản dưới góc độ tìm hiểu chức năng và đặc biệt là những biểu
hiện đa dạng cái đẹp trong lễ hội.Ý nghĩa xã hội và văn hóa của lễ hội dân
gian, văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam; Tập
thể các tác giả của viện nghiên cứu Văn hóa ( Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam) với công trình “ Lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc Bộ” do PGS. Lê
Trung Vũ chủ biên. Trong năm 1993, Trung tâm Khoa học Xã hội và nhân
văn ( nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) tổ chức hội thảo khoa học quốc
tế về Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại. Các tác giả tham gia
hội thảo này đã đóng góp nhiều ý kiến về vai trò của lễ hội truyền thống trong
xã hội đương đại. PGS.TS.Nguyễn Quang Lê xuất bản công trình văn hóa
trong lễ hội truyền thống Việt Nam. Sách dày 402 trang, gồm 4 phần: phần I:
4


Văn hóa ẩm thực trong phong tục lễ hội truyền thống xưa và nay; phần 2: cỗ
lễ vật dâng cúng tổ tiên và thần linh trong các ngày lễ tết theo phong tục cổ
truyền; phần 3: Cỗ lễ vật dân cúng thần linh trong một số phong tục lễ hội dân
gian truyền thống; phần 4: Cỗ lễ vật dân cúng thần linh trong một số phong
tục lễ tết và lễ hội của một số đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta.
Một số đề tài chưa được in thành sách có liên quan đến quản lý lễ hội
truyền thống ở nhiều góc độ khác nhau, như tập trung nghiên cứu về hoạt
động quản lý về lễ hội truyền thống trên địa bàn một tỉnh trong các luận văn
thạc sỹ, như đề tài: Đề tài: “ Quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội
truyền thống trên địa bàn thành phố Hà Nội” Luận văn cao học Quản lý công
(2011) Học viện Hành chính Quốc gia của tác giả Nguyễn Thị Hà Phương;
Đề tài, “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc Ê đê trên địa bàn
tỉnh Đăk lăk”.
Ở tỉnh Bình Phước cũng đã có nhiều tác phẩm nghiên cứu về lễ hội,
các công trình nghiên cứu trên đã trình bày đề cập đến lễ hội với nhiều nội
dung, nhiều hướng nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào

nghiên cứu riêng về hoạt động quản lý nhà nước đối với lễ hội truyền thống
trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Vì vậy, trong luận văn này, trên cơ sở kế thừa,
tiếp thu có chọn lọc các công trình đã nghiên cứu, tác giả đã nghiên cứu đề tài
“Quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Bình Phước.”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Từ việc nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp quản lý
nhà nước đối với lễ hội truyền thống, luận văn nhằm hoàn thiện công tác quản
lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong giai
đoạn trước mắt và lâu dài.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5


Luận văn có một số nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
+ Hệ thống lại cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về lễ hội
truyền thống.
+ Phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống
trên địa bàn tỉnh Bình Phước .
+ Đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên
địa bàn tỉnh Bình Phước trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý nhà nước đối
với lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
+ Về nội dung: Tập trung vào các nội dung quản lý nhà nước về lễ hội
truyền thống theo quy định của pháp luật.
+ Về không gian: Quản lý nhà nước về lễ hội trong địa bàn tỉnh Bình
Phước.

+ Về thời gian: từ năm 2010 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp luận.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quản lý hoạt động lễ hội
truyền thống trong thời kỳ đổi mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện luận văn đề tài tác giả sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau:
+ Phương pháp phân tích
6


+ Phương pháp tổng hợp
+ Phương pháp so sánh và các phương pháp khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có một số đóng góp về lý luận và
thực tiễn như sau:
6.1. Về lý luận:
Luận văn khái quát có chọn lọc sở khoa học quản lý nhà nước về lễ hội
truyền thống vận dụng quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên địa bàn
tỉnh Bình Phước.
6.2. Về thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của tác giả có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong học tập, giảng dạy, nghiên cứu môn quản lý nhà nước về văn hóa cho
các nhà quản lý trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội trên địa
bàn tỉnh Bình Phước.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

kết cấu thành 3 chương:

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản về lễ hội truyền thống
1.1.1.Văn hóa
Từ “văn hóa” có nhiều nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái niệm có
nội hàm khác nhau. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông
dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo
nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn (văn hóa Đông
Sơn…)
Năm 2002, UNESCO đã định nghĩa về Văn hóa như sau: Văn hóa nên
đề cập đến như là một tập hợp của những đặt trưng về tâm hồn,vật chất, tri
thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống,
hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin [18, tr431].
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [24,tr431].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn
hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữ con người và xã hội.
Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự
bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong

quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ
phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình
8


thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật
chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Như trên đã đề cập, văn hóa là một khái niệm có nhiều tầng ý nghĩa.
Văn hóa bao gồm nhiều nội dung, nhiều hoạt động: rộng nhất, nhiều ý kiến
cho rằng văn hóa bao gồm tất cả những hoạt động sáng tạo của con người;
hoặc quan điểm khác cho rằng văn hóa biểu hiện cách ứng xử của con người
với con người và với tự nhiên; văn hóa thể hiện khía cạnh đời sống tinh thần
của con người; hay văn hóa thể hiện nếp sống, phong tục tập quán của cộng
đồng cư dân, trong đó có hoạt động lễ hội.
1.1.2.Lễ hội
Về mặt thuật ngữ, có nhiều khái niệm và định nghĩa lễ hội. Theo Từ
điển bách khoa Việt Nam (2005): Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm
biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước
mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả
năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo nghệ thuật của cộng đồng,
xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự
bình an cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho
từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ
bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung của bốn chữ “ nhân khang, vật thịnh
”. Lễ hội là hoạt động của một tập thể người liên quan đến tín ngưỡng tôn
giáo. Do nhận thức, người xưa rất tin vào trời đất, sông núi, vì thế ở các làng,
xã, thường có miếu thờ thiên thần, thổ thần, thủy thần, sơn thần, lễ hội truyền
thống phản ánh hiện tượng đó.
Lễ hội là một hiện tượng xã hội – lịch sử được hình thành từ lâu đời,
mang trong mình những giá trị văn hóa độc đáo mang bản sắc cộng đồng, tổ

chức theo những nghi thức trọng thể nhất nhằm tôn vinh các vị thần linh,
nhân thần có công với một địa phương trong việc chống giặc ngoại xâm hay
9


mở mang xây dựng một vùng đất. Đồng thời lễ hội là dịp để con người giao
tiếp, cố kết cộng đồng thông qua những hoạt động vui chơi mang nhiều ý
nghĩa biểu tượng.
Lễ hội là một trong những công cụ để phản ánh một nền văn hóa. Lễ
hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư
trong thời gian và không gian xác định, nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật
lịch sử hay huyền thoại đồng thời là dịp để thể hiện cách ứng xử văn hóa của
con người với thiên nhiên, thần thánh và con người trong xã hội.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần của mọi tần lớp dân cư, là hình thức giáo dục, chuyển giao
cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm
linh và các trò chơi, đua tài, giải trí…
Lễ hội là dịp con người được giải tỏa, giải bày phiền muộn, lo âu với
thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che để vượt qua những thử thách đến
với ngày mai tươi sáng hơn.
Lễ hội là tổ hợp các yếu tố và hoạt động văn hóa đặt trưng của cộng
đồng xoay quanh một trục ý nghĩa nào đó, nhằm tôn vinh và quảng bá cho
những giá trị nhất định [ 22, Tr.16]
Như vậy, lễ hội là một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang
tính cộng đồng cao của nông dân hay thị dân, diễn ra trong những chu kỳ
không gian, thời gian nhất định để làm những nghi thức về nhân vật được
sùng bái, để tỏ rõ những ước vọng, để vui chơi trong tinh thần cộng mệnh và
cộng cảm.
1.1.3. Lễ hội truyền thống và hoạt động lễ hội truyền thống

1.1.3.1. Lễ hội truyền thống

10


Truyền thống, theo từ nguyên của tiếng la tinh là “traditio”, nghĩa là
nối đời, nối truyền,
Theo nghĩa thông thường, trong từ điển tiếng Việt phổ thông, truyền
thống được định nghĩa “Thói quen hình thành đã từ lâu đời trong lối sống và
nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác’’ [17, tr.401].
Theo định nghĩa của UNESCO, văn hóa truyền thống: “ là các tập
quán và biểu tượng xã hội mà theo quan niệm của một nhóm xã hội thì được
lưu giữ từ quá khứ đến hiện tại thông qua việc lưu truyền giữa các thế hệ và
có một tầm quan trọng đặc biệt”. Lễ hội thuộc phạm trù của văn hóa, do vậy,
khái niệm Lễ hội truyền thống có thể bao trùm cả những lễ hội cổ truyền đã
có từ xa xưa và cả những truyền thống lễ hội được xác lập mấy chục năm trở
lại đây như lễ hội kỷ niệm ngày quốc khánh, lễ hội làng sen… Tuy nhiên, ở
nước ta khi sử dụng cụm từ lễ hội truyền thống thông thường được hiểu như
lễ hội thông thường [17, tr.16].
Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 110/2018/NĐCP về quản lý và tổ chức lễ hội thì lễ hội truyền thống được định nghĩa như
sau: Lễ hội truyền thống (bao gồm cả lễ hội tại các di tích lịch sử - văn hóa,
lễ hội dân gian) là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng được tổ chức theo
nghi lễ truyền thống, nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân.
Dựa trên quan điểm biện chứng, ở một thời diểm nhất định, truyền
thống bao giờ cũng có hai mặt; tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực bao gồm
những yếu tố ưu việt, tiến bộ, phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của xã hội giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Mặt tiêu cực là hiện thân của sức ỳ, của sự bảo
thủ, lạc hậu có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xã hội.
Lễ hội truyền thống được hình thành từ phong tục, tập quán, tín ngưỡng
và nhu cầu đời sống tâm linh, vui chơi giải trí của nhân dân là loại hình sinh


11


hoạt văn hóa, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển
trong quá trình lịch sử.
Như vậy, so với các lễ hội khác, lễ hội truyền thống mang 3 đặc trưng
cơ bản sau:
- Lễ hội truyền thống gắn với đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng,
nó mang tính linh thiêng, do vậy, nó thuộc thế giới thần linh, thiêng liêng, đối
lập với đời sống trần gian, trần tục. Tính tâm linh và tính linh thiêng của lễ
hội nó quy định “ngôn ngữ” của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, tính thăng
hoa, vượt lên thế giới hiện thực, trần tục của đời sống thường ngày.
- Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống tính
phức hợp, một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, bao gồm gần như tất cả
các phương diện khác nhau của đời sống xã hội của con người: sinh hoạt tín
ngưỡng, nghi lễ,phong tục, giao tiếp và gắn kết xã hội, các sinh hoạt diễn
xướng dân gian (hát, múa, trò chơi, sân khấu…), các cuộc thi tài, vui chơi giải
trí, ẩm thực…Không có một sinh hoạt văn hóa truyền thống nào của nước ta
lại có thể so sánh được với lễ hội cổ truyền, trong đó chứa đựng đặc tính vừa
đa dạng vừa nguyên hợp này.
- Chủ thể của lễ hội truyền thống là cộng đồng. Đó là cộng đồng làng,
cộng đồng nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và
lớn hơn cả là cộng đồng quốc gia dân tộc. Nói cách khác không có lễ hội nào
lại không thuộc về một dạng cộng đồng, của một cộng đồng nhất định. Cộng
đồng chính là chủ thể sáng tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa
của lễ hội.
Ba đặt trưng trên nó quy định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ
chức, thái độ và hành vi, tình cảm của những người tham gia lễ hội, phân biệt
với các loại hình lễ hội khác như lễ hội sự kiện, các loại Festival…


12


Như vậy, có thể xem lễ hội truyền thống là hiện tượng lịch sử, hiện
tượng văn hóa có mặt ở Việt Nam từ lâu đời và có vai trò không nhỏ trong đời
sống xã hội.
1.1.3.2. Hoạt động lễ hội truyền thống
Hoạt động lễ hội truyền thống là các bước tiến hành, các sự việc xảy ra
trong phạm vi thời gian, không gian của một lễ hội truyền thống theo một chu
trình được định sẵn.
Hoạt động lễ hội bao gồm các họat động sau:
Hoạt động nghi lễ là một hệ thống các hành vi được đặt cách hóa, thần
mỹ hóa cao độ, trở thành một thứ ngôn ngữ tượng trưng nhằm truyền tải
những ý niệm của cộng đồng trong giao tiếp với thần linh. Do được qui tắc
hóa và hình thức hóa một cách chặt chẽ nên hoạt động này không dành cho tất
cả mọi người mà có tính đại diện, đại biểu. Hoạt động nghi lễ có sự tham gia
của những động tác, lời nói do cá nhân, nhóm hay tập thể thực hiện với sự
phối hợp của âm thanh, đạo cụ, diễn xướng, vũ đạo, ma thuật và đồ hiến tế
với tư cách là tổ hợp của những phương tiện mang ý nghĩa, nó biểu thị thái độ
quy phục, tôn vinh và dâng hiến đối với thần linh và kèm ngay đó là xin thần
linh ban phát những điều mong muốn cho hạnh phúc đời thường. Sự cầu xin
đóng góp vai trò mục tiêu của hoạt động nghi lễ. hệ thống nghi lễ đã trở thành
phong tục và ít thay đổi.
Hoạt động bán nghi lễ là những hoạt động thể hiện theo một cách khác
với nghi lễ chính thức những mong muốn của cộng đồng mở hội. Có rất nhiều
hoạt động loại này mà dân gian gọi là trò. Mỗi trò đều biểu hiện ra dưới dạng
vui chơi hay diễn xướng, thi tài hay thi sức, có thể từ nguồn gốc sâu xa trong
truyền thống văn hóa tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp.
Các hoạt động thuần túy giải trí cũng được xem như loại hoạt động

phục vụ của nhu cầu lễ hội truyền thống. Nó không liên quan đến nhu cầu tâm
13


linh, nhưng lại tạo ra sự phấn khích, thậm chí là mục tiêu của cá nhân hay
nhóm trẩy hội. Những trò giải trí thuần túy thường có sẵn trong kho tàng văn
hóa của cộng đồng như chọi gà, bắt vịt, bịt mắt bắt dê… nhưng cũng có nhiều
khi các trò được đưa từ nơi này đến nơi khác góp vui như tạp kỹ, quay số và
rất nhiều trò vui chơi khác. Các loại trò chơi này có thể do phân công của
cộng đồng, do ngẫu hứng của các cá nhân hay nhóm. Trò giải trí thuần túy
góp phần tạo một cảm giác toàn cảnh về sự đầy đặn, sầm uất, dư thừa. Như
thế, nó cũng góp phần nói lên niềm ao ước đời thường nhưng sâu xa của con
người về hạnh phúc bình dị trong cuộc sống.
Hoạt động dịch vụ được hiển thị như hoạt động mua bán trong dịp lễ
hội. Trước đây thường là đồng quà tấm bánh, sản vật đồng quê, trò chơi có
thưởng. Ngày nay, ở nhiều lễ hội hoạt động dịch vụ lại được coi như mục tiêu
để phát triển thành lễ hội - du lịch. Hoạt động này đang ngày càng trở nên đa
dạng, đáp ứng đủ nhu cầu của du khách, thậm chí còn làm cho không gian của
lễ hội biến đổi về quy mô, màu sắc
1.1.4. Vai trò của lễ hội truyền thống trong đời sốngxã hội
1.1.4.1. Lễ hội truyền thống thực hiện liên kết cộng đồng
Lễ hội thuộc về một cộng đồng người nhất định, có thể được xem như
sự phản chiếu sinh động của truyền thống, bản sắc văn hóa cộng đồng cũng
như là biểu tượng của tinh thần cố kết cộng đồng làng xã được hun đúc qua
thời gian. Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở gắn kết địa vực và
sở hữu tài nguyên, lợi ích kinh tế (cộng hữu), gắn kết số mệnh chịu sự chi
phối của một lực lượng siêu nhiên (cộng sinh), gắn kết nhu cầu đồng cảm
trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa (cộng cảm)... Bất kể một
lễ hội nào, dù là lễ hội nông nghiệp, lễ hội lịch sử, suy tôn các vị thần linh hay
anh hùng dân tộc thì bao giờ cũng là lễ hội của một cộng đồng; biểu dương

các giá trị văn hóa và sức mạnh của cộng đồng trên mọi bình diện, là chất kết
14


dính tạo nên sự cố kết cộng đồng. Lễ hội nào cũng thuộc về một cộng đồng
nhất định, đó có thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp
(hội nghề) cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ) cộng đồng dân
tộc ( hội Đền Hùng – quốc tế ) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng
họ… Chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết
dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn
kết, như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu
tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối
của một lực lượng siêu nhiên nào đó ( cộng mệnh ), gắn kết bởi một nhu cầu
sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa ( cộng
cảm)…
Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và
cộng cảm của sức mạnh cộng đồng.
Dù dưới hình thức nào thì lễ hội truyền thống vẫn là một kiểu sinh hoạt
tập thể của nhân dân được tổ chức sau thời gian lao động, sản xuất hay nhân
dịp kỷ niệm một sự kiện xã hội quan trọng liên quan đến sự tồn tại của một
cộng đồng hoặc để quần chúng tìm đến một cái gì đó, Người đi hội không
cảm thấy mình là người ngoài cuộc, chính điều đó đã đem lại niềm an ủi, sự
xúc động thật sự và là nguồn động viên sâu sắc cho những thân phận nhỏ bé
ngày thường trong xã hội phong kiến .
Ngày nay, trong xã hội hiện đại, con người được khẳng định “cái cá
nhân”, “cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó
chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng
đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ
nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng gắn kết cộng đồng ấy. Như


15


vậy, tính cộng đồng và cố kết cộng đồng là nét đặc trưng và là giá trị văn hóa
tiêu biểu nhất của lễ hội.
1.1.4.2. Lễ hội truyền thống phản ánh, bảo lưu và truyền bá các giá trị
văn hóa truyền thống, ôn lại truyền thống đã qua
Lễ hội truyền thống là một hình thức tái hiện quá khứ thông qua các
hoạt động tế lễ, các trò diễn sinh động hấp dẫn như tế lễ, rước, trang phục,
văn tế, trò diễn dân gian, dân ca, dân vũ… Các hoạt động ấy không những tái
hiện cuộc sống mà còn góp phần giữ gìn và bảo tồn văn hóa dân tộc. Lễ hội
với những hình thức, nội dung phản ánh đầy đủ, sinh động đời sống vật chất
và tinh thần của xã hội trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, đã tác động mạnh
mẽ và sâu sắc tới toàn thể cộng đồng làng xã, vùng miền, dân tộc, quốc gia,
tùy theo tính chất và mức độ của lễ hội ấy. Đặc trưng của lễ hội là tính truyền
miệng. Những sự kiện lịch sử, đời sống xã hội được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác thông qua dịp lễ hội hàng năm. Như vậy, lễ hội góp phần
bảo tồn văn hóa dân tộc ngay trong chính tâm thức của cộng đồng.
Tất cả lễ hội truyền thống đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự
nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ;
nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn
hóa… hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt
Nam “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Vì thế lễ hội
thường gắn với hành hương du lịch.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật, tin học hóa, toàn cầu hóa, con người
nhận thức ra về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với thiên nhiên, môi
trường, với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hóa độc đáo đang bị mai một.
Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con
người càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hòa

mình vào với môi trường thiên nhiên; trở về với, tìm lại và khẳng định cái
16


nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hóa của mình trong cái chung của văn
hóa nhân loại. Chính nền văn hóa truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là
một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng chính là tính
nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con
người ở mọi thời đại.
1.1.4.3. Lễ hội truyền thống đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần, tâm
lý, giải quyết những khát khao, những ước mơ của cộng đồng các dân tộc ở
địa phương
Khi tham gia vào lễ hội, con người được sáng tạo, hóa thân thành văn
hóa, văn hóa làm biến đổi con người. Đây chính là quá trình trao truyền văn
hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong các lễ hội, nhân dân là người đứng
ra tổ chức, sáng tạo, tái hiện các sinh hoạt văn hóa cộng đồng và hưởng thụ
các giá trị văn hóa tâm linh. Khi tất cả mọi người chìm vào không khí thiêng
liêng, hứng khởi của lễ hội thì khoảng cách giữa con người dường như không
còn, mọi người cùng nhau sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Trong quá trình
giao cảm với thế giới thiêng liêng bí ẩn, ai cũng có đức tin và mong muốn sự
chứng giám của thế giới tâm linh về thái độ thành kính của mình. Hàng năm,
vào các mùa lễ hội, mọi người cùng nhau hành hương, chiêm bái về cái thiêng
và như vậy lễ hội lại nảy sinh ra những giá trị văn hóa mới mang tính thời đại.
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu
đời sống tâm linh. Đó là đời sống con người hướng về cái cao cả thiêng liêng
- chân thiện mỹ- cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có
niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống
tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng.
Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thỏa mãn nhu cầu
về đời sống tâm linh của con người, đó là trạng thái thăng hoa từ đời sống

trần tục, hiện hữu.
17


Thông qua lễ hội truyền thống tạo cho con người niềm lạc quan yêu đời
yêu chân lý, trọng cái thiện và làm cho tâm hồn, nhân cách mỗi con người
như được sưởi ấm tình nhân đạo, nhân văn để rồi thẩm thấu vào cuộc sống
đời thường đáp ứng nhu câu đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh làm cho đời
sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.
1.1.4.4. Lễ hội truyền thống giúp sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng- văn hóa cộng đồng của
nhân dân. Trong các lễ hội đó, nhân dân đứng ra tổ chức, sáng tạo và tái hiện
các sinh hoạt văn hóa cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hóa và tâm linh,
do vậy, lễ hội bao giờ cũng thắm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc.
Đặc biệt trong thời điểm diễn ra lễ hội khi tất cả mọi người hòa mình vào
không khí thiêng liêng hứng khởi thì các tách biệt xã hội giữa cá nhân ngày
thường dường như dược xóa nhòa, con người cùng sáng tạo và hưởng thụ
những giá trị văn hóa của mình.
Điều này có phần nào đó đối lập với đời sống thường nhật của những
xã hội phát triển, mà khi phân công lao động xã hội đã được chuyên môn hóa,
nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của con người đã phần nào tách biệt.
Như vậy, ngoài sự “hòa nhập” hết mình trong các hoạt động của lễ hội,
được “hóa thân” đóng một vai trong hội hay “nhập thân” vào một trò chơi, tất
cả mọi người đều được hưởng những lễ vật mà mình dâng cúng, đều được
tham gia vào các hoạt động vui chơi, giải trí trong quá trình tổ chức hoạt động
lễ hội. Trong lễ hội truyền thống, người dân không chỉ hưởng thụ mà còn là
người sáng tạo văn hóa, là chủ nhân thực sự trong đời sống văn hóa của chính
bản thân mình.
1.1.4.5. Tổ chức lễ hội truyền thống kích thích phát triển kinh tế ở địa
phương


18


Lễ hội không chỉ ở phương diện văn hóa mà còn ở giá trị kinh tế. Bởi,
lễ hội còn là sản phẩm độc đáo của du lịch, tạo nên môi trường du lịch văn
hóa tâm linh hấp dẫn, nhân tố tạo nên sự thư giãn, những ứng xử văn hóa.
Không khí vui tươi, linh thiêng của ngày lễ hội làm cho mỗi người trút bỏ
được những lo âu, phiền muộn của cuộc sống đời thường, thúc đẩy quá trình
lao động sáng tạo, sống nhân ái và yêu thương nhau hơn. Lễ hội là một sản
phẩm đặc biệt, mang lại giá trị kinh tế cao, là điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế và giới thiệu, truyền bá những đặc sắc văn hóa của dân tộc, vùng miền
cho du khách trong và ngoài nước. Như vậy, lễ hội tự mang trong mình giá
trị kinh tế đặc biệt, kinh tế du lịch văn hóa tâm linh. Hiện nay, các lễ hội mở
ra đã góp phần làm tăng trưởng kinh tế cho địa phương. Người dân ở xung
quang nơi tổ chức lễ hội mở các dịch vụ phục vụ cho lễ hội cũng tăng thu
nhập đời sống kinh tế ngày càng phát triển.
1.2. Quản lý nhà nƣớc về lễ hội truyền thống
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống
Quản lý là một hoạt động nhằm đảm bảo sự vận hành của một hệ thống,
một tổ chức một cách liên tục, đúng chức năng. Với tư cách là một khoa học,
quản lý dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật phát triển của các đối tượng
khác nhau, quy luật tự nhiên hay xã hội. Những hình thức quản lý có ý thức
luôn gắn liền với hoạt động có mục tiêu, có kế hoạch của những tập thể lớn
hay nhỏ của con người và được thực hiện qua những thể chế xã hội đặc biệt.
Theo giáo trình quản lý Hành chính công đại cương: “Quản lý nhà
nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối
với các quá trinh xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trùy các
mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ

tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [13, tr.10]
19


×