Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế thủy sản ở tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2005-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.2 KB, 9 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE

Science Sci., 2011, Vol. 56, No. 8, pp. 147-155

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỦY SẢN
Ở TỈNH QUẢNG BÌNH GIAI ĐOẠN 2005 - 2010

Nguyễn Thị Hương Liên

Học viện Báo chí và Tuyên truyền
E-mail:
Tóm tắt. Nền kinh tế thủy sản là tài nguyên tái tạo, thủy sản phát triển
nền kinh tế dựa trên hệ sinh thái. Việt Nam có xuất phát điểm thấp với điều
kiện khó khăn và lạc hậu nên thủy sản đóng một phần quan trọng trong
cuộc sống của dân cư nông thôn ven biển. Câu cá, nuôi trồng thủy sản và
chế biến thủy sản là lĩnh vực cơ bản trong nền kinh tế thủy sản. Đánh giá
tình trạng của nền kinh tế thủy sản sẽ giúp thúc đẩy hiệu quả của lĩnh vực
này trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Bài viết này đánh giá về thành tựu và
hạn chế của nền kinh tế thủy sản ở Quảng Bình giai đoạn 2005-2010.

1.

Mở đầu

Thủy sản là nguồn tài nguyên tái tạo, kinh tế thủy sản phát triển dựa trên
nền tảng của các hệ sinh thái, cho nên còn biển thì còn thủy sản. Nước ta đi lên
từ xuất phát điểm thấp của nền kinh tế còn nghèo nàn và lạc hậu nên thủy sản lại
càng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo và cải thiện sinh kế cho các cộng
đồng dân cư sống ở các vùng nông thôn ven biển và hải đảo.
Quảng Bình là một tỉnh thuộc duyên hải Bắc Trung bộ với vùng đặc quyền
kinh tế biển có diện tích hơn 20.000 km2 , có bờ biển dài 116,04 km và năm đảo nhỏ


ven bờ với tổng diện tích 185 ha. Đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản giữ
vai trò trọng yếu nhất trong các lĩnh vực phát triển của kinh tế biển ở tỉnh Quảng
Bình. Do đó, việc đánh giá hiện trạng phát triển của kinh tế thủy sản sẽ góp phần
làm tăng hiệu quả hoạt động của lĩnh vực kinh tế biển này ở Quảng Bình.

2.

Nội dung nghiên cứu

2.1.
2.1.1.

Đánh giá khái quát các nhân tố tác động đến phát triển
kinh tế thủy sản ở tỉnh Quảng Bình
Những thuận lợi

Quảng Bình hội tụ đủ những điều kiện tự nhiên để phát triển kinh tế thủy
sản. Từ vị trí địa lý, khí hậu, đặc điểm địa hình đến tài nguyên thiên nhiên. . . đều
rất thuận lợi để phát triển kinh tế thủy sản. Thêm vào đó, nằm ở trung tâm đất
147


Nguyễn Thị Hương Liên

nước, thuộc vùng Bắc Trung bộ, nơi giao thoa của các nền văn hóa cổ xưa và hiện
đại, nơi đón nhận các giá trị kinh tế, văn hóa và xã hội quan trọng nhất của đất
nước, Quảng Bình hiện được đánh giá cao bởi chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
phục vụ công nghiệp, nông nghiệp... theo mô hình liên kết và tương tác chặt chẽ,
trong đó, kinh tế thủy sản là một trong những lĩnh vực được Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
quan tâm và ưu tiên phát triển.

Một nhân tố nữa ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế thủy sản ở tỉnh Quảng
Bình đó là sự năng động, sáng tạo của nhân dân và các tổ chức kinh tế. Trên cơ
sở đầu tư và đào tạo nguồn nhân lực đủ mạnh, các doanh nghiệp đã nâng cao chất
lượng sản phẩm và đa dạng hóa các dòng sản phẩm, tạo ra sự chuyển dịch mới trong
lĩnh vực kinh tế thủy sản theo hướng chuyên môn hóa cao. Hơn nữa, nhân dân ngày
càng hiểu được tầm quan trọng của các lĩnh vực kinh tế thủy sản đối với cuộc sống
của mình, sáng tạo trong các loại hình sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh
tế của bản thân và hiệu quả sản xuất chung của tỉnh.
2.1.2.

Những khó khăn - thách thức

Quảng Bình được thiên nhiên ưu đãi, có đủ những điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế thủy sản nhưng tài nguyên phân bố rải rác, không đồng đều, gây khó
khăn trong việc khai thác và chế biến. Chất lượng sản phẩm thủy hải sản chưa cao
nên nguồn thu ngoại tệ còn thấp.
Việc triển khai chủ trương của Đảng chưa có chiến lược tổng thể, chưa có cơ
quan quản lý chỉ đạo phát triển kinh tế thủy sản phù hợp. Do đó thiếu đi những
chương trình hành động, quy hoạch cụ thể phù hợp với mục tiêu đề ra của tỉnh.
Thêm vào đó, năng lực của cán bộ, tổ chức làm công tác quản lý trong các lĩnh vực
kinh tế thủy sản cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Các cá nhân, đơn vị này chưa
được phân định chức năng, nhiệm vụ rõ ràng nên chưa thấy được vai trò của mình
trong phát triển kinh tế thủy sản của tỉnh. Tỉnh chưa có chính sách phát triển vùng,
liên kết vùng kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế thủy sản nên
thiếu đi những dự án đầu tư lớn.

2.2.
2.2.1.

Đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế thủy sản ở tỉnh Quảng

Bình
Đối với đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản

Đánh bắt hải sản là nghề biển truyền thống có thế mạnh của nước ta nói
chung và của tỉnh Quảng Bình nói riêng. Đây là lực lượng nòng cốt trong việc thực
hiện ba mục tiêu chiến lược phát triển ngành thủy sản đó là: khai thác tiềm năng
nguồn lợi hải sản tạo sản phẩm cung cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu;
tạo công ăn việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển; đảm
bảo sự hiện diện, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển. Riêng với một tỉnh
ven biển như Quảng Bình, đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản giữ vai trò
trọng yếu nhất trong các lĩnh vực phát triển của kinh tế biển.
* Đánh bắt thủy hải sản
Từ năm 1993, sau khi thuỷ hải sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn của
148


Đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế thủy sản ở tỉnh Quảng Bình giai đoạn...

Việt Nam, nghề đánh bắt thuỷ sản đã có những bước phát triển đáng kể. Riêng
ngành đánh bắt thủy hải sản ở tỉnh Quảng Bình cũng đạt được những thành tựu
nổi bật.
Theo thống kê của Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản Quảng
Bình, toàn tỉnh hiện có 5.710 tàu, thuyền khai thác hải sản, trong đó 3.700 phương
tiện có công suất dưới 45CV, gần 3.300 phương tiện công suất dưới 20CV chỉ đánh
bắt ven bờ và vùng lộng. Theo Sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Quảng
Bình, cùng với việc đầu tư nâng cấp và đóng mới tàu có công suất lớn để vươn
khơi, giảm mật độ tàu, thuyền đánh bắt tại cùng một ngư trường, việc chuyển đổi
nghề và cơ cấu lại phương tiện khai thác ven bờ cho ngư dân theo hướng thân thiện
với môi trường là hướng đi hợp lý để phát triển bền vững nghề khai thác hải sản
ở Quảng Bình. Hiện Quảng Bình đã có hơn 100 tàu, thuyền công suất dưới 20CV

chuyển sang nghề khai thác mới, gần 3.300 tàu cá, giảm hơn 4%, chủ yếu là giảm
các phương tiện nhỏ so với năm 2005. Trong đó, tỉnh phát triển cỡ tàu 45CV trở
lên đạt 1.600 chiếc và đều được trang bị đầy đủ các thiết bị hàng hải như máy định
vị, dò cá và thông tin liên lạc tầm xa. Cỡ tàu trên 150CV cũng được tỉnh triển khai
và đóng mới với 60 chiếc được đưa vào sử dụng để đánh bắt xa bờ.
Bên cạnh đó, tỉnh chú trọng đầu tư phát triển nghề lưới vây khơi, rê khơi. Hiện
nay, nghề câu khơi kết hợp mành chụp chiếm 60 - 65% cơ cấu nghề khai thác của
tỉnh. Theo đó, giảm các nghề lộng như mành đèn, mành chà, giã kéo còn 20-25%,
xóa bỏ các nghề khai thác ven bờ mang tính huỷ diệt và dùng chất nổ, xung điện.
Ta có thể thấy điều này rõ ràng hơn qua bảng số liệu sau:
Bảng 1. Các nghề khai thác chủ lực
năm 2010 của tỉnh Quảng Bình
Họ nghề



Mành

Chụp

Giã

Câu



Cố
định

Số

lượng
100
1.200
300
100
700
750
150
(Tàu)
Sản lượng
5.000
12.000
3.000
2.400
2.800
4.500
300
(Tấn)
Nguồn: Quyết định số 29/2006/QĐ-UBND ngày 23/6/2006 của UBND tỉnh

Như vậy, các ngành nghề khai thác chủ lực của tỉnh Quảng Bình phát triển
theo xu hướng thân thiện với môi trường, giảm các nghề lộng như mành đèn, mành
chà, giã kéo, xóa bỏ các nghề khai thác ven bờ mang tính huỷ diệt. Đây là một sự
chuyển đổi hết sức có ý nghĩa đối với môi trường sinh thái cũng như đánh dấu một
bước phát triển mới trong ngành đánh bắt thủy, hải sản của tỉnh Quảng Bình. Đồng
thời, Quảng Bình cũng chú trọng đầu tư phát triển nghề lưới vây khơi, rê khơi, nghề
câu khơi kết hợp mành chụp chiếm tới 60% cơ cấu nghề khai thác.
Hơn nữa, tỉnh cơ cấu lại nghề nghiệp khai thác, trên mỗi tàu kiêm 2-3 nghề
để sản xuất quanh năm. Từ năm 2006 đến nay, tỉnh Quảng Bình thực hiện nhiều
mô hình chuyển đổi nghề khai thác vừa đạt hiệu quả kinh tế, vừa thân thiện với

môi trường theo hướng vươn khơi. Trong hai năm 2009 và 2010, Trung tâm Khuyến
149


Nguyễn Thị Hương Liên

nông - Khuyến ngư Quảng Bình đã thực hiện mô hình khai thác cá dưa (còn gọi là
cá lạc) bằng lưới rê tại hai xã Bảo Ninh (TP. Đồng Hới) và Quảng Xuân (Quảng
Trạch) mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chính từ chỗ quy hoạch và sắp xếp lại hoạt
động khai thác hải sản theo hướng bền vững, cộng với chính sách hỗ trợ hợp lý nên
ngư dân đã mạnh dạn đầu tư mua sắm ngư cụ, trang bị nhiều nghề trên một đơn
vị tàu để chủ động bám biển, tổ chức sản xuất theo mùa vụ luân chuyển quanh
năm, di chuyển ngư trường, bám luồng cá để đánh bắt đạt hiệu quả cao nhất, nên
sản lượng đánh bắt cá tôm các loại của Quảng Bình tăng bình quân hàng năm trên
10%. Sản lượng khai thác thủy sản qua các năm của tỉnh Quảng Bình có thể thấy
qua Biểu đồ sau:

Biểu đồ 1. Sản lượng khai thác thủy sản
ở tỉnh Quảng Bình qua các năm [3, 4]
Nhìn từ Biểu đồ 1, ta thấy rằng, năm 2005, sản lượng khai thác thủy sản toàn
tỉnh là 36,933.4 tấn. Đến năm 2007, do ảnh hưởng của cơn bão Lekima, sản lượng
khai thác thủy sản ở Quảng Bình có sự giảm sút xuống 31,082.8 tấn. Nhưng sau đó,
bằng sự nỗ lực của chính quyền và nhân dân tỉnh, sản lượng này đã dần dần tăng
lên và đến năm 2010 là 39,045.5 tấn. Sản lượng của một số loại thủy, hải sản xa bờ
tăng lên vì đa số nghề như lưới vây khơi, mắt lưới lớn chụp mực bốn cần ganh, câu
mực, câu cá hố, lưới rê khơi, rê cá dưa được ngư dân phát triển mạnh mẽ vừa tăng
giá trị kinh tế, vừa giảm thiểu ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học biển.
Với việc xác định kinh tế hộ và liên hộ gia đình là lực lượng sản xuất nghề
biển chủ đạo, từ giữa năm 2009, UBND tỉnh Quảng Bình đã có chỉ thị về việc thành
lập các tổ đoàn kết khai thác hải sản trên biển. Chủ trương này đã nhận được sự

đồng tình cao của ngư dân bởi qua đó họ có thể tương trợ nhau lúc khó khăn trên
biển. Chỉ trong 6 tháng cuối năm 2009, toàn tỉnh đã có 183 tổ đoàn kết khai thác
hải sản được thành lập với gần 1.000 tàu thuyền (chiếm 34% tổng số tàu thuyền) và
gần 8.000 lao động tham gia. Đến nay, ngư dân tại tỉnh Quảng Bình xây dựng được
265 tổ đoàn kết với 93% tàu, thuyền, cùng 9.995 thuyền viên trên địa bàn tham gia
hoạt động. Theo thống kê, kinh tế hộ gia đình đã tạo ra 90% tổng sản phẩm thủy
sản toàn tỉnh và nhóm hợp tác liên hộ chiếm khoảng 80 đến 90% lực lượng nghề
biển.
Có thể nói rằng, bằng sự nỗ lực của chính quyền và nhân dân vùng biển Quảng
Bình, tình hình đánh bắt thủy hải sản của tỉnh nhà có sự chuyển biến rõ rệt theo
hướng tích cực, đảm bảo phát triển đánh bắt thủy sản theo hướng bền vững.
150


Đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế thủy sản ở tỉnh Quảng Bình giai đoạn...

*Nuôi trồng thủy hải sản

Biểu đồ 2. Diện tích nuôi trồng thủy sản
ở tỉnh Quảng Bình qua các năm [3, 4]

Biểu đồ 3. Sản lượng nuôi trồng thủy sản
ở tỉnh Quảng Bình qua các năm [3], [4]
Việc phát triển nuôi trồng hải sản giúp các tổ chức, giúp người dân có cơ hội
đầu tư phát triển, góp phần điều chỉnh nghề khai thác ven bờ bằng phương tiện thủ
công sang nuôi trồng thủy sản biển, bảo vệ và phát triển được nguồn lợi thủy sản.
Nuôi trồng thủy sản biển còn giúp người dân có điều kiện tăng thu nhập, xóa đói,
giảm nghèo, thay đổi cơ cấu kinh tế, góp phần bảo vệ an ninh vùng biển và hải đảo.
Chính vì vậy, Quảng Bình sớm đã có những kế hoạch để tăng diện tích cũng như
sản lượng nuôi trồng các loại thủy hải sản.

Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 2000 - 2010 của tỉnh
Quảng Bình đã hoàn thành vượt mức dự kiến. Nuôi tôm, cá lồng ở vùng cửa sông
và vùng vịnh ven biển với số lượng 1.000 lồng, sản lượng là 500 tấn. Nuôi các loại
nhuyễn thể: ngao, hàu, sò huyết 200 ha, sản lượng là 1.100 tấn. Sự mở rộng trong
diện tích nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Quảng Bình có thể thấy rõ qua Biểu đồ 2.
Diện tích nuôi trồng thủy sản ở Quảng Bình qua các năm có sự biến đổi rõ
rệt. Trong năm 2005 là 3.086,0 ha với diện tích nuôi trồng nước mặn là: 22,50 ha;
nước lợ là 1.295,9 ha và nước ngọt là 1.767,6 ha. Năm 2008 là 3.886,5 ha với diện
tích nuôi trồng nước lợ là 1.347,2; nước ngọt là 2.539,3. Đến năm 2010, con số này
đã lên đến 5.219,6 ha. Khi diện tích nuôi trồng thủy sản tăng, đồng nghĩa với sự
151


Nguyễn Thị Hương Liên

phong phú trong mỗi loại thủy hải sản. Cá bột, cá hương, cá giống, tôm sú. . . luôn
được nuôi trồng với chất lượng tốt nhất. Năm 2005, tình hình sản xuất giống cá bột
là 94,2 triệu con, cá hương là 38,2 triệu con; Đến năm 2010, cá giống ở Quảng Bình
có số lượng xấp xỉ 128 triệu con. Riêng tôm giống, năm 2005 nuôi trồng được 85,9
triệu con. Đến năm 2009 là 98 triệu con. Tình hình sản lượng nuôi trồng thủy sản
của tỉnh Quảng Bình có thể khái quát qua Biểu đồ 3.
Có thể thấy rằng, sản lượng nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Quảng Bình từ năm
2005 đến năm 2010 có sự biến động rõ rệt do đặc điểm nổi bật của các lĩnh vực kinh
tế biển là phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Năm 2005 là 4.962 tấn; Năm 2006, sản
lượng này tăng lên 5.943 tấn tương đương với tăng 19,77%; Tuy nhiên, với điều kiện
thời tiết khắc nghiệt trong năm 2007, sản lượng thủy sản nuôi trồng năm này chỉ
tăng 6,1%. Những năm tiếp theo, nỗ lực của chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng
Bình đã được đền đáp khi sản lượng nuôi trồng thủy sản đã tăng lên rất nhanh.
Đến năm 2010, sản lượng này đã tăng lên đến 10.623 tấn, tăng 26,93% so với năm
2009 và tăng 114,09% so với năm 2005.

Con giống các loại cực kỳ phong phú trong đó, có nhiều giống thuỷ sản có giá
trị kinh tế cao như cá song, cá hồng, tu hài, vẹm xanh, tôm, cua biển, cá bớp, cá
giò. . . Bên cạnh đó, Quảng Bình thành công trong việc chuyển giao công nghệ sản
xuất giống thuỷ sản chất lượng cho một số tỉnh miền Trung và các tỉnh duyên hải
phía Bắc. Quảng Bình đã bước đầu kết hợp với các đơn vị nghiên cứu thủy sản của
Trung ương đóng trên địa bàn bảo đảm sản xuất các loại giống thủy sản chất lượng
cao; tăng cường công tác kiểm tra vệ sinh thú y thủy sản tại các cơ sở sản xuất và
kinh doanh con giống, hóa chất và các chế phẩm sinh học dành cho thủy sản. . .
* Chế biến thủy hải sản
Bảng 2. Cơ cấu sản phẩm chế biến xuất khẩu
của tỉnh Quảng Bình năm 2010

Đơn
vị
Chỉ tiêu
tính
Sản lượng
Tấn
%
Tỷ trọng
Tr.USD
Giá trị
%
Tỷ trọng
Nguồn: Quyết định

Tổng

Mực
đông


Tôm
đông


đông

3.500
1.000
1.100
800
100
28
32
22
20
6,47
6,0
2
100
32,5
30,0
10,0
số 29/2006/QĐ-UBND ngày 23/6/2006

Mực
khô

Khác


300
300
9
9
4,9
0,63
24,5
3,0
của UBND tỉnh

Nghị quyết 03/NQ/TW ngày 6/5/1993 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 05NQ/HNTW ngày 10/6/1993 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VII đều khẳng định xây dựng thủy sản trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn. Bởi vậy, ngành chế biến thủy sản hải sản cũng nhận được sự chú
trọng đặc biệt của các cấp, các ngành và các địa phương.
Nhiều chương trình, dự án táo bạo đã được thực hiện nhằm phát triển ngành
này. Chương trình chế biến và xuất khẩu thủy sản đến năm 2005 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt, và bắt đầu thực hiện từ năm 1998 là một chương trình tạo
152


Đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế thủy sản ở tỉnh Quảng Bình giai đoạn...

bước ngoặt trong thế kỷ XXI cho ngành chế biến thủy sản nước ta nói chung và của
tỉnh Quảng Bình nói riêng.
- Đối với chế biến thủy sản xuất khẩu
Quảng Bình đã xây dựng được chiến lược sản xuất sản phẩm xuất khẩu để
có kế hoạch đầu tư sản xuất nguyên liệu, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng
và xây dựng thương hiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại và chủ động về thị trường
tiêu thụ. Chú trọng đầu tư sản xuất các mặt hàng chủ lực có lợi thế của địa phương
bao gồm: mực đông, tôm đông IQF (tôm sú, thẻ), mực khô và cá đông các loại. Từ

năm 2005 đến năm 2010, tăng bình quân hàng năm 13,6% về sản lượng và 20% về
giá trị chế biến thủy sản xuất khẩu.
Những năm gần đây, Quảng Bình chú trọng nâng cao năng lực sản xuất của
các đơn vị chế biến thuỷ sản hiện có, áp dụng quản lý chất lượng sản phẩm theo
các hệ thống tiêu chuẩn HACCP, GMP, đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm. Sắp xếp và điều chỉnh lại các cơ sở chế biến thủy sản một cách hợp lý, khuyến
khích đầu tư sử dụng công nghệ mới.
Bên cạnh đó, tỉnh đẩy mạnh hợp tác liên kết, liên danh với các doanh nghiệp
trong tỉnh và trong nước để nâng cao năng lực hoạt động của các doanh nghiệp chế
biến xuất khẩu của tỉnh. Khuyến khích các doanh nghiệp có thị trường xuất khẩu
thủy sản đầu tư phát triển chế biến thủy sản xuất khẩu tại Quảng Bình. Phối hợp
tốt giữa các cấp, các ngành và các địa phương, cơ sở liên quan để tổ chức phát triển
sản xuất, tăng nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu và có chính sách phù hợp thúc đẩy
sự liên kết hợp tác giữa các nhà máy với người sản xuất.
- Về chế biến sản phẩm thủy sản truyền thống
Tỉnh Quảng Bình đã chú trọng đầu tư phát triển chế biến sản phẩm thủy sản
phục vụ tiêu dùng. Đến năm 2010, toàn tỉnh đạt 2 triệu lít nước mắm, 200 tấn khô
các loại, 1000 tấn các loại mắm, ruốc và sản phẩm tẩm, ướp gia vị. . .
Tỉnh đã phối hợp thực hiện Chương trình phát triển tiểu thủ công nghiệp
và nông nghiệp nông thôn đến năm 2015, sự hỗ trợ về vốn của trung ương, của
các Chính phủ và tổ chức phi chính phủ (NGO), của Dự án Phân cấp giảm nghèo
(DPPR), Dự án Cải thiện sinh kế... để phát triển và xây dựng làng nghề chế biến
thủy sản ở Cảnh Dương, Bảo Ninh, Đức Trạch, Nhân Trạch, Ngư Thuỷ nhằm chế
biến các sản phẩm: nước mắm, ruốc, mắm mịn, mắm thính, cá khô, ruốc khô, mực
khô... Hơn nữa, mỗi huyện, mỗi địa phương khai thác lợi thế của mình, xây dựng
một số thương hiệu thực phẩm thủy sản: nước mắm Bảo Ninh, Cảnh Dương, tôm
chua Đồng Hới, mực tẩm gia vị, chả cá. . . phục vụ nhu cầu du lịch và tiêu dùng.
Hơn nữa, việc nâng cao chất lượng các sản phẩm thủy sản chế biến truyền thống,
cải tiến mẫu mã, bao bì phù hợp thị trường và mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm đã giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao động chế biến thủy sản. Tỉnh

đã khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến
thủy sản ở các trung tâm nghề cá Hòn La, Thanh Trạch, để đảm bảo thu hút nguồn
nguyên liệu đáp ứng yêu cầu phát triển của đánh bắt và nuôi trồng.

153


Nguyễn Thị Hương Liên

2.3.

Đánh giá chung

2.3.1.

Những mặt đạt được

- Tỉnh Quảng Bình thực hiện nhiều mô hình chuyển đổi nghề khai thác vừa
đạt hiệu quả kinh tế, vừa thân thiện với môi trường theo hướng vươn khơi; phát
triển các kiểu tàu cỡ lớn và đều được trang bị đầy đủ các thiết bị hàng hải như máy
định vị, dò cá và thông tin liên lạc tầm xa. . . được đưa vào sử dụng để đánh bắt xa
bờ, xóa bỏ các nghề khai thác ven bờ mang tính hủy diệt.
- Việc phát triển nuôi trồng hải sản giúp các tổ chức, giúp người dân có cơ hội
đầu tư phát triển, góp phần điều chỉnh nghề khai thác ven bờ bằng phương tiện thủ
công sang nuôi trồng thủy sản biển, bảo vệ và phát triển được nguồn lợi thủy sản
- Quảng Bình đã xây dựng được chiến lược sản xuất sản phẩm xuất khẩu để
có kế hoạch đầu tư sản xuất nguyên liệu, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng
và xây dựng thương hiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại và chủ động về thị trường
tiêu thụ. Chú trọng đầu tư sản xuất các mặt hàng chủ lực có lợi thế của địa phương.
- Tỉnh đã phối hợp thực hiện Chương trình phát triển tiểu thủ công nghiệp

và nông nghiệp nông thôn đến năm 2015, xây dựng làng nghề chế biến thủy sản ở
Cảnh Dương, Bảo Ninh, Đức Trạch, Nhân Trạch, Ngư Thuỷ nhằm chế biến các sản
phẩm: nước mắm, ruốc, mắm mịn, mắm thính, cá khô, ruốc khô, mực khô...
2.3.2.

Những tồn tại và hạn chế

- Đội tàu cá phần lớn là tàu nhỏ, khó tiến ra biển xa. Nghề cá trên biển chưa
được tổ chức hợp lý, khó vươn ra đại dương. Chưa có sự kết hợp giữa chuyển dịch
cơ cấu sản xuất trên biển với tăng cường nuôi trồng thủy sản trên biển theo công
nghệ cao.
- Việc khai thác, sử dụng và quản lý tài nguyên biển chưa thật hiệu quả, đồng
bộ và bền vững nên vẫn còn những thách thức và nguy cơ về môi trường như nguồn
lợi thuỷ sản suy giảm, do tàu thuyền khai thác ven bờ còn nhiều.
- Trong quá trình đánh bắt, ngư dân còn dùng các loại ngư cụ mắt lưới quá
dày, việc dùng xung điện, chất nổ trong khai thác thủy sản có hạn chế nhưng vẫn
còn xảy ra. Việc khai thác hải sản cả trong các rạn san hô khi mùa thuỷ sản sinh
đẻ đã làm suy giảm đa dạng loài hải sản, có một số loài như tôm hùm, cá hồng. . .
bị khai thác kiệt quệ.

3.

Kết luận

Kinh tế thủy sản tỉnh Quảng Bình đã bước đầu khẳng định được vai trò của
mình trong phát triển kinh tế biển nói riêng, nền kinh tế của tỉnh nói chung. Mặc
dù còn vấp phải những khó khăn, hạn chế nhất định nhưng kinh tế thủy sản Quảng
Bình đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng ngàn người lao động ven biển, đóng
góp một phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách của tỉnh.
Để ngày càng nâng cao hiệu quả của kinh tế thủy sản, chính quyền và nhân

dân tỉnh Quảng Bình cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của kinh tế thủy
sản đối với cuộc sống của người dân nói riêng và với sự phát triển kinh tế - xã hội
154


Đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế thủy sản ở tỉnh Quảng Bình giai đoạn...

của tỉnh nói chung. Cơ chế chính sách phù hợp, công tác tuyên truyền sâu rộng cùng
nguồn vốn đầu tư hợp lý sẽ là bàn đạp để các cá nhân, doanh nghiệp nâng cao hiệu
quả sản xuất của mình đối với lĩnh vực kinh tế đầy tiềm năng này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Chính trị, 2003. Nghị quyết 03/NQ/TW về xây dựng thủy sản trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn. Hà Nội.
[2] Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ thủy sản, 2011. Chương trình phát triển ngành thủy sản
Việt Nam đến năm 2020. Hà Nội.
[3] Cục Thống kê tỉnh Quảng Bình, 2010. Báo cáo sản lượng khai thác thủy sản ở
tỉnh Quảng Bình qua các năm. Quảng Bình.
[4] Cục Thống kê tỉnh Quảng Bình, 2010. Tổng kết hoạt động KT - XH tỉnh Quảng
Bình năm 2010. Quảng Bình.
[5] Đảng bộ Tỉnh Quảng Bình, 2010. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh Quảng Bình
lần thứ XV. Quảng Bình.
[6] Vũ Phi Hoàng, 1990. Biển Việt Nam. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[7] Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Bình, 2006. Chương trình phát
triển thủy sản giai đoạn 2006-2010. Quảng Bình.
[8] UBND Huyện Quảng Trạch, 2006. Đề án phát triển thủy sản giai đoạn 20062010. Quảng Trạch
[9] Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam, 2007. Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy sản Việt Nam. Hà Nội.
ABSTRACT
Evaluating the efficiency of development of the Fishery economy
in Quang Binh province period between 2005 – 2010

Fishery economy is renewable resources; fishery economy develops based on
ecosystems. Viet Nam has got the low stem with difficult and backward conditions,
therefore fisheries play important part in lives of the population in coastal rural
areas. Fishing, aquaculture and processing seafood are basic fields in the fishery
economy. Evaluating the status of fishery economics will help to promote the efficiency of this field in Quang Binh province. This article focuses on achievements
and limitations that fishery economy in Quang Binh experienced from the period of
2005 to 2010.

155



×