Tải bản đầy đủ (.docx) (136 trang)

Quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5 6 tuổi ở các trường mầm non tư thục quận hà đông, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.73 KB, 136 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THANH HIỂN

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC
CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC
QUẬN HÀ ĐÔNG, HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THANH HIỂN

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CHO
TRẺ 5-6 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC
QUẬN HÀ ĐÔNG, HÀ NỘI

Ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 8.14.01.14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MẠNH HẢI

HÀ NỘI, 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của
tôi; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng
không sao chép ở bất cứ một công trình kha học nào khác.
Hà Nội, tháng 10 năm 2020
Tác giả luận văn

Phạm Thị Thanh Hiển


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN
NHẬN THỨC CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON..........12
1.1. Đặc điểm nhận thức của trẻ 5-6 tuổi......................................................... 12
1.3. Quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm
non.................................................................................................................... 24
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5
- 6 tuổi.............................................................................................................. 28
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHẬN
THỨC CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC
QUẬN HÀ ĐÔNG, HÀ NỘI............................................................................. 33
2.1. Khái quát về giáo dục mầm non quận Hà Đông.......................................33
2.2. Tổ chức khảo sát thực trạng......................................................................35
2.3. Thực trạng hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường
mầm non tư thục quận Hà Đông......................................................................37
2.4. Thực trạng quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5-6 tuổi ở các
trường mầm non tư thục quận Hà Đông...........................................................44
2.5. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động phát triển nhận

thức cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non tư thục quận Hà Đông................52
Chương 3 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHẬN
THỨC CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC
QUẬN HÀ ĐÔNG, HÀ NỘI............................................................................. 58
3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp.............................................................58
3.2. Những biện pháp quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5-6 tuổi ở
các trường mầm non tư thục ở quận Hà Đông.................................................59
3.3. Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp.................................73
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.................................................................... 78
PHỤ LỤC........................................................................................................... 84


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

CBQL :

Cán bộ quản lý

ĐTB :

Điểm trung bình

GDMN :

Giáo dục mầm non

GV :

Giáo viên


MN :

Mầm non


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Đối tượng khảo sát........................................................................ 36
Bảng 2.2. Mức độ đánh giá........................................................................... 38
Bảng 2.3. Mục tiêu phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi............................ 38
Bảng 2.5. Phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động phát triển nhận thức
40

Bảng 2.6. Điều kiện hỗ trợ hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi
42

Bảng 2.10. Đánh giá của CBQL và GV về tổ chức thực hiện hoạt động......47
phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi........................................................... 47
Bảng 2.11. Chỉ đạo hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi...........48
Bảng 2.12. Đánh giá của CBQL và GV về chỉ đạo hoạt động phát triển......49
nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi............................................................................ 49
Bảng 2.13. Kiểm tra, đánh giá hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6
tuổi................................................................................................................ 50
Bảng 2.14. Đánh giá của CBQL và GV về kiểm tra, đánh giá hoạt động.....51
phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi........................................................... 51
Bảng 2.15. Yếu tố thuộc về CBQL................................................................ 52
Bảng 2.16. Yếu tố thuộc về
.GV và trẻ 5 - 6 tuổi....................................................................................... 53
Bảng 2.17. Yếu tố thuộc về gia đình............................................................. 54
Bảng 2.18. Yếu tố thuộc về môi trường và điều kiện cơ sở vật chất.............55

Bảng 3.1. Tính cấp thiêt................................................................................ 74
Bảng 3.2. Tính khả thi................................................................................... 75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
chịu trách nhiệm chăm sóc - giáo dục trẻ từ 0 - 6 tuổi. Đây là giai đoạn đặt nền
móng đầu tiên quan trọng của nhân cách con người. Nếu không làm tốt việc
chăm sóc - giáo dục trẻ trong những năm này thì việc giáo dục lại hết sức khó
khăn, phức tạp. Vì vậy, Nghị quyết TW2, khoá VIII của Đảng cộng sản Việt Nam
về "Định hướng chiến lược giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và đề ra mục tiêu giáo dục Mầm non phải trang bị cho trẻ những gì
tốt nhất kể cả về mặt vật chất và tinh thần một cách toàn diện”.
Đứng trước tình hình đổi mới của đất nước, cùng với sự phát triển không
ngừng của nền giáo dục nước nhà, đứng trước thời kỳ hội nhập kinh tế, đất nước
đang trên đường mở cửa những ảnh hưởng không nhỏ của nền nhiều nền văn hóa
khác nhau. Thì việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa vốn có của cha ông
ta từ ngàn xưa là nhiệm vụ cần và cập nhật nhất. Bên cạnh đó, việc tiếp thu
những tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu thêm bản sắc văn hóa riêng
của dân tộc mình cũng là vấn đề cần thiết- làm thế nào để cho thế hệ trẻ của
chúng ta "Hoà nhập mà không hoà tan".
Từ ngàn xưa kinh nghiệm của cha ông ta đã đúc kết nhiệm vụ học đầu tiên
của mỗi con người phải là "Tiên học lễ, hậu học văn" lễ phép là nét đẹp văn hoá
được đặt lên hàng đầu khi nhìn nhận và đánh giá về một ai đó mà chúng ta
thường bàn luận. Trong thời đại hiện nay, tiếp thu nhiều nền văn hoá khác nhau
nên đâu đó vẫn còn nhiều câu chuyện thương tâm về đạo đức, lễ giáo của con
người, việc mà tôi và các bạn đã nghe và thấy trên thông tin đại chúng, trong
cuộc sống hằng ngày. Chính vì thế phát triển nhận thức của trẻ 5 - 6 tuổi cần phải
được chú trọng kịp thời. Đó cũng là các chủ nhân tương lai của đất nước.

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám, Khóa XI, Nghị quyết về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ mục tiêu: “Đối với giáo

1


dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình
thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1”. Có
thể nói, những định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng, sự cụ thể hóa của
ngành giáo dục Việt Nam đã luôn bám sát thực tế của nền giáo dục toàn cầu
trong các giai đoạn cụ thể. Trẻ từ dưới 2 tuổi đã bắt đầu tiếp thu từ môi trường
sống xung quanh, như giọng nói của người lớn khi trò chuyện với trẻ, cách thức
tiếp xúc của trẻ...tất cả đều là tác động đến sự phát triển của trẻ. Vì vậy, việc giáo
dục để phát triển nhận thức của trẻ cần được tiến hành từ bậc học mầm non, bậc
học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam để giúp trẻ phát triển
hài hòa, toàn diện về nhân cách. Giúp các em hiểu những nội dung kiến thức và
vận dụng được những kỹ năng sống được cung cấp thành những hành động cụ
thể trong quá trình sống và hoạt động thực tiễn, ứng phó trước nhiều tình huống
mới nảy sinh, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, giải quyết mâu thuẫn
trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực.
Phát triển nhận thức cho trẻ ở giai đoạn lứa tuổi mầm non có vai trò quan
trọng. Đặc biệt đối với trẻ ở lứa tuổi 5- 6 tuổi giai đoạn này chính là thời điểm
bước ngoặt, là sự kiện quan trọng khiến các nhà giáo dục cần quan tâm, một mặt
là để giúp trẻ hoàn thiện những thành tựu phát triển tâm lý trong suốt thời kỳ
mẫu giáo, mặt khác là sự chuẩn bị tích cực cho trẻ đủ điều kiện để làm quen dần
với hoạt động học tập và cuộc sống ở trường phổ thông, để trẻ bước vào lớp 1
với sự tự tin, thích nghi nhanh chóng với môi trường giáo dục mới thì việc chuẩn
bị sẵn sàng về mặt tâm lý đến học tập ở trường tiểu học là nhiệm vụ quan trọng
bậc nhất của giai đoạn giáo dục mẫu giáo nói chung và trẻ ở lứa tuổi 5 - 6 tuổi
nói riêng. Trẻ bước vào trường học ngoài mặt tâm lý, vốn tri thức nhất định về

thế giới xung quanh thì phải có các chuẩn mực hành vi đạo đức, kỹ năng cần
thiết giúp trẻ nhanh chóng gia nhập vào tập thể lớp, tìm được vị trí của mình
trong tập thể đó, có ý thức trách nhiệm trong các hoạt động. Do đó, công tác
quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ trong các trường mầm non có tầm

2


là hết sức quan trọng đối với các nhà quản lý nhà trường mầm non cũng như các
cấp quản lý giáo dục mầm non ở nước ta.
Thực tế công tác quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ mầm non
trong nhà trường luôn mang tính thời sự bởi mâu thuẫn giữa sự gia tăng dân số
cơ học, nhu cầu đưa trẻ đến trường cao, yêu cầu chất lượng ngày càng tăng và đa
dạng với khả năng đáp ứng của ngành giáo dục và các địa phương còn hạn chế,
đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Ở quận Hà
Đông, thành phố Hà nội, trong những năm qua, công tác quản lý hoạt động phát
triển nhận thức cho trẻ 5-6 tuổi trong các trường mầm non nói chung và các
trường mầm non tư thục nói riêng cũng còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ và chưa
đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Các hoạt động quản lý chưa
phát huy tính năng động, sáng tạo của giáo viên, chưa gắn kết được vai trò của
các lực lượng giáo dục trong việc tổ chức quản lý hoạt động phát triển nhận thức
cho trẻ 5 - 6 tuổi, chưa chú trọng đến việc chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức hoạt động,
phương pháp, nội dung hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi một cách
hệ thống…
Xuất phát từ những lí do trên đây, tôi chọn đề tài: “Quản lý hoạt động
phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi ở các trường mầm non tư thục quận Hà
Đông, Hà Nội” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hoạt động nhận thức là một hoạt động quan trọng của con người, là khởi
nguồn của mọi sự hiểu biết. Nhận thức đúng sẽ dẫn tới hành động đúng và ngược

lại, nghĩa là nhận thức định hướng cho mọi hành động của con người. Trong độ
tuổi mầm non thì nhận thức thế giới xung quanh bằng các giác quan, thông qua
các hoạt động, giao tiếp với người lớn, với bạn trong cuộc sống hàng ngày và
trong các hoạt động giáo dục dưới sự hướng dẫn của người lớn, như: làm quen
với toán, âm nhạc, văn học, tạo hình, vận động. Vì là một thành phần không thể
thiếu được trong tâm lý người và có vai trò quan trọng trong đời

3


sống tâm lý người nên nhận thức được rất nhiều nhà tâm lý, giáo dục đã quan
tâm nghiên cứu.
2.1. Nghiên cứu quốc tế
Các nhà tâm lý học hàng đầu trên thế giới luôn quan tâm nghiên cứu tâm
lý trẻ em lứa tuổi mầm non và đặc biệt là sự phát triển nhận thức của trẻ. Điển
hình nhà tâm lý học Jean Piaget sinh ngày 9-8-1896 ở Thụy Sĩ, mất ngày 16-091980. Ông là một chuyên gia về tâm lý trẻ em nổi tiếng chưa từng nhận một bằng
đại học Tâm lý nào. Sự quan tâm chính của ông trong lĩnh vực Tâm lý đó là
nghiên cứu về những yếu tố sinh học ảnh hưởng đến quá trình hiểu biết của
chúng ta. Một trong những đóng góp quan trọng, đánh dấu tầm ảnh hưởng của
ông trong lĩnh vực Tâm lý học Phát triển nói riêng và Tâm lý học nói chung, là
thuyết Phát sinh Nhận thức (Piaget’s Theory of Cognitive Development). Luận
thuyết của ông cung cấp cho chúng ta thấy một cái khung để nhìn thấy sự phong
phú và phức tạp của phát triển nhận thức.
Cùng quan điểm với các nhà tâm lý E. Claparét, V. Stécnơ, K. Buler, J.
Piaget khẳng định trẻ em là một thực thể phi xã hội, chỉ “suy nghĩ về mình và
theo quan điểm của mình” nên tư duy của trẻ là mơ hồ, không có logic. Tư duy
của trẻ sẽ chuyển sang trình độ của những thao tác logic trong quá trình sống và
tiếp xúc với người lớn.
Vì thuyết của Piaget một mặt cố kết hợp sự trưởng thành và kinh nghiệm
và mặt khác là sự phát triển nhận thức và xã hội, đã truyền cảm hứng cho các nhà

theo thuyết Phát triển với nhiều loại quan tâm đa dạng. Một trong những người
có ảnh hưởng nhất trong số này là Lawrence Kohlberg, người xây dựng thuyết
Lập luận đạo đức của mình trên nền tảng thuyết Phát triển nhận thức chung của
Piaget.
Patricia H. Miler (1983) đã khẳng định trong những nhà tâm lý hậu Piaget
có đại diện ở đây là Robbie Case (1985) nhà lý luận và nghiên cứu chính. Công
trình của Robbie Case nặng về xây dựng khả năng trí nhớ hoặc như ông nói,

4


“không gian diễn tiến của thực hiện”: “ Số tối đa về các sơ cấu độc lập mà một
trẻ có thể hoạt hóa bất kỳ thời gian nào” [33, tr. 87].
Bên cạnh đó, không thể không kể đến nhà tâm lý học Liên Xô L. X.
Vưgôtxki (1834 -1896) đã để lại công trình nghiên cứu thuyết của VyGotsky: Trí
tuệ và văn hóa. Công trình của ông biểu thị đặc điểm phát triển nhận thức không
phải là sự tiến hành đơn độc mà là sự cộng tác giữa chuyên gia và người mới
học. Công trình của ông nhắc chúng ta tầm quan trọng của ngôn ngữ.
Bộ ba nhà nghiên cứu hàng đầu Flavell, J.H., Miller, P. H., & Miller, S. A
(1993) đã biên soạn quyển sách mô tả sự phát triển nhận thức trong tuổi ẵm ngửa
và những năm trước tuổi đến trường. Trình bày thuyết của Piaget và Vygotsky,
như quan điểm xử lý thông tin [30].
Bartsch, K, & Wellman, H, M (1995) đã sử dụng các mẫu trò chuyện của trẻ
trong thực tế để chứng minh sự phát triển hiểu biết trí tuệ của trẻ. Wellman là một
trong những nhà điều tra thuyết trí tuệ trong khi Batsch là học trò của ông [29].

Siegler, R, S. (1998) là người ủng hộ hàng đầu tiếp cận xử lý thông tin
trong phát triển nhận thức, và trong sách này ông đã phản ánh định hướng ấy.
Ông thảo luận thuyết và ngôn ngữ của Piaget nhưng đề cập nhiều về các chủ đề
xử lý thông tin như là trí nhớ, giải quyết vấn đề và kỹ năng học thuyết [35].

Theo lý thuyết về "các giai đoạn hình thành thao tác trí tuệ" của P.Ia
Ganpêrin, chúng ta có thể hình thành những tiền khái niệm khoa học cho trẻ ở
tuổi mẫu giáo lớn mà không cần dựa trực tiếp vào các biểu tượng như trước và
có thể xem đây là một mặt quan trọng của sự phát triển trí tuệ (đứng về mặt lý
thuyết là như vậy).
M.

Xêtsênốp đã chỉ ra nguồn gốc của tư duy là quan sát - nhận thức cảm

tính về thế giới xung quanh. Tuy nhiên đứa trẻ không quan sát một cách thụ động
mà tác động tích cực vào đối tượng khi tri giác chúng. Chính trong quá trình
hành động với đồ vật trẻ học được cách đối chiếu, so sánh, phân tích các sự
vật. Như vậy, theo ông thì cơ sở để hình thành tư duy logic cao cấp chính là các

5


hành động thực tiễn của trẻ. Đây là quan niệm căn bản cho những nghiên cứu sau
này của các nhà tâm lý về quá trình phát triển tư duy của trẻ em [17].
Robert V.Kail và John C. Cavanaugh (1996), hai ông đều là người Mỹ. Trong
cuốn sách hai ông đã trình bày sự hình thành, phát triển tâm - sinh lý con người (cá
nhân) từ khi là thai nhi cho đến khi mất đi mà con người phải thử nghiệm, cùng với
những thực tế gì sẽ tạo ra và thúc đẩy sự hình thành tâm lý đó, đồng thời nêu ra
những phúc lơị xã hội nên và cần có để đảm bảo cho tâm sinh lý con người phát
triển thành những nhân cách có lợi cho xã hội, cho nhân loại. Trong cuốn sách này
hai tác giả cũng đã nêu quan điểm của mình về sự nhận thức qua phân tích thuyết
của 2 nhà tâm lý học vĩ đại Jean Piaget và VyGotsky [34].

2.2. Nghiên cứu trong nước
Các nhà khoa học trong nước cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về

hoạt động nhận thức và nhất là sự quan tâm đến hoạt động phát triển nhận thức
cho trẻ mầm non như tác giả Nguyễn Công Khanh, Đinh Thị Kim Thoa, Nguyễn
Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Như Mai… Tư tưởng chính của các tác giả là trình bày
bộ môn Tâm lý học trẻ em tuổi mầm non như một khoa học mà đối tượng là sự
phát triển tâm lý chứ không phải chỉ là bản thân những đặc điểm tâm lý này. Khi
trình bày mỗi giai đoạn lứa tuổi, mỗi mặt của sự phát triển tâm lý, các tác giả
dành vị trí trung tâm cho những vấn đề có sự liên quan đến quá trình phát triển,
các tiền đề xuất phát của sự phát triển, các cấu tạo tâm lý mới nảy sinh trong quá
trình phát triển, các điều kiện cơ bản của sự phát triển và các kết quả cuối cùng
của từng giai đoạn phát triển. Những tài liệu mang tính chất mô tả liên quan đến
đặc điểm lứa tuổi trẻ em chỉ được sử dụng ở chừng mực cần thiết để giúp cho
người đọc hiểu rõ thêm quá trình phát triển [13], [23].
Phạm Minh Hạc, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy đã có nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề tri giác và tư duy và đã kết luận tri giác không những
chịu ảnh hưởng của các tác nhân kích thích mà còn bị chi phối bởi các nhân tố
bên trong chủ thể như thái độ, nhu cầu, hứng thú, động cơ…[11], [27], [22].

6


Phạm Hoàng Gia (1978) , Nguyễn Công Khanh (2009) thì cho rằng cốt lõi
của tư duy là trí thông minh, quá trình lĩnh hội các khái niệm cũng chính là quá
trình phát triển tư duy và là cơ sở để tạo nên trí thông minh. Với trẻ mẫu giáo sự
thể hiện trong các thao tác với đồ vật và trong chính các hoạt động của trẻ là biểu
hiện sự thông minh của chúng [8], [13].
Trương Thị Thùy Anh (2017) lại có một hướng nghiên cứu độc đáo, tập
trung vào vai trò của đồng dao trong sự phát triển nhận thức của trẻ mẫu giáo.
Đồng dao không chỉ mở rộng nhận thức về thế giới xung quanh mà còn đóng vai
trò trong việc giúp trẻ em nói chung, trẻ mầm non nói riêng phát triển ngôn ngữ,
thể chất, thẩm mĩ, tình cảm xã hội [2].

Hoàng Nam Hải (2019) cho rằng sự phát triển tâm lý của con người phải
trải qua nhiều giai đoạn. Những giai đoạn này được liên kết chặt chẽ với sự phát
triển của các hoạt động của con người. Khi trẻ chuyển từ tuổi này sang tuổi khác,
luôn có những cấu trúc tâm lý mới chưa bao giờ xuất hiện trong giai đoạn trước.
Những cấu trúc mới này làm thay đổi nhận thức của trẻ trong quá trình phát
triển, gây ra những khó khăn trong các hoạt động nhận thức, đặc biệt là trong
việc học toán. Bài báo cung cấp một số biện pháp hỗ trợ nhận thức cho học sinh
khi bắt đầu cấp tiểu học dạy toán [10].
Một số tác giả nghiên cứu những vấn đề về hứng thú nhận thức, tính tích
cực nhận thức của trẻ điển hình như tác giả Hoàng Thị Phương (2012), Nguyễn
Thị Bảy, Nguyễn Thị Linh (2014), Lường Thị Định (2019) [21], [3], [7]. Tác giả
Lường Thị Định đã trình bày kết quả khảo sát về tình trạng phát triển sự quan
tâm nhận thức trong hoạt động học tập cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi của giáo viên
mầm non tại huyện Thuận Châu, Sơn Tỉnh La, giúp giáo viên mầm non khám
phá những hạn chế và lợi thế của việc tổ chức các hoạt động học tập để phát triển
và duy trì sự quan tâm cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Trên cơ sở đó, đề xuất các biện
pháp hiệu quả để cải thiện lợi ích nhận thức đang phát triển cho trẻ 5-6 tuổi trẻ
mẫu giáo trong huyện [7].

7


Nhiều giáo viên mầm non đã có những sáng kiến kinh nghiệm tổ chức
hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ ở lứa tuổi mầm non. Tiểu biểu Vũ Huyền
Trinh (2014) đưa ra cách tổ chức hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ mầm
non thông qua việc hình thành biểu tượng ban đầu về toán [26]. Hồ Lam Hồng &
Nguyễn Ngọc Linh (2019) trình bày một số cơ sở để xây dựng một hệ thống đồ
chơi cho sự phát triển nhận thức của trẻ mẫu giáo [12].
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên đều đưa ra các phương pháp, biện
pháp cụ thể, phù hợp nhằm phát triển nhận thức cho trẻ dựa vào đặc điểm phát

triển của trẻ em Việt Nam và các nhà nghiên cứu giáo dục đều khẳng định phát
triển nhận thức là nền tảng quan trọng quyết định đến mọi mặt phát triển toàn
diện sau này của trẻ. Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trên, tác giả
nghiên cứu, đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ
5-6 tuổi tại các trường mầm non tư thục tại quận Hà Đông là rất cần thiết nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động phát triển nhận thức và chuẩn bị tốt các
điều kiện cho trẻ sẵn sàng bước vào lớp một theo Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5
tuổi Ban hành kèm theo Thông tư số 23/2010/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm
2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động phát triển nhận thức
cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non và khảo sát, nghiên cứu thực tiễn quản lý
hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non tư thục
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất các biện pháp quản lý hoạt
động phát triển nhận thức cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non tư thục trên địa
bàn quận Hà Đông, Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Tổng hợp, xây dựng cơ sở lý luận về quản lý hoạt động phát triển nhận

thức cho trẻ 5-6 tuổi ở trong trường mầm non.

8



-

Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động phát triển

nhận thức cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non tư thục quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội.
-

Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5-6

tuổi ở các trường mầm non tư thục quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5-6 tuổi ở các
trường mầm non tư thục quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khảo sát cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh trong nhà trường ở 6
trường mầm non tư thục quận Hà Đông:
-

Trường mầm non Tuổi Thần Tiên; - Trường mầm non Thái Học

Trường mầm non Hà Nội Thăng Long; - Trường mầm non Mùa
Xuân;
-

Trường mầm non Hoàng Trình Thanh; - Trường mầm non Ngôi Nhà

Sinh Thái.
Đề tài khảo sát thực trạng trong thời gian 3 năm từ năm học 2016-2017

đến năm học 2018-2019.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở một số nguyên tắc phương pháp
luận của quản lý giáo dục.

5.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích và tổng hợp tài liệu, nghiên cứu lý luận liên quan để xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra: Điều tra bằng phiếu hỏi đối với cán bộ
quản lý,
giáo viên trong nhà trường.


9


Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Hỏi ý kiến của các chuyên
gia để
xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu, nhận định, đánh giá trực trạng và gợi ý biện
pháp thiết thực, phù hợp thực tiễn.
-

Phương pháp tổng kết thực tiễn: Tổng kết thực tiễn quá trình hoạt động

quản lý nhà trường, giáo dục, rèn luyện để phát triển nhân thức cho trẻ trong các
nhà trường.

5.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ
Đề tài sử dụng một số phương pháp thống kê toán học để tổng hợp, phân
tích số liệu; sử dụng một số ứng dụng công nghệ thông tin để tính toán và thể
hiện luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
-

Đề tài thành công sẽ góp thêm một bản tổng hợp lý luận về quản lý phát

triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trưởng mầm non; làm tham khảo, tham chiếu
cho các nghiên cứu liên quan.
Đề tài thành công sẽ cung cấp cho Giáo dục mầm non quận Hà
Đông
bức tranh thực trạng về quản lý phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi ở các
trường mầm non tư thục trên địa bàn quận; gợi ý, khuyến nghị những biện pháp
quản lý hoặc có thể vận dụng vào công tác quản lý của mỗi đơn vị, cá nhân trong
phát triển nhận thức cho trẻ mầm non trường tư thục nói riêng và các trường
mầm non trên địa bàn quận nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho
trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5-6
tuổi ở các trường mầm non tư thục quận Hà Đông, Hà Nội.


10



Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5-6
tuổi ở các trường mầm non tư thục quận Hà Đông, Hà Nội.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN
NHẬN THỨC CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Đặc điểm nhận thức của trẻ 5-6 tuổi
Muốn phát triển nhận thức cho trẻ ở bất kì lứa tuổi nào có hiệu quả trước
tiên các nhà giáo dục cần hiểu rất rõ những đặc điểm tâm lý nói chung và đặc
điểm nhận thức của trẻ ở từng lứa tuổi. Ở đây, tác giả chỉ tập trung tìm hiểu về
đặc điểm nhận thức của trẻ 5 - 6 tuổi.
1.1.1. Tư duy
Theo Nguyễn Ánh Tuyết (2014) với trẻ 5 - 6 tuổi phát triển cả 3 loại tư duy,
tư duy hành động trực quan, tư duy trừu tượng, tư duy hình ảnh trong đó tư duy
hành động trực quan vẫn chiếm ưu thế. Tư duy hình ảnh trực quan, tư duy trừu
tượng được phát triển ở trẻ và giúp trẻ đến gần với hiện thực khách quan [24].

Sự phát triển tư duy ở độ tuổi này mạnh mẽ về kiểu loại, các thao tác. Trẻ
đã biết phân tích tổng hợp không chỉ dừng lại ở đồ vật, hình ảnh mà ngay cả từ
ngữ. Tư duy của trẻ dần dần mất đi tính duy kỷ, tiến dần đến khách quan, hiện
thực hơn. Dần dần trẻ phân biệt được thực và hư. Đã có tư duy trừu tượng với
các con số, không gian, thời gian, quan hệ xã hội...Ý thức rõ về những ý nghĩ,
tình cảm của mình, trách nhiệm đối với hành vi. Các phẩm chất của tư duy đã
bộc lộ đủ về cấu tạo và chức năng hoạt động của nó như tính mục đích, độc lập
sáng tạo, tính linh hoạt, độ mềm dẻo... Cùng với sự phát triển của tư duy - hình
tượng, kiểu tư duy trực quan - sơ đồ bắt đầu phát triển ở cuối tuổi mẫu giáo. Tư
duy trực quan - sơ đồ giúp trẻ hiểu ra một nguyên lí khá trừu tượng là bất cứ một

đối tượng nguyên vẹn nào cũng đều được chia thành nhiều bộ phận và có thể
khôi phục những bộ phận đó lại thành một chỉnh thể. Đồng thời ở lứa tuổi này
cũng xuất hiện một số yếu tố tư duy logic.
1.1.2. Cảm giác - tri giác

12


Trẻ 5 - 6 tuổi dễ dàng hòa đồng vào các sự kiện, hòa mình với nhân vật, hòa
mình vào trong các hình tượng trong các tác phẩm nghệ thuật, đồng nhất, biến mình
trong đó. Với đặc trưng tâm lý lứa tuổi riêng biệt, trẻ cảm nhận cuộc sống luôn hiện
ra những điều mới mẻ, ngay cả cuộc sống bình thường diễn ra hằng ngày đối với trẻ
cũng đầy sự mới lạ, hấp dẫn. Tuy nhiên, mọi sự vật, hiện tượng, mọi suy nghĩ, hành
động nằm trong mối quan hệ với chính bản thân chủ thể. Khả năng đồng hóa này
khiến trẻ có thể giao cảm với thế giới con người, tự nhiên trong tác phẩm nghệ thuật
từ đó, trẻ thể hiện sự cảm nhận của mình bằng các cảm xúc tích cực: chú ý lắng
nghe, ngắm nhìn, vui sướng, vỗ tay, dùng những từ gợi cảm hoặc bằng những cảm
xúc tiêu cực như sợ hãi, tức giận, chê bai... Ở lứa tuổi này cùng với sự hoàn thiện
của các giác quan thì hoạt động cảm nhận của trẻ tiếp tục được hoàn thiện, độ nhạy
cảm của các giác quan được nâng cao, việc phân tích các thuộc tính của sự vật hiện
tượng xung quanh hiệu quả hơn trước. Hệ thống tín hiệu thứ hai tham gia tích cực
hơn vào quá trình phân tích làm cho cảm giác trở nên chính xác, cụ thể hơn và đồng
thời làm cho cảm giác có tính “tự giác”. Cùng với cảm giác, tri giác của trẻ cũng
phát triển mạnh. Chính độ nhạy cảm cao của các giác quan, cũng như sự phối hợp
hoạt động hài hòa, linh hoạt, mềm dẻo của chúng giúp cho các quá trình nhận thức
của trẻ diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. Trẻ 5-6 tuổi luôn thích khám phá, tò mò,
thích quan sát, tìm hiểu thế giới xung quanh và đặc biệt hứng thú với những điều
mới lạ. Đây là một điều kiện thuận lợi để các nhà giáo dục thực hiện nhiệm vụ giáo
dục nhận thức cho trẻ.


1.1.3. Chú ý
A.V.Đaparôjet (1977) quan niệm rằng “Khả năng chú ý ở trẻ 5-6 tuổi có
thể kéo dài từ 35-50 phút nếu đối tượng đó hấp dẫn, có nhiều thay đổi, kích thích
được sự tò mò, ham hiểu biết của trẻ” [1, tr. 74]
Nguyễn Ánh Tuyết (2014) cho rằng nhiều phẩm chất chú ý của trẻ 5 - 6 tuổi
đã được phát triển, trẻ biết hướng ý thức của mình vào các đối tượng cần cho vui
chơi, học tập hoặc lao động tự phục vụ. Trẻ có thể phân phối được chú ý vào 2,3 đối

13


tượng cùng một lúc, tuy nhiên thời gian phân phối chú ý chưa bền vững, dễ dao
động [24].


lứa tuổi mẫu giáo, chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế và đặc điểm

này còn kéo dài tới tuổi mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Trẻ thường chú ý tới những đối tượng
khi đối tượng đó gây ra một kích thích mạnh, hoặc một sự ngạc nhiên, nhất là tạo
cho trẻ một sự hứng thú. Với sự phát triển của tính chủ định và ý thức thì khả năng
chú ý của trẻ 5 - 6 tuổi đã có sự thay đổi cơ bản: trẻ bắt đầu điều khiển chú ý của
mình vào những đối tượng nhất định, tức chú ý có chủ định dần hình thành và phát
triển mạnh. Chú ý có chủ định được phát triển trong quá trình giáo dục. Nó được
hình thành và phát triển mạnh với những loại kích thích mới, một trong số đó là
kích thích bởi ngôn ngữ nói tác động từ bên ngoài. Trẻ 5-6 tuổi đặc biệt nhạy cảm
với ngôn ngữ nói. Trẻ hướng sự chú ý của mình tới những đặc điểm của lời nói như
giọng điệu, ngữ điệu, cách phát âm... Giọng điệu có ý nghĩa kích thích sự chú ý ở độ
chính xác, tỉ mỉ. Trẻ nhận ra được thái độ, tình cảm (thiện cảm, thân thương, trìu
mến hay thờ ơ, lạnh lùng, bực bội...) của người lớn, bạn bè xung quanh.


Bởi vậy, việc rèn luyện chú ý có chủ định giúp trẻ chú ý vào những vấn đề
trẻ không thật sự hứng thú sẽ rất cần thiết cho sự tiếp thu kiến thức của trẻ. Nếu
không chú ý có chủ định, trẻ sẽ không đặt cho mình nhiệm vụ chú ý cụ thể, sự
nhận thức sẽ phân tán, trẻ không thể tiếp thu kiến thức một cách có hệ thống, đầy
đủ. Trong hoạt động học tập, để giải quyết các nhiệm vụ nhận thức, chú ý có chủ
định giúp trẻ phát hiện nhanh vấn đề, từ đó kích thích hứng thú nhận thức của trẻ
phát triển.
1.1.4. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ của trẻ phát triển với một tốc độ rất nhanh cả về số lượng và chất
lượng trong thời kỳ trẻ học mẫu giáo. Với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, Nguyễn Ánh
Tuyết (2014) yêu cầu trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ theo hướng phải nắm vững
ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ, vốn từ và cơ cấu ngữ pháp phát triển.
Trẻ tích lũy được hàng nghìn từ tích cực không những chỉ về danh từ, động từ mà

14


cả các đại từ, tính từ và quan hệ từ... Trẻ đã có kỹ năng kết hợp các từ trong hầu
hết các mẫu câu theo quy tắc ngữ pháp tiếng mẹ đẻ. Trẻ 5-6 tuổi đã bắt đầu hiểu
nghĩa của các từ, biết sử dụng tiếng mẹ đẻ để diễn đạt rõ ràng, mạch lạc ý nghĩ
và từng bước thể hiện các sắc thái xúc cảm phù hợp trong lời nói. Việc sử dụng
ngôn ngữ trong giao tiếp và các tính chất của ngôn ngữ ở trẻ phụ thuộc phần lớn
vào việc hướng dẫn và sự gương mẫu về lời nói của người lớn [24].
Trẻ 5-6 tuổi có nhu cầu hiểu biết nên thường hay đặt câu hỏi “Vì sao?” và
mong muốn người lớn giải thích. Mặt khác, trẻ cũng có nhu cầu giải thích cho
người lớn và các bạn cùng tuổi hiểu được những ý nghĩ của mình. Bên cạnh đó
khả năng giải thích bằng ngôn ngữ cũng đang được phát triển trong độ tuổi này.
Kiểu ngôn ngữ này đòi hỏi trẻ phải trình bày ý kiến của mình theo một trình tự
nhất định, phải nêu bật những điểm chủ yếu và những mối quan hệ, liên hệ giữa
các sự vật hiện tượng một cách hợp lý để người nghe có thể hiểu và chấp nhận.

Như vậy, có thể nói rằng, ngôn ngữ mạch lạc của trẻ 5-6 tuổi thể hiện trình độ
phát triển tương đối cao không những về phương diện ngôn ngữ mà cả về
phương diện tư duy. Muốn cho ngôn ngữ được mạch lạc thì những điều trẻ định
nói cần phải được rõ ràng ngay từ trong đầu, tức là cần có tư duy hỗ trợ.
1.1.5. Trí nhớ
John W. Santrock (2011) cho biết trí nhớ của trẻ được cải thiện đáng kể sau 2
tuổi. Đôi khi trí nhớ dài hạn của trẻ lứa tuổi mầm non có vẻ không ổn định, nhưng
chúng có thể nhớ được rất nhiều thông tin nếu được gợi nhắc phù hợp [32].
Với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, trí nhớ phát triển mạnh song chủ yếu vẫn là trí nhớ
không chủ định. Trẻ thường ghi nhớ chủ yếu những gì gây hứng thú hoặc gây ấn
tượng mạnh cho trẻ. Do đó, những sự vật hiện tượng nào gây chú ý cho trẻ nhiều
hơn, trẻ tập trung chú ý quan sát, lắng nghe giải thích thì trẻ sẽ ghi nhớ cái đó kỹ
hơn. Tuy nhiên trí nhớ của trẻ 5-6 tuổi vẫn đặc trưng bởi đặc điểm trí nhớ trực quan
hành động. Vì thế giáo viên mầm non cần phải dùng nhiều loại học cụ trực quan,

15


cho trẻ hành động với đồ vật, tổ chức quá trình ghi nhớ cho trẻ khoa học hơn để
trẻ ghi nhớ tốt hơn.
Ngoài ra trẻ 5 - 6 tuổi cũng bắt đầu hình thành trí nhớ logic. Trẻ ghi nhớ
cái gì đó có ý nghĩa tốt hơn những cái không có ý nghĩa và vì thế trẻ ở lứa tuổi
này không phải chỉ có ghi nhớ máy móc mà còn có khả năng ghi nhớ ý nghĩa.
Đến giai đoạn này thì trí nhớ có chủ định được phát triển trên nền tảng vững
chắc hơn. Từ chỗ trẻ chưa biết đặt một nhiệm vụ ghi nhớ nào cả, dần chuyển
sang ghi nhớ có chủ định, có mục đích.
1.1.6. Đặc điểm nhận thức của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, sự nhận thức của trẻ có rất nhiều thay đổi. Hoàng
Thị Oanh, Nguyễn Thị Xuân (2016) cho rằng ở lứa tuổi này, trẻ đã tương đối biết
nhiều về bản thân, biết điều khiển những cảm xúc và hành vi, điều đó tạo điều kiện

cho sự chủ động của hành vi. Ở tuổi này, ý thức bản ngã của trẻ đã được xác định,
trẻ đã có khả năng so sánh mình với những người khác. Trẻ có thể lĩnh hội các khái
niệm sơ đẳng và các kết luận, lập luận khi được dạy dỗ. Trẻ đã hiểu biết được giới
tính của mình và biết phải thể hiện thế nào cho phù hợp với giới tính. Trẻ có khả
năng tổng hợp và khái quát hóa đơn giản những dấu hiệu tiêu biểu bên ngoài. Trẻ
biết so sánh đặc điểm giống và khác nhau của một vài đối tượng, biết phân nhóm
các đối tượng theo một hay vài dấu hiệu rõ nét [20].

Theo Nguyễn Ánh Tuyết (2014) các hiện tượng tâm lý như tri giác, trí
nhớ, tưởng tượng về cơ bản là sự nối tiếp sự phát triển ở lứa tuổi từ 4 - 5 tuổi
nhưng chất lượng mới hơn. Thể hiện ở:
+

Mức độ phong phú của các kiểu loại

+

Mức độ chủ định các quá trình tâm lý rõ ràng hơn, có ý thức hơn.

+

Tính mục đích hình thành và phát triển ở mức độ cao hơn.

+

Độ nhạy cảm của các giác quan được tinh nhạy hơn.

+

Khả năng kiềm chế các phản ứng tâm lý được phát triển.


16


Nhìn chung, trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi đã có nhận thức rất tốt. Trẻ biết thực
hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình, có ý thức đối với hành vi văn minh và hành
động văn hóa trong cuộc sống. Bước sang tuổi mẫu giáo 5- 6 tuổi, sự tự ý thức
của trẻ được xác định rõ ràng, trẻ thực hiện các hành động một cách chủ định
hơn, nhờ đó trẻ trở thành những chủ thể có năng lực, có sáng kiến, khả năng tư
duy và giao tiếp với mọi người theo một cách riêng [24].
1.2. Hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non

1.2.1. Các khái niệm
1.2.1.1. Nhận thức
Nhận thức là một hoạt động quan trọng của con người, định hướng cho mọi
hành động của con người. Nhận thức đúng sẽ dẫn tới hành động đúng và ngược lại.

Theo M. Rô-Den-Tan (1975) về phương diện triết học ông cho rằng nhận
thức là quá trình tái tạo lại hiện thực trong tư duy của con người, được quyết
định bởi quy luật phát triển xã hội và gắn liền, không tách rời thực tiễn, nó phải
là mục đích của thực tiễn, hướng tới chân lí khách quan [18].
L.X. Vygotsky (1997) coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
trong ý thức của con người, nhận thức bao gồm: nhận thức cảm tính và nhận thức
lí tính; chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau và cơ sở, mục đích, tiêu chuẩn
của nhận thức là thực tiễn xã hội [16].
Các nhà giáo dục học Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn
Tảo, Bùi Hiền (2015) cho rằng nhận thức là quá trình hay là kết quả phản ánh và
tái tạo hiện thực vào trong tư duy của con người [9].
Trần Thị Ngọc Trâm, Nguyễn Thị Nga (2011) đưa ra khái niệm nhận thức
là một quá trình bên trong và là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con

người (nhận thức, tình cảm, ý chí). Nhận thức có liên quan rất chặt chẽ với sự
học và về bản chất, sự học là một quá trình nhận thức [25].
Tóm lại, nhận thức được xem là kết quả phản ánh quá trình con người nhận
biết về thế giới. Nhận thức ở mức độ thấp là nhận thức cảm tính, ở mức độ cao hơn

17


×