Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tìm hiểu chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Liên hệ với việc giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.72 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

----------

BÀI THẢO LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Tìm hiểu chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội
của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Liên hệ với việc giải
quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay.

Hà Nội, 2020


MỞ ĐẦU
Trong tiến trình phát triển lịch sử thế giới, bất cứ chế độ xã hội nào cũng đều quan
tâm đặc biệt đến sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc mình. Và suy cho cùng
sự phát triển bền vững của một quốc gia phải dựa vào hai trụ cột (yếu tố) chính: nền
kinh tế phát triển và xã hội vận động lành mạnh. Thực tế lịch sử cho thấy, muốn xây
dựng nền kinh tế phát triển bền vững thì một trong những vấn đề cần quan tâm hàng
đầu là phải đi liền với giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Bước sang thế kỷ XXI, đói
nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức tranh tổng thể là thế giới với gần một
nửa số dân sống dưới 5,5USD/ngày, mục tiêu xóa đói vào năm 2030 càng trở nên khó
khăn khi số người không đủ ăn tiếp tục tăng từ 811 triệu người năm 2017 lên 821 triệu
người vào năm 2018. Vì vậy một phong trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải
làm như thế nào để đẩy lùi nghèo đói. Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh
giá là một trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn
và phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB. 70% người dân Việt Nam đã
được đảm bảo về mặt kinh tế, trong đó có 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo chuẩn thế
giới. Các tầng lớp thu nhập này đang phát triển nhanh chóng, tăng hơn 20% trong giai
đoạn 2010- 2017, tái nghèo giảm xuống còn 2%. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn 9 triệu


người nghèo, 72% trong số đó là người dân tộc thiểu số, và phần lớn họ sống tại vùng
cao. Vấn đề xóa đói giảm nghèo và tái nghèo đến nay vẫn là những vấn đề quan trọng,
chính vì vậy Nhóm 5 thực hiện đề tài: “Tìm hiểu chủ trương giải quyết các vấn đề
xã hội của Đảng thời kỳ đổi mới. Liên hệ việc giải quyết vấn đề xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam”.


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT
1.1.

Vấn đề xã hội là gì?

Vấn đề xã hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các
cộng đồng người đến sự tồn tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã hội
nhất định được nhận thức như một vấn nạn của xã hội, đụng chạm đến lợi ích của một
cộng đồng. Các vấn đề xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực như: việc làm, thu nhập, bình
đẳng xã hội, khuyến khích làm giàu, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, cung
ứng dịch vụ công, an sinh xã hội, cứu trợ xã hội, chính sách dân số và kế hoạch hóa
gia đình, v.v…
1.2. Tại sao phải giải quyết vấn đề xã hội?
Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, gần 35 năm đổi mới vừa qua (1986-2019)
là chặng đường quá độ rất quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của Việt Nam.
Trên thực tế, qua hơn ba thập kỷ đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn
trên nhiều phương diện. Từ một nước nghèo, Việt Nam trở thành một nước có thu
nhập trung bình với nền kinh tế thị trường năng động, hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng vào
hệ thống kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, bên cạnh nhiều thành tựu nổi bật, trong tiến trình
phát triển của Việt Nam gần 35 năm vừa qua, nhiều vấn đề xã hội cơ bản cũng nẩy
sinh, biến đổi, và gia tăng mức độ tác động tiêu cực.
Trước thực tiễn các vấn đề xã hội cơ bản đó, cùng với đẩy mạnh tăng trưởng kinh
tế, giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình đi

lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn
đề xã hội được thể hiện trên ba phương diện:
+ Thứ nhất, giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản là tạo điều kiện cho tăng trưởng
kinh tế. Bởi vì, những vấn đề xã hội cơ bản không được giải quyết sẽ sinh ra các rào
cản đối với việc huy động và sử dụng vốn kinh tế, vốn con người, vốn xã hội, vốn văn
hóa để phát triển kinh tế.
+ Thứ hai, giải quyết các vấn đề xã hội để giử vững ổn định xã hội. Bởi vì, những
vấn đề xã hội cơ bản không được quyết giải kịp thời, hiệu quả thì sẽ tạo nên căng
thẳng, bất ổn xã hội.
+Thứ ba, giải quyết các vấn đề xã hội để đảm bảo an ninh con người, nâng cao chất
lượng sống của nhân dân, tạo điều kiện phát huy đầy đủ tiềm năng con người của mỗi
cá nhân trong xã hội - một trong những đặc điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội.
Bởi vì, những vấn đề xã hội cơ bản không được giải quyết sẽ làm giảm chất lượng
sống của người dân và gây nên điều kiện bất lợi đối với việc triển con người. Vì vậy,


việc nhận diện các vấn đề xã hội cơ bản, giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản là rất
quan trọng đối với Việt Nam trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội vì con người, đặt con
người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và lấy việc nâng
cao chất lượng cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ. Đảng ta luôn nhấn mạnh
phát triển kinh tế phải đi liền với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Phát triển kinh
tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng đòi hỏi phải giải quyết tốt những vấn đề
xã hội, bởi lẽ phát triển kinh tế phải là sự phát triển bền vững dựa trên những yếu tố
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường vững chắc…. Bền vững về mặt xã hội là
bảo đảm vừa đạt được tăng trưởng kinh tế, vừa giữ được ổn định xã hội, không có
những xáo trộn xung đột, nổi loạn làm ảnh hưởng đến việc huy động các nguồn lực
cho sự phát triển. Trong phát triển bền vững, yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội quyện vào
nhau, hoà nhập vào nhau. Mục tiêu phát triển kinh tế phải bao gồm cả mục tiêu giải
quyết những vấn đề xã hội như vấn đề việc làm, xoá đói giảm nghèo… thoả mãn nhu

cầu cơ bản của nhân dân, công bằng xã hội. Ngược lại, mục tiêu phát triển xã hội cũng
nhằm tạo động lực phát triển kinh tế.


CHƯƠNG 2: CHỦ TRƯƠNG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
CỦA ĐẢNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Quan điểm về giải quyết các vấn đề xã hội
 Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
- Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội có
liên quan trực tiếp.
- Mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến tác động và hậu quả xã hội có thể xảy ra
để chủ động xử lý.
- Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa các chính sách kinh tế và chính sách xã
hội.
- Sự kết hợp 2 loại mục tiêu này phải được quán triệt ở tất cả các cấp, các ngành,
các địa phương, ở từng đơn vị kinh tế cơ sở.
 Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ,
công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển.
- Trong từng chính sách phát triển (của Chính phủ, ngành, Trung ương, địa phương)
cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội.
- Nhiệm vụ gắn kết này không dừng lại như một khẩu hiệu mà phải được pháp chế
hóa thành các thể chế có tính cưỡng chế, buộc chủ thể phải thi hành.
- Các cơ quan, các nhà hoạch định chính sách phát triển quốc gia phải thấu triệt
quan điểm phát triển bền vững, phát triển hài hòa, …không chạy theo số lượng tăng
trưởng bằng mọi giá.
 Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu
cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.
- Chính sách xã hội có vị trí, vai trò độc lập tương đối so với kinh tế, nhưng không
thể tách rời trình độ phát triển kinh tế, cũng không thể dựa vào viện trợ như thời bao

cấp.
- Trong chính sách xã hội phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và
hưởng thụ. Đó là một yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội; xóa bỏ quan
điểm bao cấp, cào bằng; chấm dứt cơ chế xin - cho trong chính sách xã hội.1
 Bốn là, coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển
con người (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội
Quan điểm này khẳng định mục tiêu cuối cùng và cao nhất của sự phát triển phải là
vì con người, vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Phát
triển phải bền vững, không chạy theo tăng trưởng.


2.2. Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội
Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả
các chính sách xoá đói giảm nghèo.
Hai là, xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công
cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo việc làm và
thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng văn hóa thông tin, thể dục thể thao. Xây dựng
hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, tiến tới bảo hiếm y tế toàn dân. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội..., Tiếp tục
đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập.
Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân đều
được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.
Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt
Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi.
Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Sáu là, chú trọng chính sách ưu đãi xã hội. Vận động toàn dân tham gia các hoạt
động "đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn" đối với các lão thành cách mạng, với
những người có công với nước, người hưởng chỉnh sách xã hội. Chăm sóc lối sống vật
chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô dơn không nơi nương tựa.
Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang thang.

Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng
phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công cộng, nâng cao
năng lực quản lý của Nhà nước.
2.3. Kết quả thực hiện
Qua 30 năm đổi mới, việc giải quyết các vấn đề xã hôi đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng:
Về lao động - việc làm: Các chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã
chuyển biến theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Bộ luật lao động được sửa đổi nhiều lần qua các năm (2002, 2006,
2007, 2012) đã tạo hành lang pháp lý cho việc hoàn thiện các tiêu chuẩn lao động,
thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan
đến quan hệ lao động như hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền lương,
bảo hiểm xã hội, thời gian lảm việc, vệ sinh lao động, kỷ luật lao động, giải quyết
tranh chấp lao động, đình công. Mỗi năm bình quân tạo ra 1,5-1,6 triệu việc làm mới.
Năm 2014, lao động trong khu vực chính thức đạt trên 30% và lao động đã qua đào tạo
chiếm khoảng 49% tổng số lao động. Xây dựng và triển khai Luật việc làm; nghiên
cứu xây dựng Chương trình việc làm công.


Về giảm nghèo bền vững: Trong 30 năm qua, Đảng vả Nhà nước ta luôn nhất quán
về chính sách giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp. Đã
đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương trình mục
tiêu quốc gia về giảm nghèo, trong đó chủ trọng chính sách giảm nghèo đa chiều và
khắc phục nguy cơ tái nghèo, nhất là đối với các hu vện nghèo, ưu tiên người nghèo là
đồng bào dân tộc thiêu số thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã, thôn,
bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo; thu hẹp chênh lệch về mức
sống và an sinh xã hội so với bình quân cả nước. Đã tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo
theo từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Tỷ lệ hộ nghèo
cả nước giảm bình quân 1,5 - 2%/năm; các huyện, xã đặc biệt khó khăn có tỷ lệ hộ
nghèo giảm 4%/năm theo tiêu chuẩn nghèo từng giai đoạn. Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo

cả nước còn 58,1%, đến năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%, năm 2013 còn
7,8%, năm 2014 còn 5,8-6%, năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước còn 4,5%; riêng
các huyện nghèo còn 28%. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam đã được Liên hợp
quốc và cộng đồng quốc tế công nhận, đánh giá cao.
Chăm sóc sức khỏe nhân dân đã có nhiều tiến bộ. Hệ thống cơ sở y tế đã được hình
thành trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh. Hệ thống
dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất lượng. Trong 10 năm gần đây, các quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm
2013 và 20 luật liên quan đến lĩnh vực y tế, dân số, tạo cơ sở pháp lý quan trọng đối
với lĩnh vực y tế. Trong lĩnh vực y tế, đã có nhiều chủ trương, chính sách tương đối
toàn diện, coi trọng cả về xây dựng thê chế, y tế dự phòng, y học cổ truyền, quản lý
thuốc, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, vệ sinh an toàn thực phẩm.
Chính sách ưu đãi người có công đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
cả nước hiện có khoảng 8,8 triệu người có công, chiếm khoảng 10% dân số, có khoảng
1,4 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên. Bảo đảm mức sống của người có
công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn cư trú.
Về chính sách an sinh xã hội: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn
diện và đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm,
như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp
cận và tham gia các loại hình bảo hiểm; mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội, nhất là
đối với các đối tượng khó khăn. Phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội, khả năng huy động và cân dối nguồn lực của đất nước trong
từng thời kỳ; ưu tiên những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và
đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội có tính chia sẻ giữa Nhà
nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ,


trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Hệ thống an sinh xã hội phát triển không ngừng. Đến năm 2015, cả nước có trên 12

triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, khoảng 10 triệu người tham gia bảo hiểm thất
nghiệp và 75% dân số tham gia bảo hiểm y tế. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện
chính sách về an sinh xã hội; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã
hội.
Bảo đảm cung ứng một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người
nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số về giáo dục tối
thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu; bảo đảm nước sạch; bảo đảm thông tin. Đã xây
dựng vả thực hiện chiến lược phát triển nhà ở quốc gia và chương trình xóa nhà tạm,
phát triển nhà ở xã hội.
Hệ thống pháp luật và các chính sách phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng được
bô sung và hoàn thiện hơn. Diện thụ hưởng chính sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ
được nâng lên. Nguồn lực đầu tư các lĩnh vực xã hội ngày càng được tăng cường và đa
dạng hóa.
Đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chính sách đê xây dựng, phát huy vai trò
các giai tầng xã hội trong sự nghiệp đổi mới. Đồng thời, đã xây dựng, ban hành và
thực hiện nhiều chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, về chăm sóc bà mẹ và trẻ em,
hôn nhân và gia đình, chăm sóc người cao tuổi, phòng, chống tệ nạn xã hội, bạo lực
gia đình.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; đã tăng cường đầu tư
về kết cấu hạ tầng, kinh phí cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, tạo chuyên biến rõ rệt
trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào các dân tộc thiểu số. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các
dân tộc và các tôn giáo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, việc giải quyết các vấn đề xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, những
bức xúc xã hội có chiều hướng gia tăng.
Một số chính sách xã hội chậm đổi mới, chưa sát thực tiễn, thiếu cơ sở khoa học;
còn thiếu những chính sách đặc thù cho những vùng đặc thù; thiếu cơ chế, chính sách
điều tiết hợp lý quan hệ lợi ích, điều hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát các rủi ro, mâu
thuẫn, xung đột xã hội. Tiền lương chưa bảo đảm cuộc sống cán bộ, công chức, viên
chức, cải cách tiền lương tiến hành chậm, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng; phân tầng xã hội theo xu hướng không
hợp thức diễn biến phức tạp. Quản lý xã hội còn nhiều bất cập, lúng túng, chồng chéo,
thiếu hiệu quả; tiêu cực xã hội, tệ nạn xã hội, tai nạn xã hội, tội phạm xã hội có chiều
hướng gia tăng.


Giảm nghèo thiếu bền vững. Chưa hình thành cơ chế đồng bộ về giảm nghèo đa
chiều, đa mục tiêu. Nhiều chính sách an sinh xã hội và giảm nghèo chồng chéo nhau
và chồng chéo với các chính sách khác. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều
khó khăn; kết cấu hạ tầng xã hội ở nhiều địa phương, khu vực, nhất là vùng sâu, vùng
xa còn hạn chế, một bộ phận nhân dân chưa được hưởng thụ một cách công bằng các
thành quả của công cuộc đổi mới. Bất bình đẳng xã hội về thu nhập, giáo dục, y tế, văn
hóa, an sinh xã hội, ... chậm được khắc phục.
Một số bức xúc xã hội chậm dược giải quyết; một số vấn đề mới nảy sinh liên quan
đến giai cấp, dân tộc, tôn giáo, dân số, đất đai, lao dộng, việc làm, thu nhập, ... chưa có
giải pháp khắc phục hiệu quả. Từ đó, xuất hiện nhiều điểm nóng, tình trạng khiếu kiện
đông người và những căng thẳng trong quan hệ xã hội, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn
định chính trị - xã hội. Một số vấn đề phát sinh trong lĩnh vực tôn giáo, lợi dụng tôn
giáo để chống phá Đảng, Nhà nước chưa được giải quyết kịp thời, thỏa đáng.



Nguyên nhân

Những thành tựu nêu trên có nhiều nguyên nhân: Các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản là đúng đắn, hợp lòng dân. Đã
động viên, khai thác các nguồn lực trong nhân dân cùng với Nhà nước và sự hỗ trợ của
nhiều tổ chức quốc tế để giải quyêt các vấn đề xã hội. Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tô
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã quan tâm, chú trọng giải quyết các vấn đề xã
hội.

Những hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song nguyên nhân
chủ quan là chính. Là một nước nông nghiệp vốn nghèo nàn, lạc hậu, thường xuyên bị
thiên tai, lại trải qua hơn 30 năm chiến tranh để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề, cho
nên các vấn đề xã hội không thể giải quyết triệt để trong một thời gian ngắn.
Nhận thức của nhiều cấp ủy đảng và chính quyền về các vấn đề xã hội, chính sách
xã hội chưa đầy đủ và sâu sắc; có nơi còn coi nhẹ mô hình và phương thức quản lý xã
hội, chưa có sự gắn kết giữa chính sách phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã
hội.
Chính sách xã hội chậm đổi mới so với chính sách kinh tế. Quản lý nhà nước còn
nhiều bất cập, chồng chéo. Còn thiếu những giải pháp hữu hiệu để thu hẹp khoảng
cách về mức sống và an sinh xã hội giữa các vùng, miền. Việc tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật chưa nghiêm, hiệu quả thấp; sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa
phương chưa chặt chẽ; phân công trách nhiệm không rõ; thiếu thể chế và thiết chế để
tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất. Công tác thanh tra ở nhiều nơi chưa
được coi trọng.
Nhu cầu nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội rất lớn nhưng khả năng đáp ứng
thực tế của đất nước còn rất hạn hẹp, lại sử dụng chưa hiệu quả, còn phân tán, lãng phí,


thậm chí tiêu cực; chưa động viên, thu hút được nhiều sự tham gia của xã hội và
khuyến khích người thụ hưởng chính sách tự vươn lên.


CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ XOÁ ĐÓI GIẢM
NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam trước khi thực hiện chủ trương
- Sau khi miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng (năm 1975) và đất nước
thống nhất (năm 1976), nước ta bắt đầu ngay việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ
hai (1976-1980). Kế hoạch này có nhiều điểm duy ý chí nên phần lớn chỉ tiêu đều
không đạt. Sản xuất đình trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4 %/ năm (kế hoạch là 13-14 %)

trong khi tỷ lệ tăng dân số hàng năm trên 2,3 %.
- Sản lượng lúa năm 1976 đạt 11,827 triệu tấn, giảm dần đến năm 1978 chỉ còn 9,79
triệu tấn. Năm 1976, sản lượng lúa bình quân trên một người dân là 211 kg thì đến
năm 1980 chỉ còn 157 kg. Kế hoạch năm năm 1976-1980 nâng tổng sản lượng lúa lên
gần gấp đôi vào khoảng 21 triệu tấn, nhưng đến năm 1980 chỉ đạt 14,4 triệu tấn, tức
đạt 68,5% kế hoạch. Còn sản lượng của cả vựa lúa miền Nam từ mức 1,9 triệu tấn năm
1976 cứ tụt dần xuống còn 0,99 triệu tấn năm 1977 và 0,64 triệu tấn năm 1979. Chăn
nuôi heo đạt 58,5% kế hoạch, thủy sản đạt gần 40%, khai thác gỗ tròn đạt 45%, trồng
rừng đạt 48%. Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu lương thực, phải nhập khẩu và nhận
viện trợ lương thực từ các nước cộng sản đồng minh, từ Liên hiệp quốc cũng như từ
phương Tây. Việt Nam đứng bên bờ vực của nạn đói và sẽ chết đói nếu mất mùa trên
diện rộng.
- Tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập 1,576 triệu tấn
lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá cả tăng hàng năm 20 %, nhập khẩu nhiều gấp
4-5 lần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhiều công trình phải bỏ
dở, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu trầm trọng. Giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng nhất là các năm 1983, 1984, 1985. Lạm phát bị đẩy lên mức 700-800%, tem
phiếu phân phối thiếu thốn, người dân không đủ lương thực. Bốn mặt hàng dân dụng
phụ thuộc lớn vào viện trợ của Liên Xô là xăng dầu; lương thực, bột mì; bông xơ phục
vụ ngành dệt; phân bón thì lượng viện trợ giảm dần. Kinh tế đất nước gần như kiệt
quệ.
- Giữa thập niên 1980, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục khó khăn gay gắt. Cuộc
khủng hoảng kinh tế nảy sinh từ cuối thập niên 1970, do cải tạo tư sản ở miền Nam
quá mức, do chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc kéo dài gần 10 năm,
và càng gay gắt hơn khi Việt Nam bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường bằng chính
sách cải cách Giá - lương - tiền bao gồm đổi tiền, tăng lương bằng cách in tiền vào
năm 1985. Nhiều người gửi tiền tiết kiệm lâm vào cảnh bi đát do lạm phát phi mã xảy
ra sau khi đổi tiền. Có người bán một con bò lấy tiền gửi tiết kiệm, sau khi đổi tiền chỉ
mua được vài con gà. Việc ngăn cấm thị trường tự do khiến tình trạng khan hiếm
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng trở nên nặng nề. Có câu chuyện kể về mẹ già



mang 5–10 kg gạo đi thăm con ở tỉnh khác, khi đến ranh giới tỉnh bị tịch thu, khóc lóc,
van xin cũng không được. Những phiên chợ quê, khi đội quản lý thị trường đeo băng
đỏ đến tịch thu thịt lợn do tư nhân mổ chui bán, chính những người dân quanh đó lại
bảo vệ người bán thịt lợn, không ủng hộ đội quản lý thị trường của nhà nước. Thị
trường thực phẩm, hàng tiêu dùng bị ngăn cấm trong khi nhà nước chỉ phân phối tem
phiếu thịt giá thấp riêng cho cán bộ, công nhân viên (số lượng thật ra rất ít, khoảng
0,3-0,5 kg/người/tháng) và người dân ở thành phố (mỗi người 0,1 kg/tháng). Điều này
khiến tình trạng khan hiếm hàng tiêu dùng kéo dài triền miên, và vật giá trên thị
trường chợ đen tăng mạnh. Chất lượng sống của nhân dân đi xuống khiến sự bất mãn
trong xã hội tăng lên, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam sa sút. Gần một triệu người
vượt biên ra nước ngoài để tìm cuộc sống tốt đẹp hơn tạo ra một cuộc khủng hoảng
nhân đạo lớn thu hút sự chú ý của dư luận thế giới lúc đó.
3.2. Chủ trương xóa đói giảm nghèo của Đảng thời kì đổi mới.
* Chủ trương xoá đói giảm nghèo của Đảng trong thời kỳ đổi mới qua từng giai
đoạn
- Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) năm 1992 đã đề ra chủ trương xóa đói
giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân cũng như
trong chiến lược phát triển chung của xã hội và đã trở thành một chủ trương chiến
lược, nhất quán, liên tục được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội của Đảng.
- Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của
công tác xóa đói giảm nghèo, xác định phải nhanh chóng đưa các hộ nghèo thoát ra
khỏi hoàn cảnh túng thiếu và sớm hòa nhập với sự phát triển chung của đất nước; đề ra
Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo trong 5 năm 1996 – 2000 cùng với 10
Chương trình kinh tế - xã hội khác.
- Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998, Chính phủ chính thức phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo (Chương trình 133) cho giai
đoạn 1998 - 2000. Đây là lần đầu tiên giảm nghèo đã trở thành một chính sách nằm
trong hệ thống chính sách xã hội của quốc gia. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ

tiếp tục bổ sung Chương trình 135 - Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thiết
yếu các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mục tiêu chính của
chương trình này là hỗ trợ xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như: hệ thống điện, đường
giao thông, trường học, trạm y tế....tại 1715 xã nghèo nói trên. Kết quả là đến năm
2000 tỷ lệ nghèo của cả nước còn 10% theo chuẩn cũ. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận
thấy, không thể chỉ theo đuổi mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo mà cần giữ vững kết
quả giảm nghèo đã đạt được, tăng khả năng bền vững, hiệu quả của công tác giảm
nghèo, đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường.


Vì vậy, quan điểm giảm nghèo bền vững đã được đề cập và thể hiện trong Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng là: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói
giảm nghèo. Quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo; đồng
thời nâng cấp, cải tạo các tuyến trục giao thông nối vùng nghèo, xã nghèo với nơi
khác, tạo điều kiện thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó khăn phát triển. Đi đôi với
việc xây dựng kết cấu hạ tầng, phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư
ở các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng nhanh thu
nhập…Nâng dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo”.
- Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các phúc lợi
xã hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối
tượng chính sách....Nhà nước tăng đầu tư từ ngân sách tiếp tục phát triển cơ sở vật chất
- kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội và bảo đảm cung ứng các dịch
vụ xã hội cơ bản, trước hết là về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng nghèo, các đối
tượng chính sách...và dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân và
là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội.
- Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Thực hiện có
hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa nguồn lực
và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và
các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ

có thu nhập trung bình khá trở lên. Có các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn
chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.
- Để cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu cần đạt
được trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020: Giảm nghèo bền vững là một trong những
trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 nhằm cải
thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết ở khu vực
miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở
các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các
vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt được: Thu nhập của hộ nghèo
tăng lên 3,5 lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện nghèo, xã
nghèo giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn; Điều kiện sống của người
nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là vấn đề y tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt,
nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; Cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện nghèo; xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn
được tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết
yếu như: giao thông, điện, nước sinh hoạt.


Để thực hiện được các mục tiêu trên, trong giai đọan 2011 – 2015 tiếp tục thực
hiện những chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo đã và đang thực hiện: Chương
trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 3, tiếp
tục thực hiện Nghị quyết 30a của chính phủ và các chương trình phát triển kinh tế xã
hôi khác. Nguồn lực đề thực hiện công tác giảm nghèo sẽ được huy động tối đa, không
chỉ bằng Ngân sách Nhà nước mà còn huy động được sự tham gia với tinh thần trách
nhiệm cao của các tập đoàn kinh tế, các Tổng Công ty nhà nước, Ngân hàng thương
mại…và đặc biệt là từ chính bản thân người nghèo. Phối hợp nhiều phương thức hỗ trợ
người nghèo như hỗ trợ người nghèo trong vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về nhà ở,
hỗ trợ về cung cấp và tạo điều kiện duy trì với các loại dịch vụ, hỗ trợ giao đất, giao
rừng; về đào tạo nguồn nhân lực…Đồng thời khắc phục những hạn chế như: Các
chương trình giảm nghèo triển khai chưa toàn diện, nhiều chính sách, chương trình

giảm nghèo được ban hành nhưng còn mang tình ngắn hạn, chồng chéo, nguồn lực cho
giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu, lại bị phân tán, dàn trải, thiếu giải pháp cụ thể gắn
kết việc thực hiện chính sách giảm nghèo với chính sách an sinh xã hội, việc phối hợp
chỉ đạo thực hiện giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả…
Nhằm đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, Thủ tướng Chính
phủ đã quyết định ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2016 – 2020. Chương trình này đã góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh
tế, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống, tăng thu nhập của người dân, đặc biệt là
các địa bàn nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận các dịch vụ cơ
bản như: Y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt, vệ sinh và tiếp cận thông tin. Bên cạnh
đó, Phó Thủ tướng cũng chỉ đạo Ngân hàng Chính sách xã hội phối hợp với các bộ,
ngành đề xuất khung khổ thể chế về tín dụng chính sách từ nay đến năm 2020 và 5
năm tiếp theo, nâng tỷ lệ tăng trưởng tín dụng cho Chương trình mục tiêu quốc gia
giảm nghèo và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên nguyên
tắc không làm tăng cấp bù, mà là trên cơ sở huy động tín dụng xã hội, quay vòng vốn..
Đồng thời đề nghị các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công đối
với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới
để bảo đảm kịp thời phát huy ý nghĩa an sinh xã hội đối với người dân, nhất là các hộ
nghèo.
*Những thay đổi lớn về chủ trương giảm nghèo
Thực tế cho thấy chính sách hỗ trợ giảm nghèo của nước ta thời gian qua được thiết
kế theo hướng ai nghèo cũng được hỗ trợ. Đây là sự nhân văn, ưu việt của chế độ ta
nhưng điều này cũng khiến hiệu quả của việc giảm nghèo có lúc, có nơi phản tác dụng,
tạo cớ cho người nghèo lười lao động. Nhiều hộ tự bằng lòng với cuộc sống hiện tại,


thiếu ý thức vươn lên thoát nghèo, một số ít còn lười lao động. Bởi vậy, đã có sự đổi
mới tư duy trong chủ trương giảm nghèo của Đảng.
Năm 2020 là năm cuối thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020. Từ năm 2021, Chương trình chắc chắn sẽ có

những sự thay đổi về quy mô, nội dung thực hiện. Bởi vì ngày 19/6/2020, kỳ họp thứ 9
Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 120 phê duyệt chủ trương đầu tư
Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai
đoạn 2021 – 2030. Sau quyết định của Quốc hội, Chương trình 135 - Dự án 2 trong
Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 sẽ trở thành Dự án
Đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh; nội dung hỗ trợ phát triển sản xuất,
đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn nằm
trong diện thụ hưởng Chương trình 135 sẽ chuyển thành Dự án Khai thác tiềm năng,
lợi thế, tạo sinh kế, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động trong
Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai
đoạn 2021 - 2030.
Đặc biệt, đảng ta đẩy mạnh đổi mới theo hướng giảm cho không, tăng cho vay ưu
đãi, hỗ trợ có điều kiện, tăng cường đầu tư cho sinh kế là chính, tức là vận hành chính
sách theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm nhằm nâng cao tinh thần tự
lực, tự cường của đồng bào và coi đây là mũi đột phá trong phát triển kinh tế ở vùng
dân tộc thiểu số và miền núi. Nhà nước chỉ hỗ trợ về cơ chế, chính sách, nguồn lực,
hướng dẫn. Bản thân người nghèo phải chủ động vươn lên, xóa bỏ tâm lý trông chờ, ỷ
lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
Có thể nói, Đảng ta đã có cách nhìn ngày càng toàn diện và đưa ra những chủ
trương, biện pháp thiết thực để xoá đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo trên
cơ sở tiến hành đồng bộ các giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng gắn liền với phát triển
văn hoá - xã hội; chú trọng đẩy mạnh việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo
đảm an sinh xã hội, tăng cường trợ giúp với đối tượng yếu thế; tập trung triển khai có
hiệu quả các chương trình kinh tế - xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn. Thực tiễn những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã có
những chính sách, giải pháp tương đối đồng bộ, hiệu quả tập trung giải quyết vấn đề
xoá đói, giảm nghèo và hạn chế phân hoá giàu nghèo mang tầm quốc gia được quốc tế
ủng hộ và đánh giá cao. Thông qua các chương trình xoá đói giảm nghèo, hàng triệu
hộ gia đình, hàng chục triệu người thoát khỏi đói nghèo, vươn lên làm giàu; góp phần
hạn chế phân hoá giàu nghèo, thực hiện công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.

3.3. Kết quả thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo của Đảng thời kỳ đổi mới
3.3.1.
Thành tựu


Tỷ lệ
nghèo

Năm
1990

Năm
2005

Năm
2009

Năm
2010

Năm
2014

Năm
2015

Năm
2016

Năm

2017

57%

22%

11,3%

9,45%

6%

4,5%

2,7%

2,7%

Tỷ lệ nghèo bình quân cả nước qua các năm
Trong ba thập kỷ vừa qua, xoá đói giảm nghèo luôn là lĩnh vực đạt được nhiều
thành công ấn tượng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Cùng với phát
triển kinh tế cao là hàng loạt các chính sách giảm nghèo được triển khai đồng bộ ở tất
cả các cấp với nguồn kinh phí huy động từ Chính phủ, cộng đồng và các tổ chức xã hội
quốc tế đã cải thiện đáng kể diện mạo nghèo đói ở tất cả các vùng miền trong cả nước.
Quyết tâm vươn lên thoát khỏi đói nghèo không chỉ là ý chí của các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương mà đã trở thành suy nghĩ của từng hộ nghèo. Tỷ lệ nghèo trên
đầu người (tính theo chi tiêu thu nhập) đã giảm mạnh từ 57% năm 1990 xuống còn
13,5% năm 2014.
Năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ
(MDGs) về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói, về đích trước 10 năm so

với thời hạn (năm 2015).
Nhờ thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình mục
tiêu quốc gia giảm nghèo (Chương trình 133), Chương trình phát triển kinh tế - xã hội
các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc, miền núi (Chương trình 135),
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo (Nghị
quyết số 30a) và các chương trình kinh tế, xã hội khác hướng vào mục tiêu giảm
nghèo, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam đã giảm nhanh từ 22% (năm 2005) xuống còn
11,3% (năm 2009) và còn 9,45% (năm 2010), bình quân 2% mỗi năm, người nghèo đã
được tiếp cận tốt hơn các nguồn lực kinh tế (vốn, đất đai, công nghệ, thị trường…) và
các dịch vụ xã hội cơ bản như: Giáo dục, y tế, nước sạch,… Chính vì vậy, thành tựu
giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Theo đánh giá của Liên Hợp quốc, Việt Nam được xếp thứ 27 trong số 101 nước
đang phát triển xét về năng lực xóa đói, giảm nghèo, trên cả các nước trong khu vực
như Indonesia, Malaysia, Phi-líp-pin, Thái Lan. Chỉ số phát triển con người (HDI) của
Việt Nam tăng 41% trong vòng hai thập kỷ. Năm 2014, chỉ số HDI Việt Nam đứng thứ
127/187 quốc gia trên thế giới.
Đến cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống 5,8-6%, năm 2015 giảm
xuống dưới 4,5%. Gần 2 triệu học sinh nghèo, học sinh dân tộc thiểu số được miễn
giảm học phí, hỗ trợ học bán trú, hỗ trợ kinh phí học tập với số tiền hơn 7.000 tỷ đồng.
Ngân hàng chính sách xã hội đã cho hơn 400.000 lượt hộ nghèo vay vốn sản xuất, xuất


khẩu lao động, hơn 60.000 học sinh nghèo được vay vốn học tập. Nguồn lực dành cho
xóa đói, giảm nghèo không ngừng tăng, giúp đối tượng nghèo có cơ hội tiếp cận với
chính sách giảm nghèo. Năm 2014, tổng nguồn vốn thực hiện mục tiêu giảm nghèo
khoảng 34.700 tỷ đồng, trong đó, ngân sách Trung ương với hơn 6.000 tỷ đồng để thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.
Tỷ lệ nghèo của các dân tộc thiểu số tiếp tục giảm xuống là kết quả rất đáng khích
lệ, trong giai đoạn 2014-2016, tỷ lệ nghèo của nhóm này đã giảm tới 13%, giảm mạnh
nhất trong một thập niên vừa qua. Những nỗ lực tập trung vào việc tăng cường thu

nhập cho các dân tộc thiểu số có thể gia tăng cơ hội cho những nhóm người này và
giảm sự bất bình đẳng kéo dài.
Trong hai năm 2016, 2017, tỷ lệ nghèo bình quân của cả nước đã giảm 1,8%, cao
hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra từ 1-1,5%. Năm 2018, tốc độ giảm nghèo của Việt Nam
được kiểm soát, đặc biệt, đời sống người dân được ổn định, cơ sở hạ tầng tại vùng sâu,
vùng xa, vùng cao đã được cải thiện. Thành tựu giảm nghèo đã góp phần trong việc
phát triển bền vững của đất nước.
Nói về thành tựu giảm nghèo của Việt Nam, mặc dù trong năm 2018 cũng như ba
năm trở lại Việt Nam đang phải đương đầu với rất nhiều khó khăn và thách thức, về cả
về kinh tế, xã hội, thiên tai lũ lụt nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của
Quốc hội, Chính phủ và sự nỗ lực của toàn xã hội, kết quả giảm nghèo tiếp tục giữ
vững.
 Ý nghĩa thành tựu xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam:
Thành tựu xóa đói giảm nghèo đã tạo thêm cơ sở vững chắc cho Việt Nam bảo đảm
các quyền của người dân. Nổi bật là, về nhà ở, đi lại, đến năm 2017, cả nước đã xây
dựng, củng cố được hàng vạn ngôi nhà, căn hộ cho người nghèo, xóa bỏ hầu hết nhà
tạm ở các thôn, bản; 99% địa bàn đông dân tộc thiểu số, miền núi có đường giao thông
từ tỉnh đến huyện, xã.
- Về chăm sóc sức khỏe, trên 90% người dân đều có thẻ bảo hiểm y tế (trong đó có
trên 98% là người nghèo) và được các dịch vụ chăm sóc sức khỏe với chi phí thấp. Với
hệ thống bệnh viện, trạm y tế và dịch vụ y tế thông suốt từ Trung ương, tỉnh, huyện,
xã, thôn, bản, Việt Nam đã khống chế, đẩy lùi nhiều bệnh dịch nguy hiểm; tuổi thọ
trung bình của người dân tăng từ 64 tuổi trong thập kỷ 90 (thế kỷ XX) lên gần 73 tuổi
năm 2015; số phụ nữ tử vong do sinh sản giảm từ 233/100.000 xuống còn 62/100.000;
tỷ suất trẻ em tử vong dưới 5 tuổi giảm từ 58% xuống còn 23,1%, v.v.
- Về giáo dục và đào tạo, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống giáo dục - đào tạo
tương đối hoàn chỉnh từ bậc mầm non đến đại học, với cơ sở vật chất được hiện đại
hóa, chất lượng giáo dục - đào tạo ngày được nâng lên, góp phần đáng kể vào phát
triển nhân lực, trí lực cho đất nước, v.v. Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ



và phổ cập giáo dục tiểu học (năm 2000); phổ cập giáo dục trung học cơ sở (năm
2010); hiện đang tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, xóa mù chữ cho
người lớn. Cơ hội tiếp cận giáo dục đối với người nghèo ngày càng cao, họ chỉ phải
chi trả 1/7 chi phí giáo dục, còn lại được hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước và xã hội qua
Cuộc vận động “Vì người nghèo”, phong trào “Nâng bước em đến trường”, xóa nạn
mù chữ, v.v.
- Về quyền tự do ngôn luận, báo chí, đến tháng 6-2017, Việt Nam có 982 cơ quan
báo, tạp chí được được cấp phép hoạt động trên mọi lĩnh vực, với nhiều hình thức, kịp
thời truyền tải mọi thông tin, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
đời sống người dân. Người dân Việt Nam đều có đầy đủ thông tin từ những hãng thông
tấn, báo chí lớn, như: CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS,
Bloomberg. Qua in-tơ-nét, người dân Việt Nam cũng có thể tiếp cận tin, bài của các cơ
quan thông tấn, báo chí như: AFP, AP, BBC, Reuters, Kyodo, v.v. Việt Nam là quốc gia
có tốc độ phát triển in-tơ-nét hàng đầu khu vực, đặc biệt là mạng facebook; lượng
người dùng internet lớn thứ ba tại khu vực Đông Nam Á, với khoảng 50 triệu người sở
hữu tài khoản facebook, trong đó có 30 triệu người truy cập hằng ngày thông qua thiết
bị di động.
- Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền của các dân tộc thiểu số. Tháng 112016, với tinh thần tôn trọng, bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
người dân, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Trong đó, quy
định rõ quyền tự do theo đạo hay không theo đạo của người dân và cả quyền của cá
nhân (gồm cả những người đang bị giam giữ, thi hành án) được thực hiện các nghi
thức, thực hành tín ngưỡng; quyền của người nước ngoài về tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam, v.v. Các dân tộc thiểu sốđược Nhà nước chăm lo tạo điều kiện phát triển
kinh tế, nâng cao dân trí, cải thiện dân sinh, thực hành dân quyền. Số người dân tộc
thiểu số hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông cơ sở, phổ thông trung học ngày
càng tăng; hiện nay, gần 200 người đạt trình độ trên đại học, gần 1,2 vạn người có
trình độ đại học, cao đẳng, 7,3 vạn người có trình độ trung học chuyên nghiệp, v.v. Đại
biểu Quốc hội khóa XIV, có 86 người dân tộc thiểu số chiếm 17,4%; trong đó, 83
người có trình độ đại học và cử nhân chiếm 96,5%, trình độ trên đại học 32 người

chiếm 37,20%.
- Quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương, yếu thế (phụ nữ, trẻ em, người khuyết
tật) được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực và
thứ hai trên thế giới tham gia ký “Công ước quốc tế về quyền trẻ em” (năm 1989).
Hằng năm, Việt Nam tổ chức “Tháng hành động vì trẻ em” nhằm vận động toàn xã hội
chung tay bảo vệ, chăm sóc trẻ em, tạo môi trường sống an toàn, lành mạnh, phát triển
toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần. Quyền của nữ giới, được lồng ghép đầy đủ


trong hệ thống pháp luật quốc gia và được chăm lo trên thực tế: lao động nữ đạt 48,3%
trong tổng số lực lượng lao động cả nước; phụ nữ tham gia điều hành, quản lý doanh
nghiệp đạt 24,9%; trong Quốc hội khóa XIV có 133 nữ đại biểu, v.v.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng hiện nay Đảng và Nhà nước Việt
Nam vẫn tiếp tục đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo để hoàn thành những mục tiêu đã cam
kết, xây dựng xã hội: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Chính
phủ Việt Nam đề ra Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững (giai đoạn
2016 - 2020), với số vốn 41.449 tỷ đồng (đã giao cho Chương trình trong 02 năm 2016
- 2017 là 14.584 tỷ đồng). Ngoài ra, Nhà nước còn bố trí 44.214 tỷ đồng để thực hiện
chính sách giảm nghèo thường xuyên, hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở, tín
dụng. Các địa phương trong cả nước còn huy động được khoảng hơn 7.303 tỷ đồng,
trong đó chi hoạt động an sinh xã hội, giảm nghèo trên 5.560 tỷ đồng trong năm 2016
và 2017.
 Có thể khẳng định rằng, với cơ sở chính trị, pháp lý vững chắc, quyết
tâm chính trị cao, triển khai đồng bộ các giải pháp, Việt Nam đã đạt thành tựu
to lớn về xóa đói giảm nghèo, một bảo đảm vững chắc cho quyền con người
ngày càng tốt hơn. Điều đó cũng khẳng định rằng, bản chất tốt đẹp của xã hội
xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn hướng tới. Đó là cơ sở để bác bỏ mọi luận điệu
sai trái, xuyên tạc về bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam.
3.3.2.
Hạn chế

Xóa đói giảm nghèo là mục tiêu ưu tiên trong chương trình phát triển kinh tế - xã
hội của nước ta. Tuy nhiên, trên thực tế khi thực hiện công tác giảm nghèo vẫn có
nhiều bất cập và hạn chế:
- Công tác giảm nghèo chưa thực sự bền vững , nguy cơ tái nghèo cao
Theo số liệu của Bộ LĐ-TB và XH, đến cuối năm 2007 tỉ lệ hộ nghèo toàn quốc
chỉ còn 8,5%, nhưng do ảnh hưởng suy giảm kinh tế trong nước và cùng với đó là
thiên tai, dịch bệnh, đến năm 2008 tỷ lệ hộ nghèo đã lên tới 12,5%, nhóm hộ cận
nghèo gia tăng rất mạnh. Trong số đó, không ít hộ từ xóa nghèo lại tái nghèo, bình
quân có đến 60-70% tái nghèo, tức là tình trạng đói nghèo tăng cấp số cộng so với kết
quả xóa đói giảm nghèo. Kết quả giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số, miền núi chưa
thực sự bền vững, chất lượng giảm nghèo chưa cao. Thu nhập bình quân đầu người
thấp, các chỉ số thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo dân tộc thiểu số còn
ở mức cao, nhất là các chỉ số thiếu hụt về chất lượng nhà ở, diện tích nhà ở, nhà tiêu
hợp vệ sinh, nước sinh hoạt.
- Một số vấn đề bức xúc của đồng bào dân tộc thiểu số chậm được giải quyết
Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu
số nghèo chưa được giải quyết cơ bản, chưa đạt kế hoạch đề ra. Các chính sách hỗ trợ


giảm nghèo thường có mục tiêu lớn, nhưng thời gian thực hiện ngắn, định mức hỗ trợ
thấp; vốn cấp không đủ, chậm và không đồng bộ, nên việc triển khai thực hiện chưa
đạt hiệu quả cao, nhiều chương trình/dự án giảm nghèo khi kết thúc đều không đạt
mục tiêu, phải kéo dài thời gian thực hiện. Các chương trình, dự án giảm nghèo do
nhiều Bộ, ngành phụ trách, có cơ chế quản lý, vận hành khác nhau, làm hạn chế việc
lồng ghép chính sách và cân đối nguồn lực chung.
- Việc thực hiện các chính sách xoá đói giảm nghèo không hiệu quả, tồn tại hạn chế
trong các chính sách đó
Một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất còn manh mún, dàn trải; một số chính
sách trùng lặp về nội dung và địa bàn, đối tượng thụ hưởng. Cùng với đó, một số chính
sách xây dựng và ban hành có định mức thấp, hiệu quả không cao, chậm sửa đổi, bổ

sung. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong hoạch định, ban hành chính
sách chưa thực sự chặt chẽ, đồng bộ, kịp thời; việc lấy ý kiến tham gia của Hội đồng
dân tộc vào việc xây dựng chính sách giảm nghèo cho vùng dân tộc thiểu số, chưa
được quan tâm đúng mức, sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng và thực
hiện chính sách còn hạn chế. Nhiều cuộc giám sát trước chỉ ra chính sách thường chậm
so với thực tế, chính sách thường lạc hậu so với yêu cầu cuộc sống.
- Kỷ luật các sai phạm còn lỏng lẻo
Về tổ chức thực hiện, nguồn lực thời gian qua khá tập trung, cơ bản đều đạt dự toán
nhưng so với yêu cầu còn chưa đáp ứng. Đặc biệt, dù nguồn lực khó khăn nhưng kỷ
luật tài chính vẫn lỏng lẻo. Chẳng hạn, qua kết quả của Kiểm toán nhà nước thì sai
phạm giai đoạn sau lại cao hơn giai đoạn trước.
- Hạn chế trong nhận thức của các cấp và người dân
Có nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp đối với hộ nghèo nên chưa tạo được ý thức chủ
động của các cấp và người dân. Do các hoạt động truyền thông “Xoá đói giảm nghèo”
còn hạn chế nên người dân chưa có nhận thức đúng nhu cầu trong việc thực hiện mục
tiêu giảm nghèo. Một bộ phận không nhỏ người nghèo, xã nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ
lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa chủ động vươn lên thoát nghèo. Mặt
khác, bệnh thành tích đã khiến một số địa phương khống chế tỷ lệ nghèo thấp hơn so
với thực tế, dẫn đến một số người nghèo chưa tiếp cận được các chính sách, gây ra
những hiểu biết sai lệch về chính sách của Nhà nước.
- Hạn chế về phát triển nguồn nhân lực
Các huyện nghèo hầu như chưa được đầu tư trung tâm dạy nghề. Địa phương nào
có rồi thì hiệu quả đào tạo thấp; các hình thức dạy nghề chưa phù hợp, chưa góp phần
thay đổi tập quán sản xuất lạc hậu của người dân. Lao động địa phương chủ yếu là
chưa qua đào tạo, không có tay nghề, nên rất khó tạo được việc làm tại chỗ cũng như
tham gia thị trường lao động trong và ngoài nước. Đội ngũ cán bộ có chuyên môn kỹ


thuật chưa có hoặc chưa đủ để có thể hướng dẫn người dân tiếp thu và áp dụng kỹ
thuật mới vào sản xuất, nên chưa đưa được các chương trình hỗ trợ dịch vụ sản xuất,

khuyến nông, lâm, thú y, bảo vệ thực vật đến với người dân. Hệ thống giáo dục phổ
thông tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao dân
trí, chuyển biến nhận thức của người dân; các lớp học mẫu giáo, các điểm trường tiểu
học và nhà ở cho học sinh còn rất thiếu thốn. Chưa quan tâm đào tạo giáo viên người
dân tộc tại chỗ, đối với giáo viên ở miền xuôi lên vùng khó khăn công tác thì chưa có
chính sách khuyến khích thỏa đáng động viên, nên không đảm bảo sự gắn bó lâu dài.
Chương trình đào tạo cử tuyển với mục đích đào tạo con em đồng bào dân tộc, người
địa phương để trở về phục vụ địa phương vẫn còn tình trạng ưu tiên con em cán bộ có
điều kiện, nên một bộ phận không nhỏ sau khi được đào tạo theo hệ cử tuyển đã không
trở lại địa phương công tác.
- Các chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo chưa được quán triệt còn nhiều sơ hở
đến từ chính các cấp lãnh đạo
Tình trạng quan liêu, bao che, làm giả để chuộc lợi cá nhân. Điển hình là vụ hộ cận
nghèo có nhà lầu, ô tô ở Thanh Hóa vùa qua “vì có người nhà là cán bộ”. Qua kiểm
tra, UBND huyện Yên Định đã làm rõ có 9 hộ thuộc diện khá giả nhưng lại được nhận
hỗ trợ do là người nhà của cán bộ thôn, xã. Đồng thời, có 6 hộ hoàn cảnh khó khăn
nhưng lại không thuộc diện được hỗ trợ. Cụ thể, quá trình xác minh của đoàn công tác,
UBND xã Yên Thọ đã lập danh sách niêm yết công khai 11 hộ cận nghèo thuộc thôn
Tu Mục 1, Tu Mục 2, tuy nhiên có 9/11 hộ có nhà 2 tầng kiên cố, có xe máy, ôtô…
không thuộc hộ cận nghèo nhưng vẫn nằm trong danh sách hộ cận nghèo của xã và
thuộc diện được nhận hỗ trợ.
 Các nguyên nhân gây ra những hạn chế trên:
- - Theo giải thích của Bộ Lao Động - Thương binh và xã hội là vì, mức
vốn đầu tư của nhà nước so với kế hoạch và yêu cầu thấp hơn, sử dụng vốn
không hướng vào những nguyên nhân nghèo đói bức xúc nhất ; thu nhập hộ cận
nghèo còn bấp bênh đã và đang xảy ra tình trạng ỷ lại vào chính sách ưu đãi và
sự đầu tư của nhà nước và sự hỗ trợ của cộng đồng ... Tuy nhiên, có lẽ vấn đề
xóa nghèo không thực sự hiệu quả là thiếu chính sách vĩ mô hợp lí để kích hoạt
sự phát triển chung của xã hội.
- - Nhiều ý kiến khác nhau cho vấn đề chất lượng nằm ở các chính sách

xóa đói giảm nghèo. Các hướng chính sách luôn hướng từ trên xuống theo một
giải pháp tồn tại mấy chục năm nay: rót vốn cho người nghèo để họ có thêm
tiền để thoát nghèo (theo tiêu chí). Còn việc người nghèo sử dụng đồng vốn đó
như thế nào, bản thân người nghèo thụ hưởng các chính sách xóa đói nghèo như
thế nào, tâm lý người nghèo trước chính sách phát triển kinh tế - xã hội ra sao ...


vẫn được đánh giá, thẩm định đúng mức, thậm chí không có hề được quan tâm.
Người nghèo sau khi nhận được số tiền đến bủ từ mảnh ruộng của mình trong
các dự án quy hoạch , họ không biết sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả dẫn
đến :
- Thứ nhất, chỉ thoát khỏi cảnh nghèo đói trong một thời gian ngắn . Khi
đã sử dụng hết số tiền mà họ được làm bán đất và đền bù, giải phóng thì họ lại
tái nghèo.
- Thứ hai, khi diện tích đất bị thu hồi một số lao động trong nông nghiệp
không tìm thấy công việc mới, thất nghiệp gia tăng và vì vậy họ rất khó khăn
trong việc tự mình thoát khỏi đói nghèo.
- Thứ ba, khi giá đất tăng lên do tác động của đô thị hóa, người dân bán
đất bạt ngàn, nhiều ngôi nhà mới được xây dựng nhưng đó là những ngôi nhà
của những người ở nơi khác, có nhiều tiền còn lại dân thì được đẩy vào sâu
hơn và đất canh tác cũng thu hồi, vì vậy người dân khó có cơ hội để duy trì hoạt
động sản xuất nông nghiệp của mình nếu họ không có kế hoạch sử dụng đồng
tiền kiếm được từ đất bán một cách có hiệu quả và cuối cùng cảnh nghèo đói
vẫn tiếp tục ở lại với họ. Chính sách xóa đói nghèo giäm luôn được coi như
một chính sách hành chính chứ không phải là một xã hội chính sách. Các báo
cáo thành tích luôn đinh đóng cột giảm bớt độ cứng, điều đó dẫn đến thực tế là
rất nhiều nguời nghèo khó xóa trên giấy, khi thực tế cuộc sống nghèo của họ
không có một chút thay đổi nào dù có thêm những
- vốn kiếm được từ việc bán đất hiệu quả và cuối cùng nghèo đói tiếp tục
đeo bám họ. - Chính sách giảm nghèo luôn được coi là một chính sách hành

chính chứ không phải là một chính sách xã hội. Các báo cáo thành tích luôn
bao gồm thành tích xóa đói giảm nghèo, dẫn đến việc nhiều người nghèo bị xóa
sổ trên giấy, trong khi thực tế cuộc sống nghèo khó của họ vẫn không thay đổi
chút nào dù đã được hỗ trợ thêm. Vì vậy, khi có những tác động từ sự thay đổi
của tình hình kinh tế - xã hội (lòng tốt, dịch bệnh, lạm phát ...) đến sự thay đổi
của gia đình (ốm đau, chuyển đổi nghề nghiệp ...) thì người nghèo càng lâm vào
tình trạng khó khăn hơn. Cho đến nay, các chính sách giảm nghèo vẫn chưa có
giải pháp hữu hiệu . Và đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng gia tăng hộ
nghèo, tái nghèo cũng như gia tăng khoảng cách giàu nghèo, ngay cả ở những
địa phương luôn được coi là “có chính sách giảm nghèo tốt nhất, hiệu quả
nhất”.
- - Ở miền Trung, nguyên nhân tái nghèo là do thiên tai. Thực tế này cũng
là tình hình chung của khu vực. Miền Trung hàng năm phải hứng chịu bão lụt
vào mùa đông và hạn hán vào mùa hè. Tất nhiên sống chung với thiên tai vẫn


còn là bài toán nan giải. Vấn đề di dời những ngôi nhà nằm dọc theo vùng sạt
lở, vùng trũng bị lũ lụt uy hiếp chưa thực hiện rốt ráo . Còn lại các thành phố
lớn nguyên nhân chính là do tình hình lạm phát, chỉ số tiêu dùng (CPI) tăng cao
đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo, dẫn đến tái
nghèo, phát sinh hộ nghèo mới.

KẾT LUẬN
Các vấn đề xã hội có vị trí và vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Qua hơn
20 năm đổi mới, nhận thức mới của Đảng ta về những vấn đề xã hội thể hiện ở hệ
thống quan điểm, giải pháp về xây dựng và phát triển các vấn đề xã hội, trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trên thực tế, Việt Nam đã hoàn thành hầu hết và cơ bản các mục tiêu Thiên niên kỷ.
Đặc biệt là đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao đời sống nhân dân.

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng như thế, nhưng Đại hội XII của Đảng
vẫn cho rằng: “Quản lý phát triển xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Việc giải
quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu
- nghèo có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài
hòa, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người”.
Xuất phát từ thực trạng đó, đề tài đã phân tích rõ hơn về mặt lý luận để đi sâu vào
nghiên cứu thực trạng đói nghèo ở Việt Nam trước và sau khi đưa ra chủ trương xóa
đói giảm nghèo. Từ đó đưa ra những ưu điểm, hạn chế trong việc thực hiện chủ trương
xóa đói giảm nghèo của Đảng ta thời kì đổi mới.
Tuy nhiên do thời gian, kinh phí có hạn năng lực nghiên cứu của Nhóm 5 còn hạn
chế nên không khỏi có những thiếu sót nhất định. Nhóm 5 rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của cô để hoàn thiện hơn về đề tài thảo luận của nhóm.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình “Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam” của Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
2.
Các trang web:
/> /> /> />

×