Tải bản đầy đủ (.docx) (222 trang)

Quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội tại thành phố hải phòng từ năm 2001 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.21 MB, 222 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

NGUYỄN NGỌC MẠNH

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
AN SINH XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2015

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ


2

HÀ NỘI - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

NGUYỄN NGỌC MẠNH

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
AN SINH XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2015
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số

: 9.22.90.13



LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ


3

HÀ NỘI - 2020


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ. Các số liệu, bảng biểu, hình ảnh
được sử dụng trong luận án đều có nguồn gốc rõ ràng và được dẫn nguồn khi
trích dẫn. Các kết quả nghiên cứu được công bố trong luận án chưa từng được
công bố trong một công trình nào khác.
.
Tác giả luận án

Nguyễn Ngọc Mạnh


5

MỤC LỤC


6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH

An sinh xã hội

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

HĐND

Hội đồng Nhân dân

GQVL

Giải quyết việc làm

Nxb

Nhà xuất bản


TGXH

Trợ giúp xã hội

UBND

Uỷ ban nhân dân

XĐGN

Xóa đói, giảm nghèo

DVXHCB

Dịch vụ xã hội cơ bản

DANH MỤC CÁC BẢNG


7


8

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 của Liên Hợp quốc tại
Điều 22. Quyền An sinh xã hội của con người khẳng định: “Mọi người, như
một thành viên của xã hội, có quyền an sinh xã hội và được quyền thực hiện,
thông qua nỗ lực quốc gia và hợp tác quốc tế và phù hợp với tổ chức và các

nguồn lực của mỗi quốc gia” [149, tr.451]. Điều đó đồng nghĩa, các quốc là
thành viên của Liên Hợp quốc phải có trách nhiệm pháp lý, hành động cụ thể
hiện thực hóa các mục về ASXH, đảm bảo quyền an sinh cho người dân.
Đối với Việt Nam, ASXH không chỉ là thực hiện các cam kết quốc tế,
những hoạt động về mặt ngoại giao hay xây dựng hình ảnh quốc gia mà còn là
một vấn đề thuộc về bản chất của nhà nước - nhà của dân do dân và vì dân, gắn
với mục tiêu cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước Việt
Nam đang phấn đấu thực hiện. Do đó, ngay từ khi ra đời năm 1945, Nhà nước
Việt Nam đã khẳng định mục tiêu theo đuổi nhất quán là: “độc lập - tự do hạnh phúc”. Trong điều kiện “thù trong, giặc ngoài” đe dọa đến sự tồn tại của
chính quyền non trẻ nhưng những vấn đề về an sinh như: “diệt gặc đói”, “diệt
giặc dốt” - xóa nạn mù chữ, mở mang trường học, tăng gia sản xuất, cải thiện
đời sống của người dân đã được đề ra và từng bước thực hiện. Điều này đã tạo
được niềm tin sự ủng hộ của người dân đối với chế độ mới và là cơ sở để chính
quyền đứng vững, vượt qua được tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Bước vào hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mục tiêu hàng đầu là
hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhưng Đảng và
Nhà nước Việt Nam vẫn quan tâm chăm lo đến đời sống của người dân ở hậu
phương, thực hiện phát triển giáo dục, y tế, chăm lo cho các gia đình chính
sách… Điều đó đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn kỷ cương và an ninh
xã hội, hoàn thành nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Đồng
thời, thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong giải quyết các vấn đề xã hội
với điều kiện chiến tranh kéo dài.


9

Bước vào thời kỳ đổi mới, vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội do
phạm phải sai lầm trong việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý kế hoạch tập trung
bao cấp, Đảng và Nhà nước Việt Nam quyết tâm đổi mới, trong đó, đổi mới
kinh tế là trọng tâm kết hợp đổi mới các vấn đề về xã hội. Từ đó, nhận thức

của Đảng và Nhà nước về ASXH ngày càng rõ ràng cụ thể hơn. ASXH vừa là
mục tiêu vừa là động lực của phát triển bền vững, một trong những yếu tố thể
hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Do đó, Nghị
quyết số 15, Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI đặt ra yêu cầu phấn đấu đến năm 2020 cơ bản
hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân; bảo đảm người dân có việc
làm, thu nhập tối thiểu, tham gia bảo hiểm xã hội; bảo đảm hỗ trợ những người
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch
vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo
đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân. Tuy nhiên, để
hiện thực hóa được yêu cầu đó, Việt Nam phải đối diện với nhiều khó khăn và
thử thách như: sự biến động bất lợi từ nền kinh tế thế giới; các khoản vay ưu đãi,
các khoản viện trợ quốc tế bị cắt giảm; chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu;
xu hướng già hóa dân số diễn ra nhanh; cách thức và kết quả thực hiện chính
sách ASXH đã bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế. Xuất phát từ những yếu tố đó,
tìm hiểu nghiên cứu ASXH ở Việt Nam trong điều kiện mới là một vấn đ ề c ấp
thiết đặt ra cho các cá nhân, cơ quan và tổ chức khoa học.

Thành phố Hải Phòng từ khi thành lập (năm 1888) đã có vai trò chiến
lược trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của Việt
Nam. Vai trò chiến lược của thành phố càng được thể hiện và khẳng định
trong giai đoạn phát triển hiện nay khi là 1 trong 5 thành phố trực thuộc trung
ương, đô thị loại I (lớn thứ 2 miền Bắc và thứ 3 Việt Nam). Trong tương lai,
Hải Phòng được định hướng phát triển là: “Một cực tăng trưởng quan trọng
của vùng kinh tế động lực phía Bắc; một trọng điểm phát triển kinh tế biển;


10

một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung

tâm dịch vụ, du lịch, thuỷ sản, giáo dục và y tế của vùng duyên hải Bắc Bộ;
một pháo đài bất khả xâm phạm về quốc phòng - an ninh, đời sống Nhân dân
ngày một nâng cao” [45]. Bởi vậy, đi liền với việc phát triển kinh tế, giải
quyết những vấn đề về ASXH, bảo đảm thu nhập và các yêu cầu thiết yếu của
người dân cũng chính là một trong những yếu tố quan trọng để hiện thực hóa
những mục tiêu và định hướng trên. Đồng thời, phần khơi dậy những nghĩa cử
cao đẹp trong các tầng lớp nhân dân với mục đích, ý nghĩa tốt đẹp “chung tay
vì cộng đồng” và “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Từ những vấn đề trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn: "Quá trình
thực hiện chính sách an sinh xã hội tại thành phố Hải Phòng từ năm 2001
đến năm 2015" làm đề tài luận án tiến sĩ lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Làm sáng tỏ quá trình thực hiện chính sách ASXH từ năm 2001 đến
năm 2015 tại Thành phố Hải Phòng. Từ đó, rút ra những đặc điểm, đánh giá
tác động của quá trình thực hiện chính sách đối với vấn đề kinh tế và xã hội
trên địa bàn thành phố.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Trình bày có hệ thống những vấn đề lý luận về ASXH. Trong thời
gian gần đây, vấn đề ASXH nhận được sự quan tâm nghiên cứu và làm rõ ở
nhiều góc độ khác nhau. Bởi vậy, thông qua việc khảo cứu các tài liệu, công
trình nghiên cứu tác giả hệ thống, khái quát góp phần làm rõ thêm những vấn
đề lý luận về ASXH như: vai trò, chức năng, các trụ cột cơ bản cùng với các
quan điểm, chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về ASXH
- Phân tích những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
của thành phố Hải Phòng. Quá trình thực thi chính sách phụ thuộc vào nhiều


11


yếu tố, trong đó điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội là yếu tố cơ bản và tác
động thường xuyên nhất. Do đó, luận án có nhiệm vụ chỉ ra những đặc điểm
nổi bật về tự nhiên, kinh tế, xã hội của Hải Phòng từ đó làm rõ những thuận
lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện chính sách.
- Tái hiện tiến trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách
ASXH của Đảng bộ và Chính quyền thành phố Hải Phòng từ năm 2001 đến
năm 2015. Từ hiện thực lịch sử và các nguồn tư liệu, sử liệu, số liệu thống kê
và các nhân vật cụ thể, luận án tái hiện quá trình lãnh đạo, tổ chức thực hiện
chính sách ASXH qua các giai đoạn và làm rõ những kết quả đạt được cũng
như hạn chế, yếu kém trong các giai đoạn đó.
- Rút ra những đặc điểm, đánh giá những tác động của quá trình thực
thi chính sách. Luận án không chỉ mô tả, tái hiện tiến trình thực hiện chính
sách ASXH mà còn có nhiệm vụ rút ra những đặc điểm, đánh giá những tác
động của quá trình thực thi đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội và nêu
lên những vấn đề đặt ra.
- Tham quan thực tế, phỏng vấn. Tác giả luận án sẽ tiến hành các hoạt
động tham quan thực tế tại cơ sở; phỏng vấn, tìm hiểu ý kiến đánh giá của
người dân để có thêm những căn cứ, chứng cứ cụ thể phục vụ cho việc rút ra
những kết luận của luận án.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình thực hiện chính sách
ASXH tại thành phố Hải Phòng từ năm 2001 đến năm 2015.
Chính sách ASXH là một trong những công cụ cơ bản để Đảng và Nhà
nước thể hiện vai trò lãnh đạo và thực hiện chức năng quản lý của mình đối
với các vấn đề xã hội. Chính sách ASXH được thể hiện trong Cương lĩnh,
nghị quyết của Đảng, được thể chế hóa bằng những văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước cùng với các chương trình, đề án cụ thể. Do đó, quá trình



12

thực hiện chính sách ASXH ở Hải Phòng được hiểu là việc các cơ quan, tổ
chức của thành phố quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trên địa bàn thành phố. Đó là một quá
trình vừa mang tính chấp hành vừa mang tính chủ động, linh hoạt và sáng tạo
dựa trên những điều kiện cụ thể của địa phương.
Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian
Luận án lựa chọn khoảng thời gian nghiên cứu từ năm 2001 đến năm 2015.
Năm 2001, tại Đại hội IX (2001), lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam
chính thức sử dụng khái niệm “an sinh xã hội” trong văn kiện. Đây là dấu
mốc quan trọng trong quá trình đổi mới về tư duy nhận thức của Đảng về
ASXH. Từ đó, ASXH được chú trọng hơn và dần trở thành một bộ phận quan
trọng của mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.
Nghiên cứu về ASXH ở thành phố Hải Phòng, tác giả luận án chia làm
2 giai đoạn:
Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010, đây là giai đoạn đầu tiên thành
phố Hải Phòng và cả nước thực hiện chính sách ASXH gắn với Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 với quan điểm cơ bản là: “Phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [41, tr.25].
Giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, 5 năm đầu thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, là giai đoạn đẩy mạnh thực hiện các
mục tiêu về kinh tế - xã hội để tiến tới tổng kết 30 năm đổi mới.
- Về mặt không gian
Luận án nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hải Phòng, gồm có: 7 quận
nội thành (Ngô Quyền, Hồng Bàng, Lê Chân, Dương Kinh, Đồ Sơn, Kiến An
và Hải An); 6 huyện ngoại thành (Thuỷ Nguyên, Hải An, An Lão, Kiến Thụy,

Tiên Lãng, Vĩnh Bảo) và 2 huyện đảo (Cát Hải, Bạch Long Vĩ).


13

- Về nội dung
Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành trung ương khóa XI, ngày
01/6/2012 đã ra Nghị quyết số 15-NQ/TW, Một số vấn đề về chính sách xã
hội giai đoạn 2012 - 2020, theo đó các nội dung chính trong chính sách
ASXH gồm: 1) Chính sách giải quyết việc làm; 2) Chính sách xóa đói, giảm
nghèo; 3) Chính sách bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; 4) Chính sách trợ giúp
xã hội; 5) Chính sách đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục; y tế; nhà
ở; nước sạch; thông tin), đây là cơ sở để nghiên cứu sinh xác định nội dung
nghiên cứu trong luận án.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở sử dụng các nguồn tài liệu chính sau đây:
- Tài liệu lưu trữ
Đây là nguồn tài liệu được tác giả nghiên cứu để làm rõ đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước Việt Nam và của thành phố Hải
Phòng về ASXH. Bao gồm: Cương lĩnh, văn kiện đại hội, văn kiện hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương và các chỉ thị, kết luận của Đảng chủ yếu từ Đại
hội VI (1986) đến Đại hội XII (2016). Các văn bản pháp quy của Quốc hội
như: Hiến pháp, luật, pháp lệnh; nghị quyết. Các nghị định, thông tư, quyết
định, chương trình, đề án của Chính phủ và bộ ngành có liên quan đến chính
sách ASXH. Bên cạnh đó là các văn kiện, nghị quyết, quyết định, đề án,
chương trình… của Đảng bộ, HĐND, UBND thành phố Hải Phòng.
- Tài liệu báo cáo, thống kê
Nhóm tài liệu bày bao gồm: Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội của
UBND thành phố; Báo cáo tổng kết, sơ kết của Sở Lao động - Thương binh

và Xã hội, Bảo hiểm xã hội thành phố, Sở Y tế, Sở Giáo dục và đào tạo v.v…
Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, Niên giám thống kê


14

thành phố Hải Phòng của Cục Thống kê thành phố. Đây là những ấn phẩm
được xuất bản hằng năm để giới thiệu số liệu về đơn vị hành chính, dân số,
lao động, tài khoản quốc gia, ngân sách nhà nước, đầu tư, doanh nghiệp, bưu
chính viễn thông, giáo dục, y tế v.v… Nhóm tài liệu này là một trong những
nguồn chính cung cấp số liệu được sử dụng trong đề tài.
- Tài liệu tham khảo
Gồm có các công trình nghiên cứu (chủ yếu bằng tiếng Việt và tiếng
Anh) có liên quan trực tiếp đến chính sách ASXH, bao gồm: sách chuyên
khảo, sách tham khảo, bài viết đăng trên tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học,
luận án của các nghiên cứu sinh. Đây là nguồn tài liệu cung cấp cho nghiên
cứu sinh những tri thức chung nhất về ASXH như khái niệm, nguồn gốc, chức
năng, vai trò; cho thấy sự khác nhau trong mô hình, cách thức thực hiện
ASXH giữa các quốc gia cũng như thực trạng và phương hướng, giải pháp
thực hiện ASXH ở Việt Nam.
- Tài liệu điền dã
Tài liệu này có được thông qua hoạt động tham quan thực tế, phỏng vấn
trực tiếp các đối tượng có liên quan, từ đó tác giả luận án thu được những
thông tin về nhận xét, đánh giá và thái độ của người dân đối với quá trình
thực hiện ASXH. Đây là nguồn tài liệu giúp tác giả đối chiếu, so sánh với các
nguồn tài liệu khác và có cách nhìn trực quan về quá trình thực hiện chính
sách ASXH ở thành phố Hải Phòng.
- Tài liệu từ Internet
Với việc phát triển mạnh mẽ của Internet và ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý nhà nước mà chính sách, hệ thống văn bản pháp luật, thủ tục

hành chính, các số liệu thống kê, báo cáo được công bố công khai trên các
cổng thông tin điện tử của các cơ quan và tổ chức. Nguồn tài liệu này vừa


15

phong phú, đa dạng vừa mang tính chính thống được nghiên cứu sinh sử dụng
bổ trợ cho nghiên cứu đề tài.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở thế giới quan duy vật và phương pháp
luận biện chứng của Triết học Mác-Lênin. Đồng thời, vận dụng phương pháp
luận sử học mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong công tác nghiên lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành
Cũng như các công trình khoa học lịch sử khác, trong luận án, tác giả
sử dụng hai phương pháp cơ bản là phương pháp lịch sử và phương pháp
logic. Với phương pháp lịch sử, tác giả tái hiện quá trình tổ chức thực hiện
chính sách ASXH theo một trình tự liên tục về mặt thời gian trong không gian
cụ thể, làm rõ điều kiện, đặc điểm phát sinh, phát triển và kết quả đạt được;
làm sáng tỏ sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố liên quan đến quá trình tổ
chức thực hiện. Phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu trong Chương
3, Chương 4 gắn với quá trình thực hiện chính sách ASXH tại thành phố Hải
Phòng từ năm 2001 đến năm 2015. Phương pháp logic, tác giả sử dụng để rút
ra các đặc điểm, khuynh hướng vận động và chỉ ra những vấn đề về bản chất
của chính sách ASXH. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 5
để làm rõ các đặc điểm, đánh giá tác động của quá trình thực hiện chính sách
ASXH đối với các lĩnh vực kinh tế, xã hội và nêu lên những vấn đề đặt ra.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả vận dụng kết hợp các phương

pháp khác như: thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh. Các phương pháp trên
góp phần đánh giá chi tiết những chuyển biến, thay đổi qua các giai đoạn
trong quá trình thực hiện chính sách ASXH ở Hải Phòng.


16

Bên cạnh đó, tác giả luận án tiến hành hoạt động điền dã, thực tế tại một
số xã, phường, thị trấn kết hợp với phỏng vấn, trao đổi với cán bộ và người
dân. Phương pháp này giúp tác giả kiểm chứng, đối chiếu giữa chủ trương,
chính sách với thực tiễn, từ đó làm cho luận án thêm phần cụ thể, sinh động.
5. Đóng góp của luận án
Là công trình đầu tiên nghiên cứu về ASXH ở Hải Phòng một cách toàn
diện trong thời gian tương đối dài (15 năm), do đó, luận án có những đóng
góp nhất định về khoa học và thực tiễn:
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về ASXH, khẳng định tính
đúng đắn, phù hợp của quan điểm phát triển bền vững: Tăng trưởng kinh tế gắn
với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển của Việt Nam
- Luận án góp phần làm rõ những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội tác động đến quá trình thực hiện chính sách ASXH tại thành phố
Hải Phòng. Từ đó khẳng định, Hải Phòng là một trong số ít địa phương hội tụ
đầy đủ những yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để hiện thực hóa các mục
tiêu về ASXH.
- Từ việc tái hiện quá trình Đảng bộ và chính quyền thành phố tổ chức
thực hiện và những kết quả đạt được trên các trụ cột của ASXH, luận án làm
rõ vai trò chủ động, sáng tạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức
chính trị - xã hội, các cá nhân, các thành phần kinh tế trong việc thực hiện các
chủ trương, chính sách của Trung ương và đề ra những chính sách mang tính
đặc thù của địa phương. Mặt khác, từ những hạn chế tồn tại và nguyên nhân,

luận án chỉ ra những điểm nghẽn, những trở ngại mà thành phố Hải Phòng cần
phải vượt qua trong những giai đoạn phát triển tiếp theo.
- Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc hoạch định chính sách
an sinh xã hội và trong công tác nghiên cứu, học tập lịch sử địa phương.


17

6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận án được chia làm 5 chương.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Những yếu tố tác động đến quá trình thực hiện chính sách an
sinh xã hội ở thành phố Hải Phòng từ năm 2001 đến năm 2015
Chương 3. Quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Hải
Phòng từ năm 2001 đến năm 2010
Chương 4. Đẩy mạnh thực hiện chính sách an sinh xã hội tại thành phố
Hải Phòng từ năm 2011 đến năm 2015
Chương 5. Nhận xét quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội tại
thành phố Hải Phòng từ năm 2001 đến năm 2015


18

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đề đề tài
1.1.1. Những công trình nghiên cứu ASXH ở nước ngoài
Ngày nay ASXH đã trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu, là một
tiêu chuẩn để đánh giá trình độ phát triển quốc gia trong cộng đồng quốc tế.

Do đó, tìm hiểu các công trình nghiên cứu về ASHX ở nước ngoài sẽ góp
phần nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về vấn đề này.
Cuốn “An sinh xã hội ở các nước đang phát triển” (Social security in
Developing Countries) [150] của các tác giả Ehtisham Ahmad, Jean Drèze,
John Hills và Amartya Sen, năm 1991. Công trình nhấn mạnh đến sự cần thiết
của hệ thống ASXH, cho rằng đó là một vấn đề mang tính phổ quát, là mong
muốn của con người trong bất kỳ một xã hội nào, đặc biệt là đối với các nước
đang phát triển. Bởi vì, các nước đang phát triển tỷ lệ dân số và mức độ thiếu
hụt các điều kiện sống nghiêm trọng hơn (so với các nước phát triển), mức độ
phát triển thấp của các hệ thống an sinh xã hội, đối tượng hỗ trợ ít hoặc không
phù hợp, sự thiếu hụt các nguồn lực và sự bất lực của người nghèo - những
đối tượng dễ bị tổn thương bởi những tác động bất lợi của hoàn cảnh. Từ đó,
các tác giả đã đề cập đến sự cần thiết can thiệp của Nhà nước trong việc thực
hiện ASXH. Điều đó được lý giải là do sự thất bại của thị trường, thị trường
không thể tự điều tiết tốt các vấn đề của ASXH, mặt khác nhà nước với các
công cụ quan trọng (pháp luật, chính sách) và các nguồn lực (tài chính) mới
có thể thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của ASXH. Tuy nhiên, chỉ duy nhất
Nhà nước thực hiện là “điều không khả thi và không nên như thế”, mà cần có
sự chia sẻ từ gia đình, cộng đồng, công ty, nhóm tôn giáo,… có vai trò hỗ trợ
và sự bổ sung cho nhà nước.
Tác giả Peter A.Diamond và Peter R.Orszag, hai trong số các nhà kinh
tế hàng đầu của Mỹ với cuốn “Tiết kiệm an sinh xã hội: Một cách tiếp cận


19

cân bằng” (Saving Social Security: A Balanced Approach), năm 2005 [156].
Thông qua công trình này, một vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự
thành công của ASXH ở nước Mỹ là tiết kiệm tài chính. Tác giả và các cộng
sự khẳng định tầm quan trọng của tiết kiệm, yếu tố giúp cho con người vượt

qua được những biến cố, những cú sốc về việc bị mất thu nhập, giúp họ duy trì
và đảm bảo được cuộc sống trước những biến cố đó. Và theo các tác giả, thì
yếu tố quan trọng nhất là chính phủ phải tạo điều kiện cho họ có việc làm, có
nguồn thu nhập ổn định thì mới có tiết kiệm. Đi liền với vấn đề đó, cần đa
dạng hóa các hình thức tiết kiệm, các loại hình bảo hiểm, sự linh hoạt trọng
các gói tài chính và đảm bảo sự chi trả đúng hạn của các tổ chức tài chính…
điều đó, sẽ giúp cho vấn đề tiết kiệm được trở nên dễ dàng hơn, do đó, sẽ giảm
được những gánh nặng cho ngân sánh khi có những biến cố xảy ra.
Cuốn ‘Các chương trình an sinh xã hội và hưu trí trên toàn thế giới”
(Social Security Programs and Retirement around the World) của nhóm tác
giả Jonathan Gruber và David A Wise có các phần: Phần 1 “Ý nghĩa của cải
cách tài chính” (Fiscal implications of reform), năm 2007 [153] và phần 2
“Mối quan hệ với việc làm của thanh niên” (The relationship to youth
employment), năm 2010 [154]. Công trình tập hợp nhiều bài nghiên đến từ
nhiều quốc gia khác nhau (chủ yếu các quốc gia phát triển như: Bỉ, Canada,
Đan Mạch, Pháp, Ý, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Mỹ…). Trong phần 1, các tác
giả đã chỉ ra rằng, hệ thống tài chính của ASXH ở các nước này đang thực sự
gặp khó khăn khi mức chi trả ngày một lớn dẫn đến mất cân bằng giữa thu và
chi. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do sự gia tăng người
lao động nghỉ hưu và nhận những trợ cấp hợp pháp. Trong phần 2, các tác giả
đã chỉ ra mối quan hệ giữa việc nghỉ hưu với việc khéo dài thời gian lao động
của cao tuổi; những tác động của cải cách an sinh xã hội với tỷ lệ làm việc
của người lao động cao tuổi; mở rộng lực lượng lao động với chi phí an sinh
xã hội…. Từ đó, cuốn sách đi đến bác bỏ giả thuyết: sử dụng lao động lớn


20

tuổi sẽ lấy mất việc làm của người trẻ và khẳng định đây là một biện pháp góp
phần đảm bảo cho quỹ ASXH được duy trì.

Cuốn “An sinh xã hội: Kinh tế và phát triển (Social Security, the
Economy and development) của tác giả James Midgley, năm 2008 [151].
Thông qua phân tích về quá trình thực hiện ASXH của các nước như: Anh,
Chile, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Na Uy, Singapore, Nam Phi và Hoa
Kỳ… cuốn sách góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa ASXH và phát triển
kinh tế: An sinh xã hội góp phần tích cực vào phát triển kinh tế bằng cách
thúc đẩy những khoản đầu tư xã hội. Đồng thời, tăng trưởng kinh tế góp phần
tăng cường phúc lợi xã hội. Ngoài ra, tác giả James Midgley còn có cuốn
(cộng tác với Mitsuhiko Hosaka) “Cơ sở an sinh xã hội ở châu Á: Hỗ trợ lẫn
nhau, bảo hiểm vi mô và an sinh xã hội” (Basis of social security in Asia:
mutual aid, micro-insurance and social security), năm 2012 [152]. Tác giả chỉ
ra và chứng minh rằng, cơ sở của an sinh châu Á bao gồm ba yếu tố: Thứ nhất
là sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các tổ chức trong phạm vi quốc gia và thế giới; Thứ
hai là mô hình bảo hiểm vi mô và việc phát huy hiệu quả của mô hình bảo
hiểm này; Thứ ba là xây dựng chiến lược ASXH toàn diện đóng góp rõ rệt
cho mục tiêu xóa đói, giảm nghèo và cải thiện mức sống.
Cuốn “Sự bảo vệ: Một nguyên tắc chung của luật an sinh xã hội ở châu
Âu” (Security: A General Princeple of Social Security Law in Europe) của
nhóm tác giả Ulrich Becker, Danny Pieters, Friso Ross, Paul Schoukens, năm
2010 [157]. Các tác giả một mặt cho rằng, hệ thống an sinh xã hội đang trải
qua sự thay đổi sâu sắc trên toàn châu Âu do các nguyên nhân từ thay đổi
trong xã hội, trong thị trường lao động và các tác động của toàn cầu hóa. Mặt
khác, đã luận giải mối quan hệ giữa an sinh đối với quá trình lập pháp, trong
đó khẳng định vai trò quan trọng của việc xây dựng hệ thống pháp luật về an
sinh xã hội, xem đó là yếu tố hiệu quả nhất trong việc thực hiện các mục tiêu
về ASXH. Bởi vì, luật pháp về ASXH không chỉ cung cấp thông tin cho người


21


dân mà nó còn là một công cụ pháp lý mang tính bắt buộc trong thực tế và vì
xét cho cùng, “đó là yếu tố cốt lõi của quốc gia để bảo vệ các thành viên trong
xã hội mà không thể dựa vào tôn giáo hay sự trợ giúp nhân đạo của các nhóm
xã hội”.
Cuốn “An sinh xã hội, chăm sóc y tế và nhà ở xã hội” (Social Security,
Medicare & Government Pensions), của Joseph Matthews Attorney, Dorothy
Matthews Berman, năm 2013 [155] đã làm rõ các vấn đề: ASXH, chăm sóc y
tế, nhà ở xã hội. Từ việc phân tích những lợi ích của hệ thống BHYT, cách thức
để đảm bảo BHYT tốt nhất và nhà ở xã hội, tác giả đi đến khẳng định: Chăm
sóc y tế và đảm bảo nhà ở xã hội là yếu tố quan trọng, cốt lõi của chính sách
ASXH.
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu trong nước đã tìm hiểu hệ thống
ASXH ở nước ngoài và rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam. Tác giả Đinh
Công Tuấn với một loạt các công trình chuyên nghiên cứu về an sinh xã hội
của các nước Châu Âu như: “Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, năm 2008) [127]; “An sinh xã
hội Bắc Âu trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và bài học cho Việt
Nam” (Nxb Khoa học xã hội, năm 2013) [128]; “Hệ thống an sinh xã hội
của một số nước EU giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu”
(Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2013) [129]. Thông qua các công trình trình
trên, tác giả đã cung cấp những vấn đề mang tính tổng quan về hệ thống an
sinh xã hội của các nước thuộc khối EU. Trong đó có đi sâu tìm hiểu mô hình
hệ thống an sinh xã hội của một số quốc gia điển hình như Đan Mạch, Thụy
Điển, Phần Lan, Đức. Tác giả đã làm rõ sự tác động của khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến hệ thống an sinh xã hội và sự điều
chỉnh trong thực hiện chính sách an sinh xã hội của các quốc gia này. Từ
những những thành công, hạn chế, tác giả đã rút ra bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam: Thứ nhất, bài học về việc lựa chọn các mục tiêu giải quyết ASXH



22

trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Cụ thể là thực hiện các chương
trình về cứu trợ xã hội nhằm đảm bảo an toàn cho các thành viên trong xã hội
như người già, người khuyết tật, trẻ em mồ côi, người nghèo, người có thu
nhập thấp. Thứ hai, bài học về cơ chế đóng góp tài chính và trách nhiệm của
các chủ thể tham gia hệ thống an sinh xã hội. Trong đó, sự đóng góp của
người lao động và chủ sử dụng lao động là yếu tố chính đảm bảo cho quỹ
ASXH được an toàn và ổn định. Thứ ba, bài học về phát triển thị trường lao
động tích cực như làm việc bán thời gian, tăng tuổi lao động, giảm trợ cập đối
người có khả năng lao động…; Thứ tư, bài học về mức độ phổ quát và chất
lượng của hệ thống an sinh xã hội. Thứ năm, bài học cần tránh về khiếm
khuyết của một số mô hình an sinh xã hội, đó là: mức đóng góp của người dân
thông qua thuế quá cao hoặc để thị trường tự điều tiết hoặc chí phủ chi quá
nhiều nhưng ở mức thấp với đối tượng quá lớn.
Như vậy, các công trình nghiên cứu ASXH ở nước ngoài cho thấy vấn
đề tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau và đã làm rõ những vấn đề cơ bản
như vai trò, chức năng của ASXH; những nguy cơ, thách thức đang đặt ra đối
với quá trình thực thi ASXH; vai trò của nhà nước, các tổ chức và cá nhân
trong đảm bảo ASXH. Mặt khác, các nhà nghiên cứu đã rõ một số vấn đề cụ
thể của ASXH như bảo hiểm, lương hưu, nhà ở, y tế… đó là mối quan tâm
thường trực và đặt ra nhiều áp lực cho chính phủ và người dân các nước. Từ
đó, những lời khuyên hay khuyến cáo cho chính phủ và người dân được đưa
ra để chủ động giải quyết tốt các vấn đề trên.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, ASXH đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa
học, nhiều cơ quan, tổ chức, các công trình ra đời góp phần làm rõ những vấn
đề liên quan đến lĩnh vực quan trọng này. Cụ thể:
Cuốn “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam”
của tác giả Mai Ngọc Cường (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009) [25]. Cuốn



23

sách là một trong những công trình đầu tiên ở Việt Nam đi sâu nghiên cứu về
vấn đề ASXH trên quy mô toàn diện, rộng lớn. Theo tác giả, để nhận thức rõ
hơn bản chất ASXH, cần phải tiếp cận theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo
nghĩa rộng: “ASXH là sự đảm bảo thực hiện các quyền con người được sống
trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến
trong khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được
học tập; được có việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thỏa mãn
những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tại nạn, tuổi già” [25, tr.20].
Theo nghĩa hẹp: “ASXH là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh
sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất
thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc việc làm; cho những
người già cả, cô đơn, trẻ em mồ côi, người khuyết tật, những người nghèo khổ
và những người bị thiên tai, địch họa” [25, tr.20]. Bên cạnh đó, công trình tập
trung làm rõ những vấn đề cơ bản nhứ: sự cần thiết của hệ thống an sinh; khái
quát hệ thống ASXH của Việt Nam qua các thời kỳ phát triển và hệ thống
chính sách ASXH hiện hành ở Việt Nam. Từ việc phân tích thực trạng chỉ rõ
những hạn chế và nguyên nhân, tác giả đã đề xuất phương hướng, giải pháp
xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2015.
Cuốn “ASXH ở Việt Nam hướng tới năm 2020” của Vũ Văn Phúc
(Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2012) [85]. Cuốn sách tập hợp các bài viết
của các nhà quản lý, các chuyên gia nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực liên
quan đến vấn đề ASXH. Mỗi bài viết được tiếp cận từ các khía cạnh khác
nhau của vấn đề ASXH nhưng đều khẳng định đảm bảo ASXH sẽ góp phần
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, bảo đảm sự phát triển
bền vững của đất nước.
Để có thêm tư liệu và cách nhìn đa chiều về ASXH, nhiều cuộc hội

thảo, hội nghị, các cuộc tham vấn có sự tham gia của các tổ chức quốc tế,
chuyên gia nước ngoài được tổ chức ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo khoa học


24

“Cơ sở khoa học của việc xây dựng sàn ASXH ở Việt Nam giai đoạn 2011 2020”, năm 2013 của Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao động Thương binh & Xã hội) kết hợp với Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) tổ chức tại Hà Nội [144]. Tại Hội thảo, các nhà
khoa học đã đưa ra khái niệm sàn ASXH và nhấn mạnh tầm quan trọng của
sàn ASXH. Sàn ASXH là cơ sở xây dựng một cách toàn diện về hệ thống
ASXH với vai trò là một hợp phần của chiến lược phát triển quốc gia. Việt
Nam xây dựng sàn ASXH để tối đa hóa việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực
khan hiếm vì mục tiêu giảm nghèo và đảm bảo ASXH. Sàn ASXH không chỉ
hỗ trợ người nghèo và các đối tượng yếu thế vượt qua các rủi ro hiện tại mà
nó còn giữ vai trò quan trọng cho sự phát triển bền vững.
Cuốn “Chính sách ASXH - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Lê
Quốc Lý (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2014) [73]. Cuốn sách được biên soạn
trên cơ sở các tư liệu nghiên cứu, khảo sát, tổng kết thực tiễn việc thực hiện
chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay. Nội dung của cuốn sách tập trung vào
những vấn đề chính như: Cơ sở lý luận và thực tiễn về những trở ngại trong
thực thi chính sách ASXH; Những trở ngại trong thực thi các chính sách
ASXH ở Việt Nam gần đây qua đánh giá của nhóm cán bộ thực thi và đối
tượng thụ hưởng chính sách; Mục tiêu, quan điểm và giải pháp thực thi hiệu
quả chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2020.
Cuốn “Cơ sở khoa học của việc xây dựng sàn ASXH ở Việt Nam trong
thời gian tới” của tác giả Doãn Mậu Diệp ( Nxb Lao động Xã hội, năm 2015)
[29]. Tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng sàn
ASXH ở Việt Nam, đánh giá thực trạng sàn ASXH ở nước ta giai đoạn 2006 2012 và những dự báo, đề xuất mô hình và đưa ra những giải pháp xây dựng
sàn ASXH giai đoạn 2012 - 2020.
Luận án “Đảm bảo ASXH gắn với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” của

nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Tâm, năm 2015 [91]. Bằng lý luận và thực tiễn,


25

tác giả luận án đã góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa ASXH và tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam. Theo tác giả, việc thực hiện mô hình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bản thân nó đã hàm ý là phải
chú trọng đến vấn đề công bằng xã hội mà việc thực hiện nó chủ yếu thông
qua hệ thống hay mạng lưới ASXH. Tuy nhiên, không phải lúc nào Việt Nam
cũng thực hiện tốt mối quan hệ này. Trong những năm 1990 và đầu những
nămg 2000, tăng trưởng kinh tế đạt ở mức 7,5%, trong khi đó vấn đề ASXH
chưa được đầu tư thỏa đáng. Hệ thống ASXH phát triển chưa đáp ứng nhu cầu
của người dân, số người hưởng lợi từ chính sách ASXH còn hạn chế, một bộ
phận người dân chưa được hưởng thành quả của tăng trưởng kinh tế một cách
công bằng. Trong giai đoạn hiện nay, khi Nhà nước chú trọng nhiều hơn đến
ASXH, thì nền kinh tế đứng trước những thách thức lớn, tốc độ tăng trưởng
kinh tế chậm lại, áp lực cạnh tranh cao, năng suất lao động thấp… điều này đã
hạn chế đến việc đảm bảo ASXH cho người dân.
Luận án “Vai trò của ASXH đối với tiến bộ xã hội ở Việt Nam hiện nay”
của nghiên cứu sinh Nguyễn Tiến Hùng, 2016 [64]. Thông qua luận án mối
quan hệ biện chứng giữa ASXH với tiến bộ xã hội được làm rõ dưới góc nhìn
Triết học. Tác giả nhấn mạnh: ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, giải
phóng người lao động, tạo thế ổn định về chính trị, văn hóa - xã hội; thực hiện
quyền con người; góp phần hoàn thiện chức năng xã hội của nhà nước theo
hướng tiến bộ xã hội. Ngược lại, tiến bộ xã hội (trong đó có tiến bộ về kinh tế)
tạo ra tiền đề để thực hiện tốt hệ thống ASXH và góp phần đảm bảo công bằng
trong thực hiện ASXH. Tác giả cũng chỉ ra thực trạng của vai trò ASXH đối
với tiến bộ xã hội ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Bên cạnh những tác động
tích cực, tác giả còn chỉ ra khó khăn, thách thức cần được giải quyết như: Hệ

thống ASXH chưa đồng bộ, mức độ bao phủ thấp; thể chế về ASXH có mặt
còn bất cập; nguồn lực tài chính còn hạn chế cản trở thực hiện vai trò của
ASXH đối với tiến bộ xã hội. Từ đó, luận án đề xuất một số giải pháp như: Đổi


×