Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Căn bệnh tiêu hóa dễ mắc phải và cách phòng ngừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.7 KB, 5 trang )

Căn bệnh tiêu hóa dễ mắc phải
và cách phòng ngừa
Loét dạ dày, hành tá tràng thường xảy ra khi có sự mất cân bằng giữa
chất toan với các yếu tố bảo vệ trong dạ dày, tá tràng do hàm lượng chất toan
(ClH) được tăng tiết nhiều hoặc do suy giảm chất nhày và các chất trung gian
hòa tan toan, vì sự tái sinh tế bào bị đình trệ hay suy giảm, ClH sẽ tấn công
niêm mạc gây viêm rồi phá hủy niêm mạc gây trợt và loét ở các cơ quan tiêu
hóa này.
Tại sao loét dạ dày, hành tá tràng là căn bệnh phổ biến?

Loét dạ dày, hành tá tràng (HTT) là căn bệnh phổ biến, sự khó chịu của
bệnh ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Quan trọng hơn nếu
không được phát hiện và điều trị kịp thời rất dễ gây biến chứng, đặc biệt là ung thư
dạ dày.
Dạ dày và HTT thường bị viêm và loét là do 2 đoạn này của ống tiêu hóa
thường xuyên tiếp xúc với dịch dạ dày, dịch này có hàm lượng chất toan (ClH) rất
cao. Dung dịch toan đó bình thường được phủ kín trong lòng dạ dày nhờ có hàng
rào niêm mạc bảo vệ ngăn chặn sự thẩm thấu của ion H+ vào niêm mạc, hàng
niêm mạc này tiết chất nhày và bicarbonate và tái sinh tế bào. Khi dịch vị toan đó
đi xuống đoạn sau HTT, độ toan của nó được trung hòa bởi các dịch tụy tạng,
dịch mật và dịch ruột non cho nên đoạn ruột non sau HTT ít khi bị loét. Khi có sự
mất cân bằng giữa chất toan với các yếu tố bảo vệ trong dạ dày và tá tràng do ClH
được tăng tiết nhiều hoặc do suy giảm chất nhày và các chất trung gian hòa tan
toan, vì sự tái sinh tế bào bị đình trệ hay suy giảm, ClH sẽ tấn công niêm mạc gây
viêm rồi phá hủy niêm mạc gây trợt và loét.
Ngoài cảm giác đau và tức thượng vị khá phiền phức cho bệnh nhân, một
số tác hại quan trọng có thể xảy ra trong loét dạ dày và HTT nếu không được điều
trị đúng đắn:
ClH sau khi thâm nhập vào hàng rào niêm mạc sẽ tiếp tục phá hủy các lớp
khác của thành dạ dày hay HTT để gây thủng, trong quá trình này ClH có thể làm
tổn thương và phá vỡ hệ thống mạch máu ở niêm mạc dạ dày gây chảy máu. Quá


trình viêm xung quanh ổ loét thường kèm theo tổ chức xơ. Riêng các trường hợp
loét dạ dày, nhất là các loét ở hang vị và tiền môn vị, bờ cong nhỏ còn có khả năng
gây ung thư.
Thủ phạm nào gây ra loét?
Có nhiều yếu tố làm mất thăng bằng giữa các yếu tố gây loét và yếu tố
chống loét, trong đó quan trọng nhất và thông thường nhất là vi khuẩn
Helicobacter Pylori (HBP). Ở dạ dày, men urê của HBP đã phân hủy urê của dịch
vị thành NH3 và CO2 làm pH của dịch dạ dày tăng lên. Sự gia tăng pH dịch vị
không những đã tạo an toàn cho sự khu trú của HBP trên niêm mạc dạ dày gây
viêm rồi gây loét bởi các độc tố của nó mà còn kích thích dạ dày tăng tiết một loại
chất có tác dụng làm tăng tiết ClH.
Ở HTT, dịch vị đa toan nói trên được đưa vào HTT gây viêm, tạo điều kiện
cho HBP ngụ cư ở đấy làm loét HTT. Nhưng không phải bất cứ ai bị nhiễm HBP
cũng đều bị loét, bởi còn phụ thuộc vào loại HBP (còn gọi là týp), chỉ có loại HBP
týp 1 mới có nhiều độc tố gây loét. Ngoài ra còn các yếu tố di truyền trong gia
đình và nhiều yếu tố khác phối hợp, các yếu tố này ở người chưa bị nhiễm HBP
cũng đã có thể gây viêm rồi gây loét như:
Rượu, thuốc lá, cà phê, aspirin và các chất kháng viêm không steroid (các
thuốc này thường được dùng để giảm đau, chống viêm trong các bệnh cơ - xương -
khớp, nhưng cũng làm cho các yếu tố chống loét của niêm mạc bị giảm sút. Ngoài
ra aspirin còn có tác động trực tiếp lên niêm mạc dạ dày, HTT).
Các trạng thái stress kéo dài, bị choáng nặng (chấn thương sọ não, nhồi
máu cơ tim, nhồi máu phổi, bỏng nặng, choáng nhiễm khuẩn...) cũng có thể dẫn
đến loét dạ dày, HTT. Trong các trường hợp choáng nặng, lưu lượng máu ở vùng
bụng được chuyển bớt vào hệ thống tuần hoàn nên niêm mạc dạ dày, HTT không
được tưới máu đầy đủ, biểu mô không kịp tái sinh, dễ bị phá hủy bởi các yếu tố
gây loét.
Ngoài ra cũng cần lưu ý đến một số bệnh có thể gây thêm loét dạ dày, HTT
như u tụy tạng, bệnh xơ gan.
Ngăn chặn các yếu tố gây loét như thế nào?

Cần loại bỏ các yếu tố gây viêm loét như đã nói ở trên. Trước hết phải hạn
chế được các tác nhân gây bệnh như rượu, thuốc lá, cà phê, tình trạng stress. Khi
đã xuất hiện các biểu hiện của bệnh cần đi khám sớm ở các chuyên khoa tiêu hóa
vì rất có thể đó là biểu hiện sớm của ung thư. Nếu xác định được bệnh từ nội soi,
các bác sĩ sẽ có các phương pháp điều trị dựa trên 2 mục tiêu: Làm mất tác dụng
của ClH bằng các thuốc chống toan, chủ yếu là ngăn chặn việc tiết ClH bằng các
thuốc kháng tiết toan; diệt HBP (nếu có) bằng các thuốc kháng sinh. Thường phải
phối hợp ít nhất 2 loại kháng sinh và sử dụng cùng với các thuốc kháng tiết toan,
vừa để chống ClH vừa để tăng cường hiệu lực diệt HBP của kháng sinh.
Nếu vì một bệnh khác mà phải dùng aspirin và thuốc kháng viêm không
steroid, thầy thuốc sẽ phải cân nhắc cẩn thận.
Tăng cường yếu tố bảo vệ: Dùng các thuốc băng niêm mạc dạ dày, sử dụng
các loại thuốc này phải theo chỉ định của bác sĩ. Cần lưu ý, sau một tháng điều trị
các bệnh nhân cần phải nội soi lại nhằm kiểm tra ổ loét và tình trạng HBP để có
được cách thức điều trị tiếp theo sao cho hiệu quả nhất.

×