Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại cho người bị buộc tội tài pháp luật trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.86 KB, 8 trang )

BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LÅT

BẪO ÀẪM QUÌN ÀÛÚÅC BƯÌI THÛÚÂNG THIÏåT HẨI CHO
NGÛÚÂI BÕ BÅC TƯÅI TRẤI PHẤP LÅT TRONG TƯË TNG HỊNH SÛÅ
Hồng MinH Hội*

Trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) thời gian gần đây xảy ra một số vụ án oan,
sai nhưng quyền được bồi thường thiệt hại (BTTH) cho người bị buộc tội trái pháp
luật chưa được bảo đảm. Trong khi đó, pháp luật đã có quy định về người bị buộc
tội trái pháp luật trong TTHS có quyền được BTTH về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự. Nhà nước có trách nhiệm thực hiện các biện pháp để đền bù, hoặc khôi
phục lại những giá trị về vật chất, tinh thần bị tổn thất cho người bị buộc tội do hành
vi trái pháp luật của cơ quan, người tiến hành tố tụng gây ra. Bài viết phân tích một
số vấn đề lý luận và nêu thực trạng bảo đảm quyền được BTTH về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự cho người bị buộc tội trái pháp luật trong TTHS.
1. Khái niệm, nội dung và các yếu tố bảo
đảm quyền được bồi thường thiệt hại cho
người bị buộc tội trái pháp luật trong tố
tụng hình sự
Quyền được BTTH về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự cho người bị buộc
tội trái pháp luật trong TTHS là một trong
những quyền cơ bản thuộc nhóm các quyền
về dân sự. Theo đó, người bị bắt, tạm giữ,
tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án trái pháp luật có quyền yêu cầu
các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức
nhà nước, người có thẩm quyền phải đền bù,
hoặc khơi phục lại những giá trị về vật chất,
tinh thần, danh dự đã bị tổn thất khi tham gia
vào quan hệ TTHS do hành vi trái pháp luật


của cơ quan, người tiến hành tố tụng gây ra
được quy định trong pháp luật quốc gia và
luật quốc tế. Công ước quốc tế về các Quyền
dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định,

*

bất cứ người nào trở thành nạn nhân của
việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp
đều có quyền yêu cầu được bồi thường
(Điều 9, Điều 14). Trên thế giới, ngày càng
nhiều quốc gia ghi nhận quyền được BTTH
về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự
phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế
và tiến bộ xã hội. Việt Nam đã và đang triển
khai đồng loạt các biện pháp hiệu quả nhất
để thực thi tốt nhất các cam kết quốc tế bảo
đảm quyền được BTTH về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự trong TTHS. Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: người bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền
được BTTH về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong
việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người
khác phải bị xử lý theo pháp luật (khoản 5

TS. Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
NGHIÏN CÛÁU


Sưë 23(327) T12/2016

LÊÅP PHẤP

33


BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LÅT
Điều 31). Bảo đảm quyền được BTTH về
vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự cho
người bị buộc tội trái pháp luật không chỉ
đơn thuần bằng việc ghi nhận trong các văn
bản pháp luật, mà các cơ quan nhà nước, cán
bộ, cơng chức, người có thẩm quyền phải tổ
chức cho họ sử dụng quyền của mình trong
thực tế. Bên cạnh đó, các chủ thể trên đây
phải có trách nhiệm thi hành những nghĩa
vụ, thực hiện các biện pháp trách nhiệm để
người bị buộc tội trái pháp luật thực hiện
quyền của mình có hiệu quả. Từ cách tiếp
cận trên đây, có thể hiểu, bảo đảm quyền
được BTTH về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự trong TTHS là việc cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức, người có thẩm
quyền thực hiện các nghĩa vụ pháp lý, tổ
chức cho người bị buộc tội trái pháp luật sử
dụng quyền của mình yêu cầu Nhà nước
phải đền bù, hoặc khôi phục lại những giá
trị về vật chất, tinh thần bị tổn thất khi tham

gia vào quan hệ TTHS do hành vi trái pháp
luật của cơ quan, người tiến hành tố tụng
gây ra.
Khái niệm trên cho thấy, chủ thể được
bồi thường là những người bị bắt, tạm giữ,
tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án trái
pháp luật trong các hoạt động TTHS, họ
phải gánh chịu những tổn thất nặng nề về vật
chất, tinh thần và danh dự. Tổ chức có thể
là chủ thể được bồi thường về thiệt hại; tuy
nhiên, ở đây, chúng tơi chỉ phân tích chủ thể
được bồi thường là những cá nhân - người
đã bị oan, sai, bị xâm phạm các lợi ích vật
chất, tinh thần và danh dự do cơ quan, người
tiến hành tố tụng gây ra trong TTHS.
Chủ thể có trách nhiệm bồi thường là
Nhà nước được thực hiện thông qua các cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức, những
người thi hành công vụ, phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về hành vi vi phạm
pháp luật trong TTHS. Chủ thể bảo đảm
quyền được bồi thường cho người bị buộc
tội trái pháp luật trong TTHS ở đây bao gồm
cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện

34

NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP


Sưë 23(327) T12/2016

quyền được bồi thường và cơ quan quản lý
của cán bộ, công chức đã có hành vi trái
pháp luật trong hoạt động TTHS gây ra
những thiệt hại về vật chất và tinh thần, danh
dự. Bên cạnh đó, một số cơ quan bộ, ngành
có liên quan có trách nhiệm thực hiện pháp
luật về BTTH cho người bị oan, sai; các cơ
quan, tổ chức khác như Quốc hội, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức thành viên, cơ quan
báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình cũng là những chủ thể có thể góp
phần bảo đảm quyền được BTTH về vật
chất, tinh thần và phục hồi danh dự cho
người bị oan, sai.
Về nội dung, bảo đảm quyền được
BTTH về vật chất, tinh thần và phục hồi
danh dự cho người bị buộc tội trái pháp luật
trong TTHS là việc các cơ quan nhà nước,
cán bộ, cơng chức, người có thẩm thực hiện
các nghĩa vụ pháp lý, tổ chức cho người bị
buộc tội trái pháp luật sử dụng quyền của
mình yêu cầu Nhà nước phải đền bù, hoặc
khôi phục lại những giá trị về vật chất, tinh
thần bị tổn thất. Như vậy, bảo đảm quyền
được BTTH về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự cho người bị buộc tội trái pháp
luật trong TTHS thể hiện trên các khía cạnh:

- Chủ thể thực hiện trách nhiệm bồi
thường tôn trọng các nguyên tắc của pháp
luật về quyền được BTTH về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự cho người bị buộc
tội trái pháp luật như: Người làm trái pháp
luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tuỳ theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
(Điều 12 Bộ luật TTHS năm 2003). Người
bị oan, bị thiệt hại do người có thẩm quyền
trong hoạt động TTHS gây ra có quyền được
BTTH và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS
đã làm oan, gây thiệt hại phải BTTH và
phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị
oan, sai; người đã gây thiệt hại có trách
nhiệm bồi hồn cho cơ quan có thẩm quyền


BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LÅT
theo quy định của pháp luật (Điều 29, Điều
30 Bộ luật TTHS năm 2003).
- Bảo đảm quyền được BTTH về vật
chất, tinh thần và phục hồi danh dự cho
người bị buộc tội thông qua các biện pháp
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng đã
có hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ, Điều
35 Bộ luật TTHS năm 2003 ghi nhận trách
nhiệm của Điều tra viên; tại Điều 37, Điều

83 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014 quy định trách nhiệm của Kiểm
sát viên khi để xảy ra oan, sai trong TTHS.
Điều 76 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 quy định trong quá trình tiến hành tố
tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện
những quy định của pháp luật và phải chịu
trách nhiệm về những hành vi, quyết định
của mình.
- Bảo đảm quyền được BTTH về vật
chất, tinh thần và phục hồi danh dự cho
người bị buộc tội trái pháp luật thông qua
các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
(TNBT CNN) hiện hành. Cơ quan nhà nước
phải xác định căn cứ bồi thường, thiệt hại
được bồi thường; trách nhiệm của cơ quan,
cán bộ, công chức đã gây thiệt hại; thực hiện
trình tự, thủ tục thực hiện quyền bồi thường;
phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật
cho cá nhân về quyền được BTTH về vật
chất, tinh thần và phục hồi danh dự cho
người bị buộc tội trái pháp luật trong TTHS.
Các yếu tố bảo đảm: Bảo đảm quyền
được BTTH về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự cho người bị buộc tội trái pháp
luật có các yếu tố như pháp lý, kinh tế, xã
hội. Yếu tố pháp lý thể hiện ở việc pháp luật

ghi nhận quyền của cá nhân được bồi

thường khi họ bị buộc tội sai; trách nhiệm
của Nhà nước, người tiến hành tố tụng phải
thực hiện nghĩa vụ để bồi thường những
thiệt hại do hành vi vi phạm TTHS dẫn đến
oan, sai. Pháp luật là phương tiện, công cụ
để công dân sử dụng và bảo vệ quyền lợi của
mình khi quyền bị xâm phạm. Chính vì vậy,
muốn bảo đảm tốt quyền được BTTH về vật
chất, tinh thần và phục hồi danh dự cho
người bị buộc tội trái pháp luật, nhiệm vụ
hàng đầu là phải hoàn thiện pháp luật. Yếu
tố về kinh tế (kinh phí) để bồi thường những
thiệt hại về vật chất đóng vai trị quan trọng
đáng kể trong việc đảm bảo quyền của
người bị buộc tội do hành vi trái pháp luật
trong hoạt động TTHS. Yếu tố xã hội thể
hiện qua thái độ, dư luận xã hội lên án các
hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người
bị buộc tội, góp phần đấu tranh buộc các cơ
quan gây ra oan, sai phải thừa nhận vi phạm
của họ và thừa nhận trách nhiệm bồi thường
về vật chất, tinh thần và danh dự cho người
bị buộc tội trái pháp luật.
2. Thực trạng bảo đảm quyền được bồi
thường thiệt hại cho người bị buộc tội trái
pháp luật trong tố tụng hình sự
Theo Báo cáo tổng kết 6 năm thi hành
Luật TNBT CNN do Bộ Tư pháp thực hiện,

tính từ khi Luật TNBT CNN có hiệu lực
(ngày 1/1/2010) đến ngày 31/12/2015, các
cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã thụ lý
258 vụ việc yêu cầu BTTH, trong đó đã giải
quyết được 204 vụ việc (đạt tỷ lệ 79%) với
tổng số tiền bồi thường trên 111,149 tỷ
đồng; 54 vụ việc còn lại vẫn đang tiếp tục
giải quyết. Đến nay, ông Lương Ngọc Phi
(Thái Bình) là cá nhân nhận được số tiền bồi
thường oan, sai lớn nhất (gần 30 tỷ đồng)1.
Theo Báo cáo kết quả giám sát về “Tình
hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật

1. Xem: Thế Kha, “Nhà nước bồi thường 111 tỷ, cán bộ làm sai chỉ hoàn trả... 677 triệu (!)”, nguồn: :
truy cập ngày 07/01/2016.
NGHIÏN CÛÁU

Sưë 23(327) T12/2016

LÊÅP PHẤP

35


BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LÅT
về hình sự, TTHS và việc BTTH cho người
bị oan, sai trong hoạt động TTHS theo quy
định của pháp luật”, từ ngày 01/10/2011 đến
ngày 30/9/2014, các cơ quan giải quyết
quyền được BTTH vật chất, tinh thần và

phục hồi danh dự cho người bị oan, sai như
sau: Cơ quan điều tra thụ lý 15 đơn yêu cầu
bồi thường, đã giải quyết 05 trường hợp với
số tiền 452.578.000 đồng, 08 trường hợp
đang giải quyết, 02 trường hợp không thuộc
diện bồi thường. Viện Kiểm sát nhân dân
các cấp thụ lý 78 đơn yêu cầu bồi thường,
đã giải quyết 69 đơn: bồi thường 62 trường
hợp với số tiền: 11.360.264.068 đồng (58
trường hợp thương lượng xong, 04 trường
hợp đương sự khởi kiện ra Tịa án), 02
trường hợp khơng u cầu bồi thường về
tiền, 05 trường hợp trả lại hoặc đương sự tự
rút đơn yêu cầu. Đang tiến hành giải quyết
9 trường hợp. Tòa án nhân dân các cấp thụ
lý 22 đơn yêu cầu bồi thường, 06 đơn khởi
kiện. Đã giải quyết 19 trường hợp với số
tiền: 27.792.190.994 đồng, trả lại 03 đơn, 06
đơn đang trong quá trình giải quyết2.
Năm 2015, trong hoạt động TTHS, theo
Báo cáo về công tác bồi thường của Nhà
nước của Chính phủ, Tịa án nhân dân các
cấp đã thụ lý, giải quyết 14 vụ việc (tăng 02
vụ việc so với năm 2014), trong đó có 07 vụ
việc thụ lý mới (giảm 04 vụ việc so với năm
2014), đã giải quyết xong 12/14 vụ việc, với
số tiền phải bồi thường là 9 tỷ 661 triệu 120
nghìn đồng (tăng 8 tỷ 526 triệu 559 nghìn
đồng), cịn 02 vụ việc đang giải quyết. Viện
kiểm sát nhân dân các cấp đã thụ lý, giải

quyết 36 vụ việc (giảm 10 vụ việc so với
năm 2014), trong đó có 17 vụ việc thụ lý
mới (tương đương năm 2014), đã giải quyết
xong 15/36 vụ việc, với tổng số tiền phải bồi
thường là 03 tỷ 984 triệu 475 nghìn đồng

(tăng 2 tỷ 033 triệu 452 nghìn đồng so với
năm 2014), cịn 21 vụ việc đang giải quyết.
Ngành Công an đã thụ lý, giải quyết 6 vụ
việc (tăng 03 vụ việc so với năm 2014),
trong đó có 03 vụ việc thụ lý mới (tăng 02
vụ việc so với năm 2014), đã giải quyết
xong 02/6 vụ việc, với tổng số tiền phải bồi
thường là 711 triệu 153 nghìn đồng (tăng
448 triệu 852 nghìn đồng so với năm 2014)3.
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, để
bảo đảm quyền được BTTH về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự cho người bị oan,
sai trong TTHS, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã quan tâm
chỉ đạo, thực hiện công tác bồi thường nhà
nước; đồng thời phối hợp với cơ quan quản
lý nhà nước về bồi thường nhà nước (Bộ Tư
pháp) giải quyết kịp thời những vụ việc yêu
cầu bồi thường phức tạp, kéo dài. Sau khi
Hiến pháp năm 2013 được ban hành, Quốc
hội đã thành lập Đồn giám sát để giám sát
tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp
luật về hình sự, TTHS và việc BTTH cho
người bị oan, sai trong hoạt động TTHS theo

quy định của pháp luật; đồng thời Quốc hội
đã có chủ trương nghiên cứu, xây dựng Dự
án Luật TNBT CNN (sửa đổi), Bộ Tư pháp
được giao chủ trì phối hợp với các cơ quan
có liên quan xây dựng Dự án Luật TNBT
CNN (sửa đổi).
Bên cạnh những kết quả đạt được như
đã nêu, thực trạng bảo đảm quyền được
BTTH về vật chất, tinh thần và phục hồi
danh dự cho người bị buộc tội trái pháp luật
trong TTHS còn có những bất cập, hạn chế:
Một số trường hợp, cơ quan nhà nước
thực hiện quyền bồi thường cho cá nhân bị
oan, sai chậm, có những vụ kéo dài. Ví dụ,
vụ bồi thường thiệt hại cho ông Lương Ngọc
Phi (tỉnh Thái Bình), cuối năm 2015 vẫn

2. Xem: Ủy ban thường vụ Quốc hội (2015), Báo cáo kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật
về hình sự, TTHS và việc BTTH cho người bị oan, sai trong hoạt động TTHS theo quy định của pháp luật” của Quốc hội
khóa XIII, tr. 17.
3. Xem: Chính phủ (2015), Báo cáo số 552/BC-CP về công tác bồi thường của Nhà nước năm 2015, tr. 3.

36

NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP

Sưë 23(327) T12/2016



BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LÅT
chưa giải quyết xong4. Thậm chí vì pháp luật
quy định có nhiều cơ quan chịu trách nhiệm
bồi thường nên có những trường hợp “đùn
đẩy trách nhiệm giải quyết bồi thường giữa
các cơ quan tố tụng làm kéo dài việc bồi
thường, ảnh hưởng đến quyền lợi của người
bị oan, sai như vụ ông Phan Văn Lá (tỉnh
Long An) đã 21 năm làm “bị can”5, đến cuối
năm 2015 chưa được bồi thường.
Quyền được BTTH về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự cho người bị buộc
tội trái pháp luật là quyền hiến định, được
ghi nhận tại khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm
2013. Những trường hợp chậm trễ, hay cản
trở việc thực hiện quyền này đều là những
hành vi vi hiến. Trên thực tế, nhiều vụ việc
người bị oan, sai gặp khó khăn khi yêu cầu
cơ quan nhà nước thực hiện bồi thường cho
dù họ đã có quyết định minh oan. Hơn nữa,
người bị thiệt hại phải có đơn đề nghị Nhà
nước và phải tự mình chứng minh những
thiệt hại rồi mới được bồi thường. Khoản 3,
Điều 34 Luật TNBT CNN năm 2009 quy
định: “Kèm theo đơn yêu cầu bồi thường
phải có bản án, quyết định xác định người
đó thuộc một trong các trường hợp được bồi
thường quy định tại Điều 26 của Luật này
và tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc

yêu cầu bồi thường”. Quy định này sẽ gây
khó cho người bị oan, sai vì việc đưa tài liệu,
chứng cứ có liên quan là những gì khơng cụ
thể6. Như vậy, thay vì cơ quan tố tụng phải
có trách nhiệm chứng minh những thiệt hại
mà người bị oan, sai đã gánh chịu thì pháp
luật quy định người bị oan, sai phải tự chứng
minh những thiệt hại để đòi bồi thường.
Những quy định này làm cho người dân mệt
mỏi, kiệt sức trên những chặng đường tìm
kiếm công lý: kêu oan, sai, yêu cầu được
minh oan, sai và yêu cầu được Nhà nước bồi

thường những thiệt hại về vật chất, tinh thần,
phục hồi danh dự, nhân phẩm.
Pháp luật quy định số tiền mà cán bộ,
công chức phải bồi thường, hoàn trả cho
Nhà nước khi họ gây oan, sai trong TTHS
rất thấp, chưa đủ sức răn đe trong hoạt động
cơng vụ. Điều 16 Nghị định
số
16/2010/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn
một số điều của Luật TNBT CNN năm 2009
quy định: Trường hợp người thi hành cơng
vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại, nhưng chưa
đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì
cơ quan có trách nhiệm bồi thường căn cứ
vào mức độ thiệt hại gây ra, điều kiện kinh
tế của người đó để quyết định họ phải hồn
trả một khoản tiền nhất định, nhưng tối đa

khơng quá 36 tháng lương của người đó tại
thời điểm quyết định việc hồn trả. Trường
hợp người thi hành cơng vụ có lỗi cố ý gây
ra thiệt hại mà bị truy cứu trách nhiệm hình
sự do việc thực hiện hành vi trái pháp luật
gây ra thiệt hại đó thì phải hồn trả toàn bộ
số tiền mà Nhà nước đã bồi thường. Trong
trường hợp người thi hành cơng vụ có lỗi vơ
ý thì mức bồi hồn tối đa cũng khơng q 3
tháng lương của người đó tại thời điểm
quyết định việc hồn trả. Luật quy định cụ
thể như vậy nhưng trên thực tế xác định lỗi
cố ý và lỗi vô ý là rất khó và thường là xem
xét việc cán bộ, cơng chức gây ra oan, sai là
do năng lực hạn chế.
Trách nhiệm hồn trả của cơng chức có
hành vi gây thiệt hại rất thấp so với số tiền
mà ngân sách nhà nước phải chi trả. Luật
quy định cán bộ, công chức thực hiện trách
nhiệm bồi thường (nếu khi có lỗi cố ý) trả
tiền bằng cách trừ dần vào lương hàng tháng
của người thi hành công vụ, mức tối thiểu
không dưới 10% và tối đa không quá 30%
thu nhập từ tiền lương hàng tháng. Về

4. Xem: Ủy ban thường vụ Quốc hội (2015), Tlđd, tr. 18.
5. Xem: Ủy ban thường vụ Quốc hội (2015), Tlđd, tr. 18.
6. Xem: Lê Chân Nhân, “Đừng hành hạ người bị oan bằng thủ tục bồi thường”. nguồn: sai-bang-thu-tuc-boi-thuong-1409124594.htm, truy cập 21/08/2014.
NGHIÏN CÛÁU


Sưë 23(327) T12/2016

LÊÅP PHẤP

37


BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LÅT
ngun tắc, Nhà nước vẫn phải đứng ra bồi
thường và quyền lợi của người bị oan, sai
phải được bảo đảm. Song để khơng cịn án
oan, sai và Nhà nước khơng phải chi ngân
sách bồi thường thì công tác cán bộ một lần
nữa phải đặt ra. Bởi nếu khơng có sự chấn
chỉnh mà vẫn để lọt những người khơng
xứng đáng vào bộ máy thì tất cả những yếu
kém trong q trình cơng tác đó Nhà nước
và người dân phải chịu7. Như vậy, từ khi
triển khai thực hiện Luật TNBT CNN (năm
2010) đến hết năm 2015, trong tổng số 258
vụ việc với mức bồi thường hơn 111 tỷ đồng
năm 2015, số vụ việc thực hiện hoàn trả mới
đạt hơn 676 triệu đồng, số tiền còn lại là do
ngân sách cấp phát8. Trong các vụ việc này
chưa có những vụ nào xác định lỗi cố ý, phải
bồi hoàn 100% tiền Nhà nước đã bồi thường
cho người bị oan, sai, do đó tính răn đe
khơng cao.
Mơ hình tổ chức của cơ quan đứng ra
thực hiện nhiệm vụ bồi thường do hành vi

vi phạm pháp luật của người tiến hành tố
tụng gây ra trong TTHS còn nhiều bất cập.
Cụ thể, thay vì có đội ngũ biên chế, cơ quan
chun trách thực hiện nhiệm vụ này thì
pháp luật quy định cơ quan tố tụng đã gây
ra oan, sai có trách nhiệm giải quyết bồi
thường. Điều này dẫn đến thực tế: i) tình
trạng “vừa đá bóng, vừa thổi cịi”, dễ gây ra
tâm lý “thù hận” đối với cơ quan tố tụng đã
làm oan, sai; ii) các cơ quan tố tụng né tránh,
đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, những vụ bồi
thường bị kéo dài; iii) người bị thiệt hại
thiếu niềm tin đối với cơ quan đã làm oan,
sai họ. Trên thực tế có những vụ việc bị kéo
dài là do người bị oan, sai không chịu
thương lượng với cơ quan tố tụng nên vụ

việc đó phải kéo dài vì lại phải thực hiện
theo trình tự khởi kiện và phải chờ phán
quyết của Tòa án. Qua 6 năm (tháng 1/2010
- tháng 12/2015), chỉ có 258 vụ việc được
thụ lý, giải quyết là chưa phản ánh đúng
thực chất TNBT CNN với các hành vi trái
pháp luật. Có đến 20 bộ, gần 50 UBND cấp
tỉnh chưa có vụ việc phát sinh, trong khi
hàng năm các bộ, ngành, địa phương giải
quyết hàng nghìn vụ việc khiếu nại, tố cáo.
Trong số các vụ đã thụ lý giải quyết, còn ¼
vụ việc các cơ quan có trách nhiệm giải
quyết chưa thoả đáng, khiến người thiệt hại

khởi kiện ra toà9.
Thời gian vừa qua, Nhà nước bồi
thường cho người bị oan, sai trong TTHS
mới chủ yếu bồi thường những thiệt hại về
vật chất. Trong khi đó, về nguyên tắc, người
bị oan, sai phải được bồi thường những thiệt
hại cả về vật chất, tinh thần và phục hồi danh
dự, nhân phẩm. Trên thực tế, người bị oan,
sai trong TTHS mới chỉ được bồi thường
những thiệt hại như tài sản, thu nhập bị mất,
những chi phí phát sinh từ những hành vi có
lỗi của Nhà nước. Khó khăn hơn khi người
bị oan, sai phải tự mình đi tìm lại những hóa
đơn, chứng từ, các loại loại giấy tờ chứng
minh cho những thiệt hại của mình trong khi
tâm lý của những người bị oan, sai ngại đối
diện với cơ quan nhà nước.
Bên cạnh những thủ tục cịn phức tạp,
phiền hà, gây khó khăn cho người bị buộc
tội trái pháp luật được BTTH, Luật TNBT
CNN hiện hành chưa quy định về trình tự,
thủ tục và các hình thức, biện pháp trách
nhiệm người đứng đầu và cơ quan quản lý
cán bộ, công chức thực hiện công vụ đã gây
thiệt hại phải xin lỗi cơng khai. Có ý kiến

7. Xem: “Cán bộ gây oan sai, ngân sách Nhà nước vẫn phải chi bồi thường?”; nguồn truy cập ngày
07/12/2015.
8. Xem Báo Tuổi trẻ:“Dừng công tác đối với công chức gây oan sai”, nguồn truy cập ngày 08/01/2016.
9. Xem: “Thi hành luật bồi thường nhà nước: chưa đủ răn đe với công chức sai phạm”, nguồn

truy cập ngày 07/01/2016.

38

NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP

Sưë 23(327) T12/2016


BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LÅT
đúng khi nhận định: “trình tự, thủ tục xin lỗi
như thế nào, người bị oan, sai có được phát
biểu cảm tưởng hay khơng, thời gian diễn ra
buổi lễ xin lỗi là bao nhiêu… thì chẳng thấy
cơ quan nào giải thích hay hướng dẫn. Vì
vậy, mỗi nơi làm một kiểu, có nơi làm qua
quýt, vội vàng khiến người bị oan, sai tủi
thân như khi bị hàm oan, sai”10. Do vậy, một
số vụ việc, cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành xin lỗi người bị thiệt hại do oan,
sai rất hình thức, chưa thể hiện sự cầu thị,
trách nhiệm và sự trang nghiêm của cơ quan
nhà nước đối với người bị oan, sai.
Hoạt động giáo dục, tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về BTTH về vật chất, tinh
thần và danh dự cho người bị buộc tội trái
pháp luật được tiến hành chủ yếu đến các
đối tượng là cán bộ, công chức nhà nước,

chưa quan tâm đến những cá nhân và tổ
chức khác nên ý thức pháp luật của một bộ
phận người bị buộc tội trái pháp luật chưa
cao, dẫn đến nhiều vụ việc khó đạt được
thương lượng giữa người bị oan, sai và cơ
quan có trách nhiệm bồi thường. Việc BTTH
vì thế mà bị kéo dài.
Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan: Một số quy
định của pháp luật có sự mâu thuẫn, chồng
chéo, gây khó khăn cho người được BTTH.
Ví dụ, khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số
05 ngày 02/11/2012 của Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Cơng an, Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp quy
định người được bồi thường phải có quyết
định của cơ quan nhà nước chứng minh họ
khơng có hành vi vi phạm pháp luật trong
khi khoản 2 Điều 26 Luật TNBT CNN quy
định “người bị tạm giam không có hành vi
phạm tội”. Vì vậy, những trường hợp tạm
giam sau đó chuyển xử lý hành chính do

hành vi khơng cấu thành tội phạm không
được các Viện kiểm sát các cấp tính vào diện
được BTTH11. Vụ ơng Nguyễn Văn Thêm
kiện địi cơ quan điều tra Cơng an huyện
Hồng Ngự (Đồng Tháp) bồi thường oan, sai
hơn 3,8 tỷ đồng nhưng chưa được giải quyết
vì chưa có đủ điều kiện khởi kiện với lý do

là trong hồ sơ khởi kiện của ông Thêm chưa
có văn bản nào của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác định hành vi của người thi
hành cơng vụ là trái pháp luật12. Việc pháp
luật quy định người bị thiệt hại phải có đơn
yêu cầu bồi thường, cung cấp tài liệu, giấy
tờ chứng minh bị thiệt hại rồi mới được bồi
thường cũng là gây khó khăn cho người dân,
tạo điều kiện cho một số cán bộ sách nhiễu.
Quy trình, thủ tục thẩm định hồ sơ để
xem xét, ra quyết định BTTH cho người bị
oan, sai còn rườm rà, nhiều thủ tục, có nhiều
cơ quan tham gia, với nhiều cấp từ địa
phương đến trung ương trong khi chưa có
quỹ tiền cho việc chi trả BTTH gây ra trong
tố tụng. Việc chi trả tiền bồi thường cho
người bị thiệt hại tiến hành chậm, ảnh hưởng
đến quyền lợi của người bị thiệt hại.
Chưa có những quy định về cách xác
định những thiệt hại về danh dự, nhân phẩm,
uy tín cũng như chưa có những quy định về
phương án thỏa thuận để giải quyết những
thiệt hại về tinh thần cho người bị thiệt hại
trong khi Hiến pháp năm 2013 đã khẳng
định người bị buộc tội trái pháp luật được
quyền bồi thường không chỉ những thiệt hại
về vật chất mà còn tinh thần và danh dự
(khoản 5 Điều 31).
Cơ chế giải quyết bồi thường của Nhà
nước cho người bị buộc tội trái pháp luật

trong TTHS chưa tập trung, thiếu thống
nhất, chưa bảo đảm tính chun nghiệp,
thậm chí nhiều vụ việc khó xác định cơ quan

10. Đinh Văn Quế (2015), Hành trình “được vạ má sưng”, nguồn , truy cập ngày 16/8/2015.
11. Xem: Ủy ban thường vụ Quốc hội (2015), Tlđd, tr. 18.
12. Xem:Thu Phương, “Thu gọn đầu mối giải quyết bồi thường Nhà nước”, nguồn: truy cập ngày 08/01/2016.
NGHIÏN CÛÁU

Söë 23(327) T12/2016

LÊÅP PHAÁP

39


BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LÅT
có trách nhiệm bồi thường nên người bị thiệt
hại phải chờ đợi cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định xác định cơ quan và trách nhiệm
thực hiện bồi thường.
Nguyên nhân chủ quan: một bộ phận
cán bộ, công chức chưa nhận thức được ý
nghĩa, tầm quan trọng và quyền được BTTH
về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự
cho người bị buộc tội trái pháp luật trong
TTHS. Một số cán bộ thực hiện công tác bồi
thường nhà nước yếu về kỹ năng, nghiệp vụ,
thiếu kinh nghiệm. Việc bảo đảm quyền
được BTTH về vật chất, tinh thần và phục

hồi danh dự cho người bị oan, sai trong
TTHS liên quan đến nhiều cơ quan, ban
ngành nhưng chưa có cơ chế phối hợp giải
quyết tốt giữa các cơ quan trong việc thực
hiện nhiệm vụ này.
3. Một số kiến nghị
Một là, Hiến pháp năm 2013, một số
văn bản luật mới như Bộ luật TTHS năm
2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ
chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã được ban
hành nên nhiều quy định của Luật TNBT
CNN năm 2009 không phù hợp, thậm chí có
sự mẫu thuẫn, nên cần nghiên cứu, sửa đổi,
bổ sung văn bản luật này theo hướng:
- Tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung một
số quy định của văn bản pháp luật hướng
dẫn thực hiện Luật TNBT CNN trái với quy
định của Luật.
- Rà soát những thủ tục gây khó khăn
cho người bị thiệt hại, bảo đảm cho họ được
quyền yêu cầu cơ quan nhà nước thực hiện
trách nhiệm bồi thường nhanh chóng, tiện
lợi phù hợp với các Công ước quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia.
- Cần có quy định về trình tự, thủ tục về
hình thức xin lỗi công khai và phục hồi danh
dự cho người bị buộc tội trái pháp luật trong
TTHS.

Hai là, có biện pháp triển khai Nghị
quyết số 96/2015/QH13 của Quốc hội “về
tăng cường các biện pháp phịng, chống oan,

40

NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP

Sưë 23(327) T12/2016

sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt
hại trong hoạt động TTHS” theo tinh thần:
khi đã xác định có oan, sai thì phải kịp thời
minh oan, sai cho người bị oan, sai, bồi
thường cho người bị thiệt hại theo quy định
của pháp luật; xử lý nghiêm minh đối với
người mắc sai phạm, xem xét trách nhiệm
hoàn trả đối với người thi hành công vụ đã
gây ra thiệt hại theo Luật TNBT CNN; xử
lý trách nhiệm liên đới của người đứng đầu
cơ quan gây nên oan, sai, để xảy ra bức
cung, dùng nhục hình.
Ba là, nghiên cứu, xây dựng mơ hình tổ
chức cơ quan chun trách về BTTH đối với
người bị buộc tội trái pháp luật trong TTHS.
Nghiên cứu, thành lập Quỹ Bồi thường nhà
nước, quy định rõ ràng, cụ thể về tổ chức và
hoạt động của Quỹ nhằm đẩy nhanh và bảo

đảm quyền được bồi thường cho người bị
buộc tội trái pháp luật trong TTHS.
Bốn là, tiếp tục nâng cao hiệu quả công
tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về TNBT CNN nhằm nâng cao ý thức
pháp luật cho cán bộ, cơng chức nhà nước
nói chung và cán bộ, công chức làm công
tác bồi thường nhà nước. Xây dựng, kiện
tồn đội ngũ cán bộ, cơng chức làm cơng tác
bồi thường nhà nước; đồng thời có biện
pháp tăng cường và phát huy vai trò của các
cơ quan báo chí, các tổ chức trợ giúp pháp
lý, luật sư trong việc bảo đảm quyền được
bồi thường cho người bị bị buộc tội trái pháp
luật trong TTHS. Thường xuyên đôn đốc,
kiểm tra và kịp thời uốn nắn, xử lý vi phạm
đối với những trường hợp gây khó khăn, hay
cản trở việc thực hiện quyền được bồi
thường cho người bị buộc tội trái pháp luật
trong TTHS.
Năm là, xây dựng cơ chế phối hợp giải
quyết tốt giữa các cơ quan trong việc thực
hiện nhiệm vụ bồi thường cho người bị buộc
tội trái pháp luật trong TTHS. Tăng cường
cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí cần
thiết cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ
bồi thường cho người bị buộc tội trái pháp
luật trong TTHS n




×