Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Hoàn thiện các quy định của pháp luật để ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 10 trang )

THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT

HOÂN THIÏåN CẤC QUY ÀÕNH CA PHẤP LÅT
ÀÏÍ NGÙN NGÛÂA TRC LÚÅI BẪO HIÏÍM ÚÃ VIÏåT NAM
NguyễN Thị hoàI Thu*

Những năm qua, trong sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo
hiểm (TTBH) nước ta, đã xuất hiện tình trạng trục lợi bảo hiểm (TLBH),
gây thiệt hại về vật chất, uy tín cho nhiều doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH),
xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm
(TGBH), đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của TTBH nước
ta. Để hạn chế tình trạng này, cần phải có các giải pháp đồng bộ, trong đó
cần thiết phải hồn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm (KDBH).
1. Khái quát chung
1.1 Kinh doanh bảo hiểm
Khoản 1 Điều 3 Luật KDBH quy định
KDBH là hoạt động của DNBH chấp nhận
rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở
bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để
DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Sau hơn 20 năm phát triển, hoạt động
KDBH đã có được tốc độ tăng trưởng nhanh,
có đóng góp đáng kể vào việc chia sẻ rủi ro
với doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh
và người dân trong đời sống xã hội; góp phần
cải thiện mơi trường đầu tư; giảm bớt gánh
nặng cho ngân sách nhà nước, qua đó thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trong năm
2015, tổng doanh thu bảo hiểm đạt 84.375 tỷ



42

đồng, trong đó tổng doanh thu phí bảo hiểm
đạt 70.190 tỷ đồng (tăng 21,43%, mức tăng
cao nhất trong giai đoạn 2011-2015), doanh
thu hoạt động đầu tư đạt 14.185 tỷ đồng1.
1.2 Vai trò của bảo hiểm trong nền kinh
tế thị trường
Thứ nhất, bảo hiểm là tấm “lá chắn”
của nền kinh tế - xã hội trước các rủi ro
Hoạt động KDBH dựa trên cơ sở cam
kết bồi thường của DNBH đối với tổ chức,
cá nhân TGBH và những thiệt hại, mất mát
do những rủi ro được bảo hiểm gây ra. Bồi
thường của DNBH giúp doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế và cá nhân khắc phục được hậu
quả của rủi ro để ổn định sản xuất kinh doanh
và đời sống. Qua đó, tạo tâm lý an tâm cho
các tổ chức, cá nhân.

*

ThS, Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính.

1

Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình thị trường bảo hiểm năm 2015 và định hướng phát triển thị trường bảo hiểm năm 2016
(Tài liệu phục vụ Hội nghị thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2016 - Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính).


NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP

Sưë 07(311) T4/2016


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT
Hiện cả nước có trên 300.000 doanh
nghiệp, 200.000 cơ sở sản xuất kinh doanh,
trang trại hộ gia đình, 100.000 cơ quan hành
chính sự nghiệp, trường học, bệnh viện, 2
triệu chủ xe ô tô, 10 triệu chủ xe gắn máy, 20
triệu học sinh và khoảng 5 triệu người lao
động TGBH nhân thọ2. Trong bảo hiểm nhân
thọ có gần 6 triệu hợp đồng bảo hiểm
(HĐBH) chính và 6 triệu HĐBH bổ trợ3. Khi
phát sinh rủi ro, DNBH chi trả bồi thường
cho khách hàng để bù đắp kịp thời tổn thất,
góp phần đảm bảo an ninh kinh tế, phúc lợi
an sinh xã hội. Chỉ tính riêng trong năm
2015, các DNBH đã trả tiền bảo hiểm và giải
quyết bồi thường 26.797 tỷ đồng cho người
TGBH4. Rõ ràng là, nếu khơng có số tiền nói
trên để bù đắp thiệt hại khi có rủi ro bảo hiểm
xảy ra thì khơng ít doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế và người dân sẽ gặp khó khăn trong
việc khắc phục các thiệt hại, và sẽ tạo gánh
nặng cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai, bảo hiểm là kênh huy động vốn

để đầu tư, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển
DNBH quản lý nguồn thu phí bảo hiểm
phần lớn thơng qua việc trích lập quỹ dự
phịng nghiệp vụ để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ cam kết với người TGBH. Theo quy định
của pháp luật, các quỹ này được sử dụng đầu
tư trở lại cho nền kinh tế. Số tiền này liên tục
tăng qua các năm trong giai đoạn 2011-2015
và đạt 157.266 tỷ đồng năm 2015 (tăng
24,9% so với năm 2014)5. Đây là nguồn vốn
khá lớn, ổn định, chủ yếu được đầu tư vào
trái phiếu Chính phủ, đóng góp tích cực vào
sự phát triển của nền kinh tế.

Thứ ba, ngành bảo hiểm là ngành cần
được bảo vệ
Với vai trò là tấm lá chắn của nền kinh
tế, là kênh huy động vốn quan trọng cho đầu
tư phát triển, sự phát triển bền vững của
TTBH là một yêu cầu tất yếu trong phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Các vi phạm pháp luật KDBH cần phải được
xử lý kịp thời vì khơng chỉ ảnh hưởng đến
DNBH mà cịn ảnh hưởng đến đông đảo
người TGBH, đến mức độ ổn định lâu dài
của hoạt động đầu tư trở lại nền kinh tế.
Nếu các hành vi vi phạm, nhất là hành
vi trục lợi trong KDBH khơng được ngăn
ngừa thì có thể sẽ dẫn đến việc DNBH mất
khả năng thanh tốn, khơng thực hiện được

trách nhiệm cam kết với khách hàng, từ đó
có thể dẫn đến tình trạng mất ổn định xã hội.
Như vậy, xuất phát từ vai trò và tầm quan
trọng của hoạt động KDBH, cần phải có các
giải pháp ngăn ngừa các hành vi trục lợi trong
hoạt động KDBH, góp phần vào sự phát triển
lành mạnh, ổn định của TTBH Việt Nam.
2. Tình hình trục lợi bảo hiểm trong kinh
doanh bảo hiểm
Sự phát triển nhanh chóng của TTBH đã
kéo theo tình trạng một số đối tượng lợi dụng
sơ hở của pháp luật và thực tiễn kinh doanh,
lợi dụng sự thiếu chuyên nghiệp của DNBH
trong việc giải quyết các khiếu nại bảo hiểm
để thu lợi bất chính, gây thiệt hại về vật chất,
uy tín cho DNBH, xâm phạm đến quyền và
lợi ích chính đáng của người TGBH, đồng
thời ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững
của TTBH nước ta.

2

Nguồn: Báo cáo phục vụ Hội nghị thường niên thị trường bảo hiểm năm 2015 - Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài
chính.

3

Nguồn: Báo cáo phục vụ Hội nghị thường niên thị trường bảo hiểm năm 2015 - Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài
chính.


4

Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình thị trường bảo hiểm năm 2015 và định hướng phát triển thị trường bảo hiểm năm 2016
(Tài liệu phục vụ Hội nghị thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2016 - Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính).

5

Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình thị trường bảo hiểm năm 2015 và định hướng phát triển thị trường bảo hiểm năm 2016
(Tài liệu phục vụ Hội nghị thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2016 - Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính).
NGHIÏN CÛÁU

Sưë 07(311) T4/2016

LÊÅP PHẤP

43


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT
Thời gian qua, các hành vi vi phạm pháp
luật trong KDBH mang một số đặc điểm
đáng chú ý sau:
Một là, số lượng các vụ TLBH gia tăng
qua các năm.
Hai là, vi phạm pháp luật xảy ra ở hầu
hết các loại hình nghiệp vụ, trong tất cả các
khâu nghiệp vụ KDBH.
Ba là, hành vi vi phạm pháp luật không
rời rạc, riêng lẻ mà đã xuất hiện ngày càng
nhiều các trường hợp có sự cấu kết, thơng

đồng với nhau để trục lợi.
Bốn là, hành vi vi phạm pháp luật trong
KDBH đã trở nên tinh vi, phức tạp hơn.
Năm là, thiệt hại do hành vi vi phạm
pháp luật trong KDBH gây ra thường rất lớn.
Các đặc điểm trên xuất hiện trong cả hai
lĩnh vực KDBH nhân thọ và bảo hiểm phi
nhân thọ, chủ yếu là hành vi nhằm trục lợi
tiền bảo hiểm từ DNBH thông qua các vi
phạm pháp luật trong xét nhận bồi thường
bảo hiểm. Phần lớn các DNBH chỉ phát hiện
ra hành vi TLBH khi xảy ra sự kiện bảo hiểm
và yêu cầu bồi thường. Đối tượng vi phạm
rất đa dạng gồm: (i) khách hàng (bên mua
bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ
hưởng); (ii) Nhân viên bảo hiểm, đại lý bảo
hiểm; (iii) Bên thứ ba có liên quan (như:
người giám định, người sửa chữa, thay thế
tài sản bị thiệt hại; người tham gia vào quá
trình điều trị cho người được bảo hiểm; cơ
sở y tế, cơ sở khám chữa bệnh...). Các hành
vi vi phạm chủ yếu là các hành vi liên quan
đến: (i) công tác khai thác và thẩm định hồ
sơ yêu cầu bồi thường hoặc (ii) chi trả quyền
lợi bảo hiểm. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, nhóm hành vi TLBH liên quan
đến cơng tác thu phí, khai thác, thẩm định hồ
sơ yêu cầu bảo hiểm và quản lý HĐBH
Trong nhóm này, có những hành vi xảy
ra ở cả hai loại hình bảo hiểm nhân thọ và

phi nhân thọ, có hành vi chỉ xảy ra ở một loại
hình là bảo hiểm phi nhân thọ, gồm:
- Khách hàng cố ý khơng cung cấp thơng

44

NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP

Sưë 07(311) T4/2016

tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật, các
thông tin liên quan đến tình trạng của đối
tượng được bảo hiểm (như tình trạng sức
khoẻ của bản thân trong hồ sơ yêu cầu bảo
hiểm...) nhằm đạt mục đích được TGBH.
Hành vi này xảy ra ở nghiệp vụ bảo hiểm sức
khỏe và hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ. Ví dụ: người được bảo hiểm đã từng
điều trị cai nghiện ma túy, nghiện rượu hoặc
đã mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh có sẵn
trước khi TGBH, nhưng khơng khai báo
hoặc khai báo không trung thực.
- Giả mạo hồ sơ để TGBH khi sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Đây là trường hợp mà trước
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, đối tượng bảo
hiểm chưa tham gia HĐBH. Sau khi sự kiện
bảo hiểm xảy gây thiệt hại (như người đã bị
tử vong, thương tật hoặc tài sản đã bị hỏng,

bị tổn thất) mới TGBH. Loại hành vi này xảy
ra ở hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân
thọ, bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm sức
khỏe. Hành vi này chủ yếu xảy ra do người
TGBH thông đồng với nhân viên bảo hiểm,
đại lý bảo hiểm.
- Đại lý bảo hiểm làm khống hồ sơ u
cầu bảo hiểm dựa trên thơng tin có thật về
khách hàng để giao kết hợp đồng dưới tên,
tuổi của khách hàng nhằm đạt kết quả thi đua
trong một giai đoạn nhất định, sau đó sẽ yêu
cầu hủy hợp đồng.
- Đại lý bảo hiểm cố tình giữ HĐBH của
khách hàng đến khi hết thời gian tự do cân
nhắc (14 hoặc 21 ngày kể từ ngày doanh
nghiệp phát hành hợp đồng) nhằm được
hưởng hoa hồng bảo hiểm.
- Khi khách hàng thông báo cho đại lý
về yêu cầu hủy bỏ HĐBH trong thời gian 02
năm đầu. Thơng thường, các HĐBH nhân
thọ sẽ có giá trị hoàn lại sau 2 năm. Nếu
khách hàng hủy hợp đồng trong 2 năm đầu
sẽ không nhận được giá trị hoàn lại. Trong
các trường hợp đề nghị hủy bỏ hợp đồng
trong thời gian 2 năm đầu, đại lý làm các thủ
tục giả mạo (giấy tờ viết tay) để hoàn trả cho


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT
khách hàng một khoản tiền nhỏ (nhưng thực

tế khách hàng sẽ khơng được hưởng gì nếu
theo cam kết tại HĐBH), sau đó tiếp tục giả
mạo khách hàng đóng phí thêm từ 1 - 2 kỳ
cho HĐBH. Khi hợp đồng có hiệu lực trên
02 năm và có giá trị hoàn lại, đại lý yêu cầu
hủy hợp đồng nhằm hưởng số tiền chênh
lệch.
Thứ hai, nhóm các hành vi TLBH liên
quan đến công tác giám định, giải quyết bồi
thường hoặc chi trả quyền lợi bảo hiểm,
gồm:
- Tự gây thiệt hại để được nhận tiền bồi
thường bảo hiểm hoặc chi trả quyền lợi bảo
hiểm. Hành vi TLBH này chủ yếu xảy ra ở
nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tài
sản và thiệt hại, bảo hiểm thân tàu (trong lĩnh
vực bảo hiểm phi nhân thọ); sản phẩm bảo
hiểm hỗn hợp, tử kỳ bệnh hiểm nghèo (trong
lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ) và nghiệp vụ
bảo hiểm sức khỏe như: (i) người được bảo
hiểm tự ý gây thương tích để nhận tiền bồi
thường, hoặc chủ xe cơ giới tự phá hỏng các
bộ phận của xe hoặc hủy hoại dưới hình thức
đốt xe, lao xe xuống vực (chủ yếu là xe cũ);
tự đốt nhà xưởng; tự làm chìm tàu để địi tiền
bồi thường bảo hiểm...
- Lập hồ sơ giả, hiện trường giả, thay
đổi tình tiết vụ tai nạn. Hành vi TLBH này
xảy ra ở hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm phi
nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm

hỗn hợp, tử kỳ bệnh hiểm nghèo (trong lĩnh
vực bảo hiểm nhân thọ), như: người được
bảo hiểm không nằm viện nhưng vẫn lập
giấy tờ giả/bệnh án khống (để thuộc phạm vi
bảo hiểm) để được thanh toán quyền lợi hỗ
trợ nằm viện hoặc được bệnh viện xác nhận
số ngày nằm viện nhiều hơn số ngày nằm
viện thực tế để được hưởng quyền lợi bảo
hiểm; người được bảo hiểm tử vong trên
giường bệnh nhưng vẫn có chứng từ xác
nhận người được bảo hiểm tử vong do tai nạn
giao thông để được hưởng quyền lợi bảo
hiểm hỗ trợ cao hơn, hoặc lái xe gây tai nạn
khơng có Giấy phép lái xe, sau đó thay thế

người khác có Giấy phép lái xe; hai bên chủ
xe phối hợp làm hai bộ hồ sơ khác nhau
trong cùng một vụ tai nạn hoặc chủ xe thông
đồng dựng hiện trường giả vụ tai nạn; căn cứ
một vụ tai nạn giao thơng có thật để mua bảo
hiểm, lập hồ sơ giả đòi bồi thường ở nhiều
công ty bảo hiểm; người được bảo hiểm thay
đổi tên thuyền trưởng (khi thuyền trưởng lái
tàu tại thời điểm xảy ra tai nạn khơng có
bằng lái);....
- Khai tăng hoặc khai khống mức độ tổn
thất, sự kiện bảo hiểm. Hành vi này xảy ra ở
nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới (trong lĩnh
vực bảo hiểm phi nhân thọ), nghiệp vụ bảo
hiểm sức khỏe và sản phẩm bảo hiểm hỗn

hợp, tử kỳ bệnh hiểm nghèo (trong lĩnh vực
bảo hiểm nhân thọ), như: người được bảo
hiểm thông đồng với nhân viên giám định,
bác sỹ, cơ sở khám, chữa bệnh, khai tăng
hoặc khai khống số tiền viện phí, tiền điều
trị, tiền thuốc hoặc yêu cầu bác sỹ kê nhiều
loại thuốc đắt tiền nhưng khi mua thuốc lại
không mua các loại thuốc này mà sử dụng
đơn thuốc này để yêu cầu bảo hiểm chi trả
quyền lợi bảo hiểm nhằm mục đích trục lợi;
người được bảo hiểm cấu kết với các cơ sở
sửa chữa xe kê khai số lượng và mức độ tổn
thất, sự kiện bảo hiểm của các bộ phận lớn
hơn tổn thất thực tế. Việc khai báo gian dối
này chủ yếu do các chủ xe tự thực hiện trong
quá trình tự ý tháo dỡ, thay thế các chi tiết
và các bộ phận xe cơ giới khi đưa xe vào
xưởng sửa chữa, đổi các phụ tùng không
hỏng bằng các phụ tùng hư hỏng, sau đó
thơng báo cho nhân viên giám định đến giám
định hoặc thông đồng với cả nhân viên giám
định và chủ xưởng để trục lợi; hoặc người
được bảo hiểm cấu kết với nhân viên giám
định khai tăng số tài sản bị thiệt hại…
3. Thực tiễn xử lý các hành vi trục lợi bảo
hiểm
Tính đến nay, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền chưa xử phạt được trường hợp
nào liên quan đến hành vi TLBH. Bên cạnh
NGHIÏN CÛÁU


Sưë 07(311) T4/2016

LÊÅP PHẤP

45


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT
đó, những vụ việc tranh chấp trong lĩnh vực
KDBH do Tòa án thụ lý, giải quyết cũng
chưa xử lý được bất kỳ tổ chức, cá nhân nào
liên quan đến hành vi TLBH.
Thực tiễn giải quyết các vụ vi phạm
trong lĩnh vực KDBH, nhất là hành vi TLBH
cho thấy, việc áp dụng các loại chế tài pháp
lý như hiện nay mới chỉ đáp ứng được một
phần yêu cầu quản lý thực tế, chưa đủ sức
răn đe đối với các vi phạm pháp luật có liên
quan đến hành vi TLBH. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với chế tài xử phạt hành
chính: Do thực tế biến đổi nhanh chóng,
hành vi trục lợi ngày càng tinh vi nên Nghị
định số 98/2013/NĐ-CP của Chính phủ chưa
bao quát được hết các hành vi TLBH cũng
như các đối tượng TLBH trong thực tiễn.
Nghị định mới chỉ quy định xử phạt đối với
DNBH hoặc nhân viên của doanh nghiệp mà
chưa xử lý hành vi của đối tượng TGBH. Do
vậy, có những hành vi vi phạm xảy ra hoặc

có những đối tượng rõ ràng có hành vi TLBH
nhưng khơng có cơ sở pháp lý để xử phạt.
Hơn nữa, chế tài xử phạt hành chính tỏ ra
chưa đủ mạnh để răn đe, phòng ngừa các
hành vi TLBH. Điều này làm giảm hiệu quả
của chế tài xử phạt hành chính nói riêng và
cơng tác đấu tranh phịng, chống vi phạm
pháp luật trong KDBH nói chung, trong đó
có hành vi TLBH.
Thứ hai, đối với chế tài dân sự: Pháp luật
về KDBH đã có những quy định cụ thể, tạo
điều kiện cho DNBH từ chối bồi thường
hoặc hủy hợp đồng khi phát hiện ra những
hành vi gian dối, TLBH. Trường hợp có
tranh chấp về HĐBH sẽ được giải quyết tại
Tòa án dân sự. Tuy nhiên, trên thực tế, phán
quyết của Tòa án dân sự chỉ dừng lại ở việc
tuyên DNBH có phải bồi thường hay khơng
(hậu quả về vật chất). Phán quyết này chưa
có tính răn đe cao đối với những trường hợp
TLBH.
Thứ ba, đối với chế tài hình sự: Bộ luật
Hình sự năm 2015 (BLHS) sửa đổi, bổ sung

46

NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP


Sưë 07(311) T4/2016

đã có hiệu lực từ 1/7/2016. Tội danh “gian
lận bảo hiểm” trong BLHS đã được quy định
theo hướng xử lý toàn diện các đối tượng
thực hiện hành vi gian lận bảo hiểm (DNBH,
người TGBH và các đối tượng khác có liên
quan). Việc bổ sung tội danh “gian lận bảo
hiểm” cũng đảm bảo tương xứng với các tội
danh khác và phù hợp với thơng lệ quốc tế,
góp phần ngăn ngừa hành vi gian lận bảo
hiểm và lành mạnh hóa TTBH Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thời gian BLHS chưa
có hiệu lực thì việc xử lý hình sự đối với
người có hành vi TLBH được các cơ quan tố
tụng thực hiện thông qua việc vận dụng các
quy định của BLHS năm 2005 về các tội
danh tương ứng như: tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản (Điều 139), tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản (Điều 140); tội sửa chữa,
sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của
cơ quan, tổ chức (Điều 266); tội làm giả con
dấu, tài liệu cơ quan tổ chức (Điều 267); tội
tham ô tài sản (Điều 278). Việc vận dụng các
điều khoản có sẵn trong BLHS để xử lý là
cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Tuy nhiên, việc xử lý hành vi TLBH theo các
tội danh này chưa phản ánh đúng bản chất
của hành vi vi phạm, chưa thể hiện được tính
đặc thù của các hành vi vi phạm trong lĩnh

vực KDBH. Điều này đã phần nào làm giảm
tác dụng phòng, ngừa và đấu tranh phòng,
chống các loại hành vi liên quan đến TLBH.
4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kinh
doanh bảo hiểm để ngăn ngừa trục lợi bảo
hiểm
4.1 Hoàn thiện quy định về HĐBH
Chương II Luật KDBH có các quy định
chung, quy định về HĐBH con người,
HĐBH tài sản và HĐBH trách nhiệm dân sự.
Về cơ bản, các quy định này đã đảm bảo rõ
ràng, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc
tế. Song, để đảm bảo hiệu quả hơn trong việc
ngăn ngừa TLBH, theo chúng tơi, cần phải
hồn thiện một số quy định sau:
Một là, quy định về quyền lợi có thể


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT
được bảo hiểm: Theo quy định tại khoản 9
Điều 3 Luật KDBH, quyền lợi có thể được
bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa
vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng
được bảo hiểm. Theo quy định này, mục đích
của bảo hiểm chỉ đạt được nếu bên mua bảo
hiểm có lợi ích bảo hiểm, từ đó tránh được
tình trạng TLBH. Theo đó, người TGBH
phải có một số quan hệ với đối tượng được
bảo hiểm và được pháp luật công nhận.

Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng bảo
hiểm cho tài sản của người khác, hoặc cố
tình gây thiệt hại, tổn thất để thu lợi từ bảo
hiểm. Tuy nhiên, khái niệm này còn chưa
phù hợp trong các trường hợp đã xảy ra trên
thực tế, đó là trường hợp chủ doanh nghiệp
mua bảo hiểm cho nhân viên của mình vì
giữa hai chủ thể này khơng có quyền lợi có
thể được bảo hiểm theo quy định của pháp
luật. Vì vậy, cần hồn thiện quy định này
theo hướng bổ sung quyền lợi có thể được
bảo hiểm ngồi các quyền nêu trên cịn có
các quyền lợi khác đối với người được bảo
hiểm, nếu được DNBH chấp thuận hoặc
pháp luật có quy định, đồng thời bổ sung
thêm những chủ thể có thể là bên mua bảo
hiểm tại khoản 2 Điều 31 Luật KDBH là tổ
chức mua bảo hiểm cho người lao động.
Hai là, quy định về hình thức HĐBH.
Theo quy định tại Điều 14 Luật KDBH,
HĐBH phải được lập thành văn bản mà
không quy định rõ gồm những văn bản nào.
Trên thực tế, HĐBH gồm nhiều văn bản khác
nhau tập hợp lại như đơn đề nghị bảo hiểm,
giấy chứng nhận bảo hiểm, điều khoản bảo
hiểm... Vì vậy, cần ghi nhận đây là các bộ
phận cụ thể tạo nên hình thức của hợp đồng.
Đồng thời quy định rõ trách nhiệm của
DNBH phải cung cấp đầy đủ các văn bản này
trong HĐBH để đảm bảo quyền lợi của

người TGBH. Ngoài ra, đối với HĐBH nhân
thọ, cần quy định rõ cách thức trình bày, in
ấn trong hợp đồng như: cỡ chữ, nội dung cần
in nổi bật... để tránh TLBH.

Ba là, quy định về nội dung HĐBH:
Theo quy định tại Điều 13 Luật KDBH,
HĐBH phải có các nội dung như tên, địa chỉ
của DNBH, bên mua bảo hiểm, người được
bảo hiểm hoặc người thụ hưởng; đối tượng
bảo hiểm, số tiền bảo hiểm... mà chưa đề cập
đến phần chữ ký của các bên TGBH và xác
nhận của DNBH. Để đảm bảo rõ ràng, minh
bạch, tránh TLBH, pháp luật cần có nội dung
này trong HĐBH. Tuy nhiên, để đảm bảo
linh hoạt, tránh thủ tục hành chính từ phía
DNBH, cũng nên có hướng dẫn cụ thể về
việc phân cấp, ủy quyền việc ký tên, đóng
dấu của DNBH trên đơn, giấy chứng nhận
bảo hiểm. Đối với loại chữ ký in sẵn, có thể
là chữ ký trực tiếp của đại diện DNBH hoặc
có thể thể hiện dưới dạng chữ ký in, chữ ký
điện tử và phải có quy định cụ thể về giá trị
pháp lý của các loại chữ ký này. DNBH phải
đăng ký chữ ký với cơ quan có thẩm quyền
và chịu trách nhiệm trước các mẫu chữ ký đã
đăng ký.
Bốn là, quy định về hậu quả của hợp
đồng vô hiệu: Theo quy định tại Điều 22
Luật KDBH, một trong các trường hợp

HĐBH vơ hiệu là do bên mua bảo hiểm hoặc
DNBH có hành vi lừa dối khi giao kết
HĐBH. Tuy nhiên, Điều 19 Luật KDBH quy
định “DNBH có quyền đơn phương đình chỉ
thực hiện HĐBH và thu phí bảo hiểm đến
thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng khi
bên mua bảo hiểm có hành vi cố ý cung cấp
thơng tin sai sự thật nhằm giao kết hợp
đồng…”. Như vậy, hậu quả pháp lý của “hợp
đồng vơ hiệu” và “đơn phương chấm
dứt/đình chỉ hợp đồng” theo các quy định
nêu trên là khác nhau, mặc dù đều cùng do
một nguyên nhân là hành vi lừa dối, cố ý
cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết
hợp đồng. Quy định này dẫn đến việc áp
dụng không thống nhất, phần lớn phụ thuộc
vào cách hiểu của cơ quan có thẩm quyền
giải quyết. Ngồi ra, quy định này dễ dẫn đến
tình trạng TLBH từ phía bên mua bảo hiểm.
Vì nếu áp dụng HĐBH vơ hiệu thì cùng với
NGHIÏN CÛÁU

Sưë 07(311) T4/2016

LÊÅP PHẤP

47


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT

việc hồn phí bảo hiểm, DNBH sẽ bị thiệt
hại như chi phí hoa hồng bảo hiểm, phát
hành hợp đồng...
Vì vậy, cần hồn thiện theo hướng bãi bỏ
quy định tại khoản 3 Điều 19 vì trong trường
hợp này, HĐBH sẽ vô hiệu theo quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 22 và sẽ xử lý theo quy
định tại khoản 2 Điều này. Ngoài ra, cần sửa
đổi điểm a khoản 2 Điều 19, theo đó bỏ cụm
từ “nhằm giao kết HĐBH”. Khi đó, khoản 2
Điều 19 sẽ áp dụng trong khi thực hiện
HĐBH với nội dung là DNBH có quyền đơn
phương đình chỉ thực hiện HĐBH và thu phí
bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ khi bên mua
bảo hiểm có một trong những hành vi như cố
ý cung cấp thông tin sai sự thật để được trả
tiền bảo hiểm hoặc cố ý không cung cấp
thông tin theo quy định của pháp luật.
Năm là, quy định về căn cứ bồi thường:
Theo quy định tại Điều 46 Luật KDBH, số
tiền bồi thường mà DNBH phải trả cho
người được bảo hiểm được xác định trên cơ
sở giá thị trường của tài sản tại thời điểm,
nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực
tế. Số tiền bồi thường mà DNBH trả cho
người được bảo hiểm không vượt quá số tiền
bảo hiểm, trừ trường hợp 2 bên có thỏa
thuận khác. Quy định này đã thể hiện được
nguyên tắc về giới hạn bồi thường trong
hoạt động KDBH. Tuy nhiên, còn một số

hạn chế như sau:
- Căn cứ để xem xét bồi thường trong
quan hệ bảo hiểm tài sản là “giá thị trường
của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm nơi
xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế”
chưa phù hợp, vì việc xác định giá thị trường
là một việc khá khó khăn do thực tế, giá thị
trường thường tính được đối với những tài
sản cịn mới, trong khi đó, có trường hợp bảo
hiểm là các tài sản đã qua sử dụng. Vì vậy,
việc xác định thiệt hại thực tế xảy ra đối với
tài sản bảo hiểm chỉ mang tính ước đoán, dễ
trở thành nguyên nhân dẫn đến TLBH khi
xảy ra tổn thất.

48

NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP

Sưë 07(311) T4/2016

- Mục đích của Điều 46 là nhằm ngăn
ngừa TLBH, trong khi đó lại cho phép các
bên thỏa thuận về số tiền bồi thường mà
không dựa vào căn cứ bồi thường. Do đó,
quy định trở nên thiếu tính nghiêm minh.
Vì vậy, cần hồn thiện quy định này theo
hướng cho phép DNBH và bên mua bảo

hiểm thống nhất với nhau về cách thức và
biện pháp xác định giá trị của tài sản bảo
hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra tổn thất.
Đồng thời tại khoản 1 và 2 Điều 46 Luật
KDBH, nên bỏ cụm từ “trừ trường hợp có
thỏa thuận khác trong HĐBH” để đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật.
Sáu là, quy định về HĐBH trên giá trị:
Theo quy định tại Điều 42 Luật KDBH,
DNBH và bên mua bảo hiểm không được
giao kết hợp đồng trong đó số tiền bảo hiểm
cao hơn giá thị trường của tài sản được bảo
hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. Pháp
luật cũng quy định trong trường hợp HĐBH
tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý
của bên mua bảo hiểm, DNBH phải hoàn lại
cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã
đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt
quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm,
sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan.
Đồng thời, trong trường hợp xảy ra sự kiện
bảo hiểm, DNBH chỉ chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại không vượt quá giá thị
trường của tài sản được bảo hiểm.
Để ngăn ngừa TLBH, chúng tơi có một
số ý kiến sau: thứ nhất, giữa khoản 1 và
khoản 2 Điều 42 quy định chưa thống nhất.
Khoản 1 Điều 42 quy định “DNBH và bên
mua bảo hiểm không được giao dịch HĐBH
tài sản trên giá trị”, trong khi đó khoản 2 lại

quy định “trong trường hợp HĐBH tài sản
trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên
mua bảo hiểm, DNBH phải hoàn lại bên mua
bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng
với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường
của tài sản được bảo hiểm sau khi trừ các chi
phí hợp lý có liên quan…”. Như vậy, quy
định ở khoản 1 là không cho phép nhưng ở


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT
khoản 2 lại thừa nhận sự tồn tại của hợp đồng
này; thứ hai, quy định về lỗi vơ ý ở khoản 2
mang tính định tính, khó xác định được tiêu
chí như thế nào là vơ ý, như thế nào là cố ý,
dễ dẫn đến suy đoán chủ quan, khó áp dụng
trên thực tế. Vì vậy, nên bỏ khoản 2 Điều 42
Luật KDBH để không thừa nhận sự tồn tại
của HĐBH tài sản trên giá trị. Trường hợp vi
phạm, hợp đồng sẽ vô hiệu theo quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh
bảo hiểm.
Bảy là, quy định về nghĩa vụ áp dụng các
biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất đối với
bên mua bảo hiểm: Để ngăn chặn ý đồ TLBH
của bên mua bảo hiểm, Điều 50 Luật KDBH
quy định người được bảo hiểm phải thực
hiện các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất
như: phịng cháy, chữa cháy, an tồn lao
động, vệ sinh lao động... nhằm bảo đảm an

toàn cho đối tượng bảo hiểm. Ngoài ra, Điều
51 Luật KDBH cũng quy định người được
bảo hiểm không được từ bỏ tài sản được bảo
hiểm, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác hoặc các bên có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, do tâm lý chạy theo khách
hàng, DNBH thường không chú trọng nhiều
đến quy định này do sợ bị đánh giá là gây
khó dễ, khơng ký HĐBH. Cịn bên TGBH
thường có tâm lý phó mặc, khơng chủ động
thực hiện các biện pháp phòng ngừa và hạn
chế tổn thất khi có rủi ro xảy ra. Từ đó nảy
sinh tranh chấp khi DNBH giải quyết quyền
lợi bảo hiểm. Do đó, cần thiết phải có chế tài
nặng hơn đối với hành vi vi phạm quy định
này.
4.2 Hoàn thiện các quy định về giám
sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Một là, quy định về cấp phép và thành
lập DNBH: Để ngăn ngừa việc chủ đầu tư
thành lập DNBH chỉ lấy danh nghĩa nhằm
TLBH, pháp luật KDBH đã đưa ra những rào
cản kỹ thuật khá khắt khe trong việc cấp
phép thành lập DNBH như điều kiện về vốn,
tiêu chuẩn người quản trị điều hành, hồ sơ...

Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác
ngăn ngừa TLBH, cần quy định chặt chẽ hơn
nữa về điều kiện của chủ đầu tư xin thành lập
cơng ty cổ phần bảo hiểm, theo hướng ngồi

các điều kiện chung, chủ đầu tư phải có tối
thiểu 02 cổ đông sáng lập là tổ chức đáp ứng
các điều kiện quy định và nắm giữ tối thiểu
20% số cổ phần phổ thông được quyền chào
bán của công ty cổ phần bảo hiểm, tái bảo
hiểm.
Hai là, quy định về dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm: Theo quy định hiện hành, DNBH
phải trích lập dự phòng nghiệp vụ theo từng
nghiệp vụ bảo hiểm tương ứng với phần
trách nhiệm của doanh nghiệp để đảm bảo
khả năng chi trả cho người TGBH khi có rủi
ro, tổn thất xảy ra. Tuy nhiên, quy định hiện
hành vẫn chưa bao quát được hết các loại dự
phòng nghiệp vụ. Vì vậy, để đảm bảo quyền
lợi cho người được bảo hiểm, cần bổ sung
các loại dự phòng nghiệp vụ khác như dự
phòng rủi ro thiên tai, dự phòng đảm bảo lãi
suất cam kết và dự phòng nghiệp vụ đối với
tái bảo hiểm phi nhân thọ, tái bảo hiểm nhân
thọ và tái bảo hiểm sức khỏe.
Ba là, quy định về quản trị rủi ro và kiểm
tra, kiểm soát nội bộ: Pháp luật về KDBH có
những quy định yêu cầu DNBH xây dựng và
thực hiện hoạt động quản trị doanh nghiệp
một cách thận trọng, cũng như đảm bảo khả
năng tự giám sát hoạt động kinh doanh của
chính mình để bảo vệ lợi ích của người
TGBH. Tuy nhiên, các quy định vẫn chung
chung, chưa chú trọng đến việc TLBH. Vì

vậy, cần hồn thiện quy định này theo hướng
quy trình kiểm sốt nội bộ cần được phân
tách thành từng khâu, từng nội dung nhưng
phải có sự liên hệ với nhau để kiểm sốt
đồng bộ. Cần đảm bảo khả năng tiếp nhận và
xử lý thông tin tốt và nhanh chóng từ nhiều
nguồn, có khả năng kiểm tra chéo để đảm
bảo chính xác.
Bốn là, quy định về phê chuẩn sản phẩm
bảo hiểm: Phê chuẩn là một thủ tục pháp lý
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
NGHIÏN CÛÁU

Sưë 07(311) T4/2016

LÊÅP PHẤP

49


THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT
hiện bày tỏ sự chấp thuận đối với sản phẩm
bảo hiểm sẽ được cung cấp ra thị trường.
Mục đích của việc phê chuẩn trước hết là để
cơ quan nhà nước thẩm tra tính hợp lý, hợp
pháp của sản phẩm bảo hiểm.
Theo quy định hiện hành, Bộ Tài chính
ban hành quy tắc, điều khoản, biểu phí đối
với các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc; hướng
dẫn thực hiện các sản phẩm bảo hiểm đặc thù

do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ
quyết định; phê chuẩn quy tắc, điều khoản
và biểu phí đối với các sản phẩm thuộc
nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm
sức khoẻ; đối với các sản phẩm bảo hiểm
khác thuộc nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ,
doanh nghiệp được phép chủ động xây dựng
và triển khai quy tắc, điều khoản và biểu phí
bảo hiểm. Trường hợp quy tắc, điều khoản,
biểu phí bảo hiểm khơng đảm bảo an tồn tài
chính, Bộ Tài chính sẽ u cầu DNBH điều
chỉnh cho phù hợp. Việc Bộ Tài chính phê
chuẩn quy tắc, điều khoản, biểu phí sẽ đảm
bảo rõ ràng khi thực hiện HĐBH, tránh các
quy định khó hiểu, phức tạp, dễ gây nhiều
cách hiểu khác nhau nhằm tránh TLBH từ cả
phía DNBH và người TGBH.
Tuy nhiên, quy định này vẫn còn một số
tồn tại hạn chế, nhất là đối với các sản phẩm
do DNBH chủ động triển khai. Các sản phẩm
này đã phát sinh nhiều khiếu nại về quy tắc,
điều khoản, cạnh tranh hạ phí, mở rộng điều
khoản, ảnh hưởng đến an tồn tài chính (tập
trung vào các sản phẩm thuộc nghiệp vụ bảo
hiểm xe cơ giới). Theo kinh nghiệm của một
số nước (Nhật Bản, Malaysia...), đối với các
sản phẩm có tỷ trọng doanh thu lớn (dễ xảy
ra cạnh tranh không lành mạnh), đối tượng
khách hàng chủ yếu là cá nhân (là bên yếu
thế trong đàm phán HĐBH), DNBH phải

đăng ký với cơ quan quản lý trước khi thực
hiện.
Vì vậy, để phù hợp với thực tiễn hoạt
động và thông lệ quốc tế, tránh TLBH, cần
bổ sung quy định DNBH phải đăng ký quy
tắc, điều khoản, biểu phí với Bộ Tài chính

50

NGHIÏN CÛÁU

LÊÅP PHẤP

Sưë 07(311) T4/2016

đối với các sản phẩm bảo hiểm thuộc nghiệp
vụ bảo hiểm xe cơ giới (trừ bảo hiểm bắt
buộc TNDS của chủ xe cơ giới) trước khi
triển khai. Bộ Tài chính sẽ hướng dẫn chi tiết
việc xây dựng quy tắc, điều khoản và biểu
phí của sản phẩm bảo hiểm thuộc nghiệp vụ
bảo hiểm xe cơ giới. Bên cạnh đó, khi xin
phê chuẩn sản phẩm bảo hiểm, DNBH phải
có thuyết minh về nội dung và tác động của
từng nội dung của điều khoản bảo hiểm để
tránh hiểu nhầm, tránh TLBH.
Năm là, quy định về nghĩa vụ minh bạch
thông tin: Theo quy định hiện hành, DNBH
phải công khai thơng tin trong q trình hoạt
động của mình. Tuy nhiên, để đảm bảo ngăn

ngừa TLBH có hiệu quả, cần quy định cụ thể
hơn vấn đề công khai thông tin về sản phẩm
bảo hiểm, theo đó u cầu DNBH phải cơng
bố đầy đủ nội dung điều khoản trên trang
thông tin điện tử trước và trong quá trình
triển khai sản phẩm bảo hiểm; đồng thời quy
định rõ chế tài xử phạt đại lý trong trường
hợp khơng giải thích đầy đủ với khách hàng;
quy định về trách nhiệm trao đổi cơ sở dữ
liệu khách hàng giữa các DNBH để hạn chế
TLBH, tập trung vào các trường hợp phải
trao đổi thông tin, phương thức trao đổi và
trách nhiệm của DNBH trong việc sử dụng
các thông tin đã trao đổi.
Sáu là, quy định về nội dung giám sát và
phương thức quản lý, giám sát: Theo quy
định hiện hành, nội dung giám sát được thực
hiện thông qua việc quản lý, giám sát các
hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài chính,
quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và việc
chấp hành pháp luật của DNBH và có thể áp
dụng các biện pháp cần thiết để DNBH bảo
đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện
các cam kết với bên mua bảo hiểm.
Đối với phương thức giám sát, Luật
KDBH và các văn bản hướng dẫn thi hành
không có quy định cụ thể. Tuy nhiên, thơng
qua các quy định về quyền hạn và trách
nhiệm của cơ quan quản lý giám sát, có thể
thấy việc giám sát có thể được thực hiện theo



THÛÅC TIÏỴN PHẤP LÅT

cả hai phương thức là giám sát trực tiếp và
giám sát gián tiếp (giám sát từ xa và giám sát
tại chỗ). Phương thức giám sát gián tiếp
được thực hiện thông qua các hoạt động cấp
phép, phê chuẩn hoặc chấp thuận của Bộ Tài
chính. Giám sát trực tiếp được thực hiện
thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra
tại DNBH.
Trên thực tế, thông qua các nội dung,
phương thức giám sát, cơ quan quản lý đã
phát hiện và xử lý nhiều sai phạm của DNBH
trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tuy
nhiên, các quy định này còn một số tồn tại
như mục tiêu giám sát còn chung chung, chưa
đề cập riêng đến mục tiêu ngăn ngừa TLBH;
chưa nhấn mạnh đến mơ hình giám sát nội bộ
mà DNBH cần phải xây dựng để đánh giá
khả năng thanh toán và quản lý của DNBH
nhằm đảm bảo cho sự an toàn trong hoạt
động kinh doanh của mình. Vì vậy, cần phải
hồn thiện quy định về nội dung giám sát,
nhất là quy định về mơ hình giám sát nội bộ
của DNBH vì nếu DNBH thực hiện tốt việc
tự giám sát sẽ hạn chế được TLBH. Theo đó,
cần quy định quy trình kiểm sốt nội bộ phải


hướng đến mục tiêu phòng ngừa và hạn chế
rủi ro hơn là chỉ đảm bảo nguyên tắc tuân
thủ. Cần có tiêu chí rõ ràng, nhất qn và có
thể định lượng được nhằm phản ánh chính
xác tình hình của DNBH, tránh TLBH.
4.3 Xây dựng các quy định riêng nhằm
ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm
Hiện nay, các quy định của pháp luật về
phòng, chống TLBH đang được thể hiện gián
tiếp qua các quy định tại Luật KDBH, Nghị
định số 45/2007/NĐ-CP, Nghị định số
46/2007/NĐ-CP,
Nghị
định
số
123/2011/NĐ-CP, Thông tư số 124/2012/TTBTC, Thông tư số 125/2012/TT-BTC... áp
dụng chủ yếu đối với DNBH và người
TGBH mà chưa có một văn bản quy định
riêng, tồn diện, đầy đủ và đồng bộ để ngăn
ngừa TLBH áp dụng đối với tất cả các đối
tượng liên quan đến quy trình thực hiện bảo
hiểm (DNBH, trung gian bảo hiểm, người
TGBH, cơ sở giám định bồi thường, cơ quan
quản lý nhà nước...). Vì vậy, về lâu dài, để
ngăn chặn được TLBH một cách hiệu quả,
cần thiết phải xây dựng hệ thống quy định
riêng về ngăn ngừa TLBH n
NGHIÏN CÛÁU

Sưë 07(311) T4/2016


LÊÅP PHẤP

51



×